Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Vấn đề sử dụng người khuyết tật tại hàn quốc trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.59 KB, 11 trang )

Nghiên cứu khoa học
Kinh tế xã hội
Vấn đề sử dụng lao động khuyết tật ở hàn quốc
Những năm gần đây
Tống thùy linh*

Túm tt: Nm 1990, Lut v Thỳc y tuyn dng v o to ngh cho ngi khuyt tt
chớnh thc cú hiu lc ti Hn Quc. T ú n nay, Chớnh ph Hn Quc ó trin khai
nhiu chng trỡnh nhm tng t l lao ng khuyt tt. Bi vit di õy s phỏc ha thc
trng s dng lao ng khuyt tt Hn Quc (20082013) v ch rừ nguyờn nhõn ca
nhng tn ti trong vn s dng lao ng khuyt tt.
T khúa: Hn Quc, Lao ng khuyt tt, Hn ngch lao ng khuyt tt
1. Thc trng s dng lao ng khuyt
tt Hn Quc
1.1. Nhng u im ỏng lu ý trong s
dng lao ng khuyt tt
- V s lng ngi khuyt tt ti Hn
Quc*
Theo Vin Nghiờn cu y t v cỏc vn
xó hi Hn Quc (KIHASA), s ngi
khuyt tt ti nc ny ang tng nhanh
trong nhng nm gn õy. Nm 2000, s
ngi khuyt tt ch l 1,45 triu ngi,
nhng n nm 2005 ó tng lờn 2,15 triu
ngi. Nm 2008, tng s ngi khuyt tt
Hn Quc l 2,137 triu ngi, chim
khong 4,59% dõn s1. Song tớnh n cui
nm 2011, s ngi khuyt tt l 2,68 triu
ngi, gn gp ụi so vi nm 2000 v
*


ThS, Vin Nghiờn cu ụng Bc
Sun-Kyoo KIM (2010), Status of higher education and
employment of the Disabled in Korea Centering on
vocational competency development services of Korea,
NTUT Education of Disabilities 2010 Vol.8, p.35.
1

24

chim khong 5,61% dõn s2. Nguyờn nhõn
mt phn xut phỏt t vic m rng hng
mc khuyt tt t 5 lờn 15, bao gm nhng
thay i v khuyt tt cỏc b phn c th
trong nm 2000 v 2003. Tuy nhiờn, phn
ln s gia tng ny l kt qu ca s gia tng
ca ngi cao niờn mc cỏc bnh tui gi
dn ti khuyt tt. Theo bỏo cỏo nm 2012
ca KIHASA, s ngi trờn 65 tui chim
ti 38,8% s ngi khuyt tt, tip theo l
nhng ngi trong tui 50-64 chim
31,2%. Tớnh n thỏng 9/2012, s ngi cao
tui ó chim ti 12% tng dõn s, d bỏo s
t 24,3% vo nm 2030 v 37,4% nm
2050. Do vy, trong tng lai, cựng vi tc
gi húa dõn s nhanh, s ngi khuyt tt
ti Hn Quc s cũn tng hn nhiu.
T l ngi khuyt tt trong dõn s cao s
dn ti nhiu vn kinh t-xó hi nh: t l
2


/>/116_126221.html.

Nghiên cứu đông bắc á, số 8(162) 8-2014


Nghiªn cøu khoa häc
thất nghiệp tăng, khó khăn kinh tế... Năm
2011, tỷ lệ thất nghiệp của người khuyết tật
ở Hàn Quốc là 8,3%, lớn gấp 2,5 lần so với
tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước (3,3%).
Thu nhập trung bình hàng tháng của gia đình
có người khuyết tật là 1.819.000 won, chỉ
bằng 54% so với mức thu nhập trung bình
hàng tháng của gia đình Hàn Quốc3. Các số
liệu trên cho thấy, nguy cơ sống trong nghèo
đói của người khuyết tật tại Hàn Quốc khá
cao. Bởi vậy, tạo việc làm cho người khuyết
tật nhằm giảm nguy cơ nghèo đòi, giảm tỷ lệ
thất nghiệp… là một trọng tâm trong chính
sách lao động của Chính phủ Hàn Quốc
nhiều năm qua.
- Hạn ngạch lao động khuyết tật đóng vai
trò chủ yếu trong việc thúc đẩy việc làm cho
người khuyết tật
Tại Hàn Quốc, có 4 đạo luật liên quan tới
người khuyết tật: Luật Thúc đẩy giáo dục
đặc biệt năm 1997, Luật Phúc lợi cho người
khuyết tật năm 1981, Luật về Thúc đẩy
tuyển dụng và đào tạo nghề cho Người
Khuyết tật năm 1990 (EPLDP) và Luật Tiếp

cận cho người già và người khuyết tật năm
1997. Trong đó, luật EPLDP 1990 đóng vai
trò quan trọng trong việc tăng cường việc
làm cho người khuyết tật.
Ban đầu, luật EPLDP đưa ra tỷ lệ lao
động khuyết tật với cơ quan, tổ chức có từ
300 nhân viên trở lên với hạn ngạch tăng qua
các năm: 1% (1990), 1,6% (1992), 2%
(1993). Sau đó, luật đã được sửa đổi năm
3

Dongug Kang (2012), “Why would companies not
employ people with disabilities in Korea?”, Asia Pacific
Journal of Social Work and Development, Vol.23, No.3,
p.222-229.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014

