Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

ảnh hưởng của khối lượng cai sữa toàn ổ heo giai đoạn sau cai sữa 2856 ngày tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG






VÕ THANH DUY





ẢNH HƯỞNG CỦA KHỐI LƯỢNG CAI SỮA
TOÀN Ổ HEO GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA
28-56 NGÀY TUỔI






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH CHĂN NUÔI THÚ Y













2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG






VÕ THANH DUY





ẢNH HƯỞNG CỦA KHỐI LƯỢNG CAI SỮA
TOÀN Ổ HEO GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA
28-56 NGÀY TUỔI



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH CHĂN NUÔI THÚ Y






CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ths. TRƯƠNG CHÍ SƠN









2013

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG



ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔI LƯỢNG CAI SỮA
TOÀN Ổ HEO GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA
28-56 NGÀY TUỔI


Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013 Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
CÁN BỘ HƯỚNG
DẪN

DUYỆT BỘ
MÔN




Ths
. TRƯƠNG CHÍ SƠN




Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
DUYỆT KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG
DỤNG





i
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cám ơn:
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ba, Mẹ và những thành viên
trong gia đình đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc học tập.
Ban giám hiệu trường Đại học Cần Thơ cùng quý thầy cô Bộ môn Chăn
nuôi và Thú y đã tạo điều kiện và cung cấp kiến thức, kinh nghiệm quý báu
trong suốt thời gian học tập.
Tôi xin chân thành biết ơn:
Thầy Trương Chí Sơn, thầy cố vấn học tập cũng đồng thời là thầy hướng

dẫn tạo điều kiện, tận tình hướng dẫn và truyền đạt những kinh nghiệm quý
báu để giúp tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này. Quý thầy cô Bộ môn Chăn
nuôi và Bộ môn Thú y đã tận tình giảng dạy, truyền đạt, cung cấp kiến thứ
quan trọng trong thời gian tôi học tập tại trường Đại học Cần Thơ.
Ban lãnh đạo và các cô chú công nhân của Trại heo giống Nông trường
Cờ Đỏ thuộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nông nghiệp Cờ
Đỏ đã tận tình giúp đỡ tôi thực hiện tốt báo cáo tốt nghiệp này.
Các bạn trong lớp Chăn nuôi thú y khóa 36A và 36B, những người bạn
thân trong nhóm và các anh chị khóa trước đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập tại trường.

Sinh viên



Võ Thanh Duy



ii
TÓM TẮT
Trong thời gian thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của khối lượng cai sữa toàn ổ
trên heo giai đoạn sau cai sữa 28-56 ngày tuổi”, số heo con được khảo sát là 88
con chia thành 3 khối, mỗi khối được chọn theo số con cai sữa/ổ từ 3 nghiệm thức
như NT1 là những bầy có số heo cai sữa là 8 con/ổ, NT2 có 9 heo con/ổ và NT3 có
số con/ổ lớn hơn 10.
Từ các số liệu ghi nhận được trong quá trình tiến hành thí nghiệm, có thể thấy
được sự khác nhau về năng suất sinh trưởng của heo con giữa các thí nghiệm về số
con cai sữa/ổ. Trong đó heo con ở các bầy có số con trung bình 9 con/ổ có năng suất
sinh trưởng cao nhất. Kết quả thu được như sau:

Các chỉ tiêu về tăng trọng: khối lượng bình quân heo con đầu thí nghiệm (lúc
28 ngày tuổi