2004 và 2009 với các quy định mới: hạn
ngạch lao động khuyết tật bắt buộc được mở
rộng đối với nơi làm việc có từ 50 nhân viên
trở lên; tỷ lệ lao động khuyết tật trong cơ
quan chính quyền địa phương, trung ương là
3%; khuyến khích người sử dụng lao động
thuê người khuyết tật nặng và phụ nữ khuyết
tật4. Đến năm 2010, luật quy định: tỷ lệ lao
động khuyết tật trong doanh nghiệp nhà
nước, cơ quan bán công cũng tăng từ 2% lên
3%. Đối với doanh nghiệp tư nhân, luật cũng
luôn đưa ra hạn ngạch lao động khuyết tật

điều chỉnh theo hướng tăng dần, từ 2,3%
(2010) lên 2,5% (2012) và 2,7% (2014). Bên
cạnh đó, luật cũng đưa ra những chế tài và
ưu đãi đối doanh nghiệp thực hiện tốt. Cụ
thể, nếu chủ sử dụng từ 100 lao động trở lên
không đáp ứng tỷ lệ việc làm bắt buộc sẽ
phải chịu một khoản thuế việc làm cho
người
khuyết
tật

590.000
won/tháng/người cho số người còn thiếu để
đạt được mức hạn ngạch 5 . Các nhà tuyển
dụng có tỷ lệ lao động khuyết tật cao hơn
mức hạn ngạch sẽ được nhận trợ cấp
300.000~500.000 won cho mỗi một lao động
tăng thêm (phụ thuộc vào giới tính và tỷ lệ
khuyết tật)6.
Nhờ những điều chỉnh kịp thời trong mức
hạn ngạch, tỷ lệ lao động khuyết tật trong
khu vực bắt buộc phải thuê lao động khuyết
tật luôn tăng, đạt 2,35% năm 2012, gấp hơn
4

Chon-Kyun Kim (2011), “Comparative Perspectives on
Disability Employment Policy”, International Review of
Public Administration 2011, Vol.15, No.3, p.29.
5
2013 Employment and Labour Policy in Korea, p. 47.

6
Kim, Jeong-yeon (2011), “Diversity management and
the disability employment strategy”, Korea Labour
Review, p.12.

25


Nghiªn cøu khoa häc
5 lần so với tỷ lệ 0,43% năm 1991 khi hệ
thống hạn ngạch bắt đầu hoạt động. Số lao
động khuyết tật trong hệ thống này tăng gấp
13 lần từ 10.462 người (năm 1991) lên
142.022 người (vào cuối năm 2012) 7 . Kết
quả trên thể hiện tầm quan trọng, tính hiệu
quả của hạn ngạch lao động trong việc tăng
cường việc làm cho người khuyết tật ở Hàn
Quốc.
Nếu so với quốc gia láng giềng là Nhật
Bản, hạn ngạch lao động khuyết tật ở Hàn
Quốc cao hơn. Năm 1960, trước Hàn Quốc
30 năm, Nhật Bản đã có luật thúc đẩy việc
làm cho người khuyết tật và tiến hành sửa
đổi nhiều lần, nhưng hạn ngạch lao động
khuyết tật khá thấp. Theo quy định năm
2006, hạn ngạch lao động khuyết tật tại cơ
quan nhà nước (có từ 48 nhân viên) và
doanh nghiệp tư nhân (có từ 56 nhân viên)
trở lên chỉ phải đạt tỷ lệ tương ứng là 2,1%
và 1,8%8. Do vậy, có thể thấy, hạn ngạch lao

động khuyết tật tại nơi làm việc của Hàn
Quốc cao hơn nhiều so với Nhật Bản. Tuy
nhiên, nếu so với các quốc gia OECD khác
cùng áp dụng hệ thống hạn ngạch việc làm
này như Australia, Đức, Pháp… hạn ngạch
lao động khuyết tật của Hàn Quốc vẫn thấp
hơn. Ở Australia, tại nơi làm việc thuộc khu
vực nhà nước hay tư nhân, đều phải đáp ứng
hạn ngạch 4% lao động khuyết tật. Luật yêu
cầu người sử dụng từ 24 nhân viên trở lên
phải thuê 1 người khuyết tật. Nếu không đáp

ứng được mức hạn ngạch, doanh nghiệp sẽ
phải trả một “mức thuế ngang bằng” tối
thiểu là 238 euro mỗi tháng. Tại Đức, người
sử dụng từ 20 nhân viên trở lên đều phải bố
trí 5% lao động khuyết tật nặng. Nếu không
đáp ứng hạn ngạch, doanh nghiệp, tổ chức
phải chịu mức phạt hàng tháng là 105 euro
nếu chỉ đạt hạn ngạch từ 3% đến dưới 5%,
180 euro nếu chỉ đạt từ 2% đến dưới 3% và
260 euro nếu chỉ đạt dưới 2%9. Bởi vậy, nếu
so với Australia, Đức,… hệ thống hạn ngạch
việc làm cho người khuyết tật tại Hàn Quốc
còn thấp và “khá thoáng” (chưa chặt chẽ).
- Tỷ lệ người khuyết tật có việc làm tăng
dần qua các năm
Kể từ năm 1990 khi áp dụng “một hệ
thống việc làm mang tính bắt buộc dành cho
người khuyết tật”, tỷ lệ người khuyết tật có

việc làm tại Hàn Quốc luôn tăng dần qua
từng năm. Nếu năm 1991, tỷ lệ lao động
khuyết tật chỉ đạt 0,43% thì đến năm 2012
đạt 2,35% (tăng gấp 5 lần) và năm 2013 đã
đạt 2,48% (tức tăng gần 6 lần).
Nhìn bảng 1 có thể thấy, từ năm 2008 đến
nay, tỷ lệ lao động khuyết tật tại Hàn Quốc
năm sau luôn tăng so với năm trước. Trong 3
năm liên tiếp từ 2011-2013, mức tăng của tỷ
lệ người khuyết tật có việc làm dao động ở
mức 0,07% – 0,13%. Điều này chứng tỏ tính
hiệu quả của hạn ngạch lao động khuyết tật
đối với cả khu vực nhà nước và tư nhân.

7

2013 Employment and Labour Policy in Korea, p. 47.
Chon-Kyun Kim (2011), “Comparative Perspectives on
Disability Employment Policy”, International Review of
Public Administration 2011, Vol.15, No.3, p.29.
8

26

9

/>otas-or-no-quotas/.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014



Nghiªn cøu khoa häc
Bảng 1: Tỷ lệ lao động khuyết tật ở nơi làm việc phải tuân thủ
hạn ngạch việc làm bắt buộc
Năm
1991 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tỷ lệ lao động khuyết tật (%) 0,43 1,54 1,73 1,87 2,24 2,28 2,35 2,48
Tăng so với năm trước
0,19 0,14 0,37 0,04 0,07 0,13
Bảng 2: Chi tiết tỷ lệ lao động khuyết tật ở nơi làm việc phải tuân thủ
hạn ngạch việc làm bắt buộc (12/2013)
Năm
Tổng số

quan
Chính
phủ

Viên chức
Người lao
động
Nhà nước

Doanh
nghiệp
Tư nhân

2011
2012
2013

2011
2012
2013
2011
2012
2013
2011
2012
2013
2011
2012
2013

Số nơi làm
việc
24.083
25.688
27.349
81
312
293
293
257
261
23.452
24.822
26.473

Số lao động Số lao động Tỷ lệ lao
chính thức

khuyết tật động (%)
6.909.276
133.451
2,28
7.199.417
140.022
2,35
153.955
2,48
824.067
18.141
2,52
831.469
18.725
2,57
19.275
2,63
247.550
4.857
2,35
260.814
5.629
2,75
7.082
3,51
305.971
7.427
2,72
302.435
7.548

2,80
7.764
2,81
5.531.688
103.026
2,22
5.804.699
110.120
2,27
119.834
2,39

Nguồn: Tổng hợp từ 2012, 2013 Employment and Labour Policy in Korea và Korea
Employment Agency for the Disabled, News Letter, Issue 103 (April, 2014) tại địa chỉ
/>Nhìn bảng 2 có thể thấy, ba năm gần đây, mẹ công ty con) nhằm tăng việc làm cho
số nơi làm việc phải tuân thủ hạn ngạch việc người khuyết tật nặng và tạo điều kiện cho
làm luôn tăng và tỷ lệ lao động khuyết tật doanh nghiệp có thể thực hiện nghĩa vụ. Cụ
vẫn duy trì tốc độ tăng ổn định. Tại các cơ thể, khi công ty mẹ thiết lập hoặc điều hành
quan chính phủ, tỷ lệ lao động khuyết tật một công ty con đáp ứng các yêu cầu nhất
(gồm viên chức và người lao động) luôn định nhằm thuê lao động khuyết tật, thì số
tăng và cao hơn so với khu vực doanh lao động công ty con thuê sẽ được tính vào
tỷ lệ lao động khuyết tật của công ty mẹ.
nghiệp (nhà nước và tư nhân)
- Doanh nghiệp nhận nhiều hỗ trợ nếu Như vậy, chủ doanh nghiệp sẽ được miễn
tiền thuế việc làm lao động khuyết tật. Ngoài
thuê lao động khuyết tật
Từ năm 2008, Chính phủ Hàn Quốc áp ra, nếu trước 31/12/2013, doanh nghiệp triển
dụng “hệ thống nơi làm việc tiêu chuẩn đối khai nơi làm việc tiêu chuẩn thì được giảm
với các công ty con” (theo mô hình công ty 50% thuế doanh nghiệp và thuế nhập trong
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014


27


Nghiªn cøu khoa häc
vòng 5 năm (tính từ 2011). Hiện nay, Chính
phủ Hàn Quốc vẫn tiếp tục triển khai chiến
dịch “một tập đoàn, một công ty” nhằm vào
30 tập đoàn có tỷ lệ lao động khuyết tương
đối thấp để khuyến khích họ xây dựng một
nơi làm việc tiêu chuẩn.
Từ năm 2004, Chính phủ Hàn Quốc đã
triển khai chương trình hỗ trợ thiết bị phù
hợp, dịch vụ sửa chữa liên quan, phát triển
các thiết bị mới nhằm nâng cao kỹ năng làm
việc cho người khuyết tật. Năm 2011, đã có
tổng số 9.030 thiết bị công nghệ được cung
cấp cho 6.613 lao động khuyết tật tại 1.787
nơi làm việc. Số liệu của năm 2012 tương
ứng là 9.128 thiết bị cho 7.055 người khuyết
tật tại 1.701 nơi làm việc. Thông qua chương
trình trên, nhiều doanh nghiệp không chỉ
giảm được chi phí mua trang thiết bị mà còn
có thể nâng cao năng suất lao động của
người khuyết tật.
1.2. Một số tồn tại, bất cập
- Nhiều doanh nghiệp lớn không đạt tỷ lệ
lao động khuyết tật
Theo báo cáo của Bộ Việc làm và Lao
động Hàn Quốc ngày 14/7/2011 cho thấy,

1.357 công ty không đạt được hạn ngạch bắt
buộc là 2,3%. Thậm chí, có tới 953 công ty
không có lao động khuyết tật. Tại các doanh
nghiệp lớn có trên 300 và 1.000 lao động thì
lần lượt chỉ có 1,96% và 1,83% số công ty
đáp ứng tỷ lệ trên (tính đến 6/2010). Tỷ lệ
việc làm cho người khuyết tật trong số
21.368 doanh nghiệp tư nhân là 2,17%,
nhưng chỉ có 11.118 công ty, chiếm 50%
hoàn thành tỷ lệ bắt buộc. Theo quy mô
công ty, chỉ có 2,51% công ty (số lao động
thấp hơn 300) và 1,96% công ty (trên 300
lao động) đạt tỷ lệ bắt buộc. Đặc biệt, với
các công ty trên 1.000 lao động thì chỉ có
1,83% số công ty đạt tỷ lệ bắt buộc. Điều
này cho thấy, quy mô công ty càng lớn thì tỷ
lệ lao động khuyết tật càng nhỏ, dẫn tới số
các công ty lớn đạt hạn ngạch ít hơn nhiều

28

so với công ty quy mô nhỏ đạt hạn ngạch.
Năm 2013, hạn ngạch lao động khuyết tật
doanh nghiệp cần tuân thủ chỉ tăng hơn một
chút, là 2,5%. Tuy nhiên, tình trạng trên vẫn
chưa có dấu hiệu được cải thiện. Tỷ lệ lao
động khuyết tật tại công ty (300-499 nhân
viên) là 2,68%; (500-999 nhân viên) là
2,52% và (trên 1.000 nhân viên) là 1,97%10.
Do vậy, các doanh nghiệp lớn cần hành động

tích cực hơn để đẩy mạnh việc làm cho
người khuyết tật11.
Cũng theo một báo cáo của Viện Phát
triển việc làm công bố năm 2012, chỉ 5,4%
trong số 1,21 triệu doanh nghiệp Hàn Quốc
thuê ít nhất một lao động khuyết tật. Tỷ lệ
lao động khuyết tật chỉ chiếm 1,57% trong
tổng số lao động tại các doanh nghiệp trên,
còn thấp nhiều so với tỷ lệ quy định. Các
doanh nghiệp sản xuất thuê nhiều lao động
khuyết tật hơn các ngành nghề khác, bao
gồm cả ngành dịch vụ12.
- Tỷ lệ có việc làm giữa các nhóm người
khuyết tật không đồng đều
+ Tỷ lệ phụ nữ khuyết tật có việc làm thấp
hơn nhiều so với tỷ lệ nam giới khuyết tật có
việc làm
Theo số liệu năm 2008, phụ nữ khuyết tật
chiếm 41,4% tổng số người khuyết tật song
chỉ chiếm 26,2% tổng số lao động khuyết
tật13 ở Hàn Quốc. Mặc dù tại các cơ quan
chính quyền đã quan tâm hơn tới việc thuê
phụ nữ khuyết tật khi tuyển dụng, nhưng ở
mọi công việc, số nam giới khuyết tật vẫn
được thuê nhiều hơn số phụ nữ khuyết tật.
10

Korea Employment Agency for the Disabled, News
Letter, Issue 103 (April, 2014) tại địa chỉ
/>11

/>table=dpi_notice_eng&idx=55&page=3&nowblock=0&se
arch=&searchstring=.
12
/>_156361.html.
13
Chon-Kyun Kim (2011), “Comparative Perspectives on
Disability Employment Policy”, International Review of
Public Administration 2011, Vol.15, No.3, p.30.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014


Nghiªn cøu khoa häc
Nguyên nhân chính là sự chênh lệch trong
trình độ học vấn của phụ nữ khuyết tật so
với nam giới khuyết tật. Theo Điều tra người
khuyết tật năm 2011, tỷ lệ phụ nữ khuyết tật
không được đến trường là 22,1%, cao gấp 5
lần so với tỷ lệ này ở nam giới khuyết tật
(4,4%). Tỷ lệ phụ nữ khuyết tật có bằng cử
nhân trở lên là 5,9%, chỉ bằng 1/3 so với số

nam giới có trình độ tương tự (16,5%). Các
rào cản trong việc tiếp cận cơ hội giáo dục
của phụ nữ khuyết tật đã dẫn tới những khó
khăn trong tìm kiếm việc làm, sau khi làm
việc, điều kiện làm việc nghèo nàn với mức
lương thấp, tạo ra một vòng tròn luẩn quẩn
nghèo đói đối với phụ nữ bị khuyết tật.


Bảng 3: Tỷ lệ có việc làm và tham gia lực lượng lao động
của phụ nữ và nam giới khuyết tật (%)
Phân loại
Số nữ khuyết tật/Tổng số người khuyết tật
Số nam khuyết tật/Tổng số người khuyết tật
Nữ khuyết tật có việc làm
Nam khuyết tật có việc làm
Nữ khuyết tật tham gia lực lượng lao động
Nam khuyết tật tham gia lực lượng lao động
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Nhìn bảng trên có thể thấy, tuy số phụ nữ
khuyết tật luôn chiếm khoảng 41% số người
khuyết tật, thấp hơn một chút so với tỷ lệ
nam giới khuyết tật khoảng 58% nhưng số
phụ nữ khuyết tật có việc làm chưa bằng một
nửa so với số nam giới khuyết tật có việc

2008
41,4%
58,6 %
20,2
43,5
-

2009
41,3%
58,7%
-

2010

41,4%
58,6%
22,7
45,4
24,6
48,4

2011
22,7
44,8
-

làm. Khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ có
việc làm dao động từ 22,1% đến 23,3%.
Không những thế, phụ nữ khuyết tật còn
chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện làm việc và
mức lương so với nam giới khuyết tật.

Bảng 4: Thời gian và tiền lương của lao động khuyết tật theo giới14
Hạng mục
Thời gian làm việc trung bình (tháng)
Số giờ làm việc trung bình hàng tuần (giờ)
Lương trung bình hàng tháng (10.000 won)

Giới
Nam
108,5
46,8
156,4


Nữ
124,2
36,8
75,5

Tổng số*
112,7
44,1
134,2

Nguồn: Dựa trên “Điều tra hoạt động kinh tế của người khuyết tật năm 2010” do Cục
Việc làm của người khuyết tật Hàn Quốc (2010) tiến hành, có tham khảo dữ liệu của Bộ
Việc làm và Phúc lợi (2009).
* Tổng số: dựa trên dữ liệu lao động thường xuyên của doanh nghiệp có trên 5 lao động.

14

Initial Report under the Convention on the Rights of Persons with Disabilities (2011) tại địa chỉ
disabilitycouncilinternational.org/documents/CRPD-C-KOR-1_en.doc, p.67.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014

29


Nghiªn cøu khoa häc
Theo số liệu năm 2010, tuy phụ nữ khuyết
tật có thời gian làm việc (tháng) lớn hơn
nhiều so với nam giới khuyết tật (5,7 giờ)
nhưng họ nhận khoảng 48% (chưa bằng một

nửa) so với mức lương của nam giới khuyết
tật. Điều này một mặt phản ánh sự bất bình
đẳng trong hoạt động sử dụng lao động nữ
khuyết tật. Mặt khác, thể hiện sự thiếu quan
tâm tới đối tượng lao động nữ khuyết tật của
nhà tuyển dụng ở Hàn Quốc. Bởi vậy, để cải
thiện tình trạng trên, Chính phủ Hàn Quốc

cần tăng cường giáo dục, đào tạo nghề cho
phụ nữ khuyết tật hơn nữa nhằm giảm các
rào cản, giảm khoảng cách chênh lệch trong
việc làm đối với họ.
+ Tỷ lệ có việc làm của người khuyết tật
nặng thấp nhất
Theo số liệu năm 2003, tỷ lệ thất nghiệp
của người khuyết tật ở Hàn Quốc là khoảng
30%, cao gấp 5–6 lần tỷ lệ thất nghiệp chung
của cả nước15, đặc biệt ở người khuyết tật
nặng, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nhiều.

Bảng 5: Tỷ lệ việc làm theo mức độ khuyết tật ở Hàn Quốc16
Đơn vị: %
Mức độ khuyết tật 2007 2008
2008-2007
Tỷ lệ tăng trưởng (%)
1
21,48 19,31
-2,17
-10,10
2

26,28 22,97
-3,31
-12,60
3
25,01 22,27
-2,74
-10,96
4
26,96 27,53
0,57
2,11
5
26,79 26,34
-0,45
-1,68
6
27,70 27,95
0,25
0,09
7
26,32 34,38
8,06
30,62
Tổng số
24,61 24,47
-0,14
-0,57
Nguồn: Cơ quan Thúc đẩy việc làm cho người khuyết tật (KEPAD) (2007-2008)
Lưu ý: Mức độ nhỏ chỉ những người có khuyết tật nặng về cơ thể/trí tuệ
Nhìn15bảng trên có thể thấy, số người có

mức độ khuyết tật nặng (mức 1 và 2)16có tỷ
lệ việc làm thấp hơn nhiều so với người có
mức độ khuyết tật nhẹ (mức 6 và 7). Tốc độ
tăng trưởng việc làm của người khuyết tật
nặng cũng thấp hơn nhiều so với người
khuyết tật nhẹ. Điều này đòi hỏi, chính phủ
Hàn Quốc cần có chương trình tạo việc làm

15

United Nations Department of Pubic Information – DPI
/2486- November 2007 tại />documents/toolaction/employmentfs.pdf
16
Yonghyun Kim, “Work Integration of People withDisa
bilities in Korean Social Enterprises”, p.4.

30
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014

cho người khuyết tật nặng hiệu quả hơn nữa
trong tương lai.
2. Nguyên nhân của sự bất cập
2.1. Về phía nhà nước
- Ngân sách và hỗ trợ việc làm cho người
khuyết tật chưa tương xứng
Từ năm 2000 đến nay, số người khuyết tật
tại Hàn Quốc tăng trung bình mỗi năm
khoảng 11% tuy nhiên ngân sách của chính
phủ và mức độ hỗ trợ cho việc làm của
người khuyết tật chưa theo kịp với tốc độ gia



Nghiªn cøu khoa häc
tăng17. Theo số liệu của OECD, ngân sách
dành cho người khuyết tật của Hàn Quốc
(1990, 2000, 2005) không có sự điều chỉnh,
luôn cố định ở mức 0,1% GDP, thấp hơn
nhiều với mức trung bình 1,2% GDP. Hàn
Quốc lọt vào danh sách các quốc gia có ngân
sách dành cho người khuyết tật thấp nhất
trong số 23 nước thành viên OECD với vị trí
thứ hai, chỉ sau Mexico với ngân sách chiếm
0% GDP. Tỷ lệ phân bổ ngân sách cứng
nhắc trên gây trở ngại cho hoạt động tạo việc
làm cho từng nhóm trong người khuyết tật
nói riêng cũng như cho toàn bộ người khuyết
tật nói chung. Điều này dẫn đến sự phân chia
tỷ lệ việc làm không đồng đều giữa phụ nữ
khuyết tật, người khuyết tật nặng và nam
giới khuyết tật.
- Chương trình tăng cường việc làm cho
người khuyết tật chưa phù hợp
Cơ hội tiếp cận với việc làm của người
khuyết tật tại Hàn Quốc luôn bị hạn chế hơn
so với các nhóm yếu thế khác. Tỷ lệ tham
gia thị trường lao động của người khuyết tật
ở Hàn Quốc là 44,4% (năm 2005), thấp hơn
nhiều so với tỷ lệ tham gia thị trường lao
động của nữ giới nước này là 54,5% (2005)18
và 50,2% (năm 2008). Tuy nhiên, Chính phủ

Hàn Quốc vẫn chưa thực hiện các chương
trình hỗ trợ quy mô rộng lớn để có thể duy
trì được việc làm của họ trong thời gian dài.
Trong khi đó, chính phủ lại quan tâm nhiều
tới các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp của
17

Kwon Mee-yoo (2010), “Welfare for Disabled Remains
Low” tại
/>2010/04/123_64487.html.
18
Yonghyun Kim (2009), “Can social enterprise stand for
persons with disabilities? The case of Korean social
enterprises, 2007-2008”, Journal of Asian Public
Policy,p.3.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014

nữ giới hay doanh nghiệp quy mô nhỏ. Khi
triển khai chính sách hành động tích cực
nhằm tăng cường việc làm cho các nhóm
yếu thế trong xã hội (phụ nữ, người khuyết
tật, người cao tuổi…), đối tượng hướng đến
chủ yếu là lao động nữ. Điều này dẫn tới
nhiều khó khăn cho hoạt động tạo việc làm
cho người khuyết tật ở Hàn Quốc19.
Mặt khác, trong tạo việc làm cho các
nhóm người khuyết tật, Chính phủ Hàn
Quốc tập trung nhiều người khuyết tật nhẹ
hơn là người khuyết tật nặng. Trong một số

điều luật, Chính phủ Hàn Quốc có khuyến
khích người sử dụng lao động tăng cường
tuyển dụng người khuyết tật nặng, phụ nữ
khuyết tật, và đưa ra một số ưu đãi cao hơn
so với tuyển dụng nam giới khuyết tật. Tuy
nhiên, các biện pháp trên chưa đủ mạnh để
tăng tỷ lệ có việc làm của hai đối tượng nói
trên. Tại Đức và Nhật Bản, mục tiêu của
chính sách việc làm cho người khuyết tật
chủ yếu hướng tới người khuyết tật nặng,
những người thực sự gặp khó khăn trong quá
trình tìm kiếm việc làm và phụ nữ khuyết tật,
những người ở vị trí thấp trong lực lượng lao
động. Từ năm 1999, Đức đã thực hiện chiến
dịch tạo 5.000 việc làm mới cho người
khuyết tật nặng. Nhật Bản cũng đã tăng
cường thuê người khuyết tật nặng, chiếm tới
1/3 số người khuyết tật trong các khu vực
nhà nước. Trong sửa đổi điều luật EPLDP
năm 2000 Hàn Quốc đã không đưa ra yêu
cầu bắt buộc phải thuê hai đối tượng trên20.
Bởi vậy, trong tương lai, Chính phủ Hàn
Quốc cần khuyến khích người sử dụng lao
động trong khu vực nhà nước và tư nhân
19

Yonghyun Kim, Work Integration of People with
Disabilities in Korean Social Enterprises, p.4.
20
Chon-Kyun Kim (2011), “Comparative Perspectives on

Disability Employment Policy”, International Review of
Public Administration 2011, Vol.15, No.3, p.33.

31


Nghiªn cøu khoa häc
thuê cả người khuyết tật nặng và phụ nữ
khuyết tật nhiều hơn.
- Hạn ngạch lao động khuyết tật còn điểm
thiếu sót
Theo số liệu năm 1999, lao động khuyết
tật trong khu vực nhà nước chỉ đạt 0,4%,
khu vực tư nhân đạt 0,9%. Nếu không đáp
ứng đủ hạn ngạch, người sử dụng lao động ở
khu vực công không phải trả tiền phạt21.
Ngược lại, ở khu vực tư nhân, doanh nghiệp
phải trả tiền phạt. Năm 2008, có tới 65
doanh nghiệp lớn (có tối thiểu 300 nhân
viên) không hề thuê lao động khuyết tật và
trả tiền phạt 750.000 won (tương đương 800
USD) mỗi tháng22. Sự phân biệt giữa khu
vực nhà nước và tư nhân nói trên sẽ làm
giảm tác dụng đối với các chương trình tạo
việc làm cho người khuyết tật.
2.2. Về phía doanh nghiệp
Mặc dù Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra
hạn ngạch lao động khuyết tật bắt buộc và
ưu đãi với từng loại hình doanh nghiệp
nhưng vì sao các doanh nghiệp vẫn chưa tích

cực thực hiện? Một số doanh nghiệp cho
rằng, công việc đưa ra không phù hợp với
người khuyết tật. Tuyển dụng đối tượng lao
động này, doanh nghiệp phải sẽ phải tốn một
khoản chi phí phụ trội để trang bị các tiện
nghi, triển khai hoạt động quản lý đặc thù
đối với người khuyết tật. Theo Bộ Việc làm
và Lao động Hàn Quốc (2006), chưa tới 1%
số doanh nghiệp Hàn Quốc cung cấp các hỗ
trợ cho lao động khuyết tật, bao gồm: chỗ
ngồi đặc biệt, bàn làm việc với xe lăn, máy
in chữ nổi Braille và bàn phím hoặc chuột
21

Dal-yob Lee, “Economic Crises and the Quota System,
Asia and Pacific Journal on Disability”, Vol.2, No.1,
5/1999 tại />e/z00ap/004/z00ap00408.html
22
Yonghyun Kim, Work Integration of People with
Disabilities in Korean Social Enterprises, p.5.

32

chuyên dụng. Kết quả khảo sát của chính
phủ cũng cho thấy, phương tiện làm việc
không phù hợp, công việc nhàm chán và môi
trường làm việc không thân thiện là những
trở ngại lớn đối với lao động khuyết tật tại
Hàn Quốc23.
Bên cạnh đó, nguy cơ tai nạn tại nơi làm

việc của họ cũng luôn thường trực. Kết quả
khảo sát do Cơ quan Việc làm Hàn Quốc
(2010) với 200 lao động tại các doanh
nghiệp cho thấy, có tới 29,2% số người trả
lời nói rằng, họ không thuê lao động khuyết
tật bởi họ lo lắng về sự an toàn tại nơi làm
việc13. Đặc biệt, nhiều chủ doanh nghiệp vẫn
giữ một định kiến cố hữu với người khuyết
tật. Theo họ, người khuyết tật là những
người không có khả năng làm việc, phải nhờ
vào sự giúp đỡ của người khác và người
khuyết tật không liên quan tới khái niệm
“lao động”.
2.3. Về khía cạnh xã hội
Trên thế giới, Hàn Quốc là một quốc gia
có dân tộc tương đối đồng nhất. Văn hóa, xã
hội của Hàn Quốc chịu ảnh hưởng nặng nề
của tư tưởng Nho giáo. Do vậy, nhìn chung,
người Hàn Quốc vẫn lưu giữ nhiều giá trị,
phong tục mang tính chất bảo thủ24. Từ xa
xưa, người Hàn Quốc tin rằng, người khuyết
tật là hậu quả của tội lỗi do tổ tiên họ gây ra,
là sự trừng phạt của chúa trời hay là lời
nguyền của ma quỷ… Sống cuộc đời với
người khuyết tật đồng nghĩa với việc mang
nỗi đau cho bản thân và cho cả gia đình. Vì
23

Chon-Kyun Kim (2011), “Comparative Perspectives on
Disability Employment Policy”, International Review of

Public Administration 2011, Vol.15, No.3, p.34, http://
www.disabilitynewsasia.com/home-mainmenu-1/484-skworst-in-hiring-of-people-with-disabilities-in-southkorea.html.
24
Weol Soon Kim–Rupnow, “An Introduction to Korean
Culture for Rehabilitation Service Providers”, đăng tại
/>
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014


Nghiªn cøu khoa häc
thế, các thành viên gia đình nghĩ rằng, có
người khuyết tật sẽ gây bất lợi cho địa vị xã
hội của họ, và họ cố gắng che giấu người
khuyết tật25. Ở ngoài xã hội, người khuyết
tật dễ bị cô lập do cách ăn mặc, hành vi đi
chệch khỏi các chuẩn mực chung. Tuy xã
hội Hàn Quốc đã có nhiều thay đổi nhưng
thái độ tiêu cực đối với người khuyết tật vẫn
chưa được cải thiện nhiều. Theo kết quả
khảo sát của một công ty nghiên cứu tư
nhân, 83,1% số mẫu (năm 1984) và 82,4%
số mẫu (năm 2000) cho biết: họ sẽ hủy bỏ
thai nhi còn hơn phải nuôi một đứa trẻ
khuyết tật. Điều này cho thấy, người khuyết
tật ở Hàn Quốc phải đối mặt với nhiều thành
kiến trong xã hội, gặp nhiều khó khăn trong
học tập, sinh sống và làm việc. Bên cạnh đó,
người khuyết tật còn phải chịu nhiều phân
biệt đối xử trong cuộc sống. Từ tháng
4/2008 đến tháng 9/2010, Ủy ban Nhân

quyền Hàn Quốc (NHRC) nhận được 2.938
khiếu nại phân biệt đối xử với người khuyết
tật, tăng khoảng 4,6 lần so với 630 vụ trong
6 năm trước khi Luật Chống phân biệt đối
xử với người khuyết tật (ARPDA) có hiệu
lực. Số lượng trung bình các vụ khiếu nại
hàng tháng là 87,5, tăng gấp 10 lần so với
cùng thời gian trước đó26.
3. Một số nhận xét
Những năm gần đây, tạo việc làm cho
người khuyết tật là một trọng tâm trong
chính sách lao động của Chính phủ Hàn
Quốc. Trong đó, hạn ngạch lao động khuyết
tật bắt buộc đối với khu vực nhà nước và tư
nhân đóng vai trò chính trong việc tăng
cường việc làm cho nhóm người này. Qua
25

/>Initial Report under the Convention on the Rights of
Persons with Disabilities (2011) tại địa chỉ
disabilitycouncilinternational.org/documents/CRPD-CKOR-1_en.doc, p.65.
26

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014

một thời gian áp dụng, tỷ lệ lao động trong
khu vực bắt buộc thuê lao động khuyết tật
luôn tăng dẫn tới tỷ lệ người khuyết tật có
việc làm tăng dần qua các năm. Mặt khác,
Chính phủ Hàn Quốc cũng tạo điều kiện hỗ

trợ cho các doanh nghiệp tuân thủ điều luật
thuê lao động khuyết tật, khuyến khích họ
xây dựng cơ sở vật chất đạt tiêu chuẩn, hỗ
trợ thiết bị phù hợp với người khuyết tật.
Tuy nhiên, việc tuân thủ quy định trên đạt
kết quả không đồng đều. Số các công ty quy
mô nhỏ đạt hạn ngạch lao động khuyết tật
cao hơn nhiều so với số các công ty quy mô
lớn. Tỷ lệ có việc làm của phụ nữ khuyết tật
thấp hơn nhiều so với nam giới khuyết tật, tỷ
lệ có việc làm của người khuyết tật nặng
thấp nhất trong số nhóm người khuyết tật.
Nguyên nhân của những tồn tại xuất phát từ
nhiều phía: chính phủ, doanh nghiệp và xã
hội. Để khắc phục các vấn đề trên, chính phủ
Hàn Quốc cần giữ vai trò chủ đạo trong việc
hoạch định chính sách, đưa ra các chương
trình thúc đẩy việc làm phù hợp và hoàn
thiện quy định hạn ngạch lao động khuyết
tật. Bên cạnh đó, chính phủ cần thực hiện
các chương trình hiệu quả nhằm nâng cao
nhận thức của doanh nghiệp trong vấn đề sử
dụng lao động khuyết tật và thay đổi thái độ
của xã hội đối với người khuyết tật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chon-Kyun Kim (2011), “Comparative
Perspectives on Disability Employment Policy”,
International Review of Public Administration
2011, Vol.15, No.3, p.29.
2. Chung Hyun-chae, Nam Hyun-woo, Park

Ji-won (2014), “Disabled still face discrimina
tion”tại http://koreatimes. co.kr/ www /news/
culture/2014/04/135_156361.html

33


Nghiªn cøu khoa häc
3. Dongug Kang (2012), “Why would
companies not employ people with disabilities in
Korea?”, Asia Pacific Journal of Social Work
and Development, Vol.23, No.3, p.222-229.
4. Dal-yob Lee, “Economic Crises and the
Quota System, Asia and Pacific Journal on
Disability”,
Vol.2,
No.1,
5/1999
tại
/>z00ap/004/z00ap00408.html
5. James Vaughan-Jones (2013), “The World
and Disability : Quotas or No Quotas?” tại
/>6. Kim, Jeong-yeon (2011), “Diversity
management and the disability employment
strategy”, Korea Labour Review, p.12.
7. Korea Employment Agency for the
Disabled, News Letter, Issue 103 (April, 2014)
tại
/>ew.jsp#
8. Kwon Mee-yoo (2010), “Welfare for

Disabled Remains Low” tại
http://www.
koreatimes.co.kr/www/news/biz/2010/04/123_6
4487.html.
9. Kim SJ, Kang KA (2003), “Meaning of life
for adolescents with a physical disability in
Korea” tại . nih.gov/ pub
med/12834372
10. Seo Ha-na (2011), “Lower disability
employment rate in big company” tại
/>asp?table=dpi_notice_eng&idx=55&page=3&no
wblock=0&search=&searchstring=.
11. Sun-Kyoo KIM (2010), “Status of higher
education and employment of the Disabled in
Korea – Centering on vocational competency
development services of Korea”, NTUT
Education of Disabilities 2010 Vol.8, p.35.

34

12. Weol Soon Kim–Rupnow, “An
Introduction
to
Korean
Culture
for
Rehabilitation Service Providers”, đăng tại
/>ea/
13. Yonghyun Kim, “Work Integration of
People with Disabilities in Korean Social

Enterprises” tại />sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&ca
d=rja&uact=8&ved=0CCEQFjAA&url=http%3
A%2F%2Fwww.welfareasia.org%2F5thconfere
nce%2Fpapers%2FKim%2520Y_disabilities%2
520in%2520social%2520enterprises.pdf&ei=ISa
8U6DPOMq78gXe-oHoBA&usg=AFQjCNEvl
6i0Tqu4kFcz7eg_hXRwAGn2gA&bvm=bv.701
38588,d.dGc.
14. Yonghyun Kim (2009), “Can social
enterprise stand for persons with disabilities?
The case of Korean social enterprises, 20072008”, Journal of Asian Public Policy,p.3.
15. Initial Report under the Convention on
the Rights of Persons with Disabilities (2011) tại
địa chỉ disabilitycouncilinternational.org/do
cuments/CRPD-C-KOR-1_en.doc, p.65.
16. United Nations Department of Pubic
Information – DPI/2486- November 2007 tại
/>tion/employmentfs.pdf.
17. 2013 Employment and Labour Policy in
Korea.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 8(162) 8-2014



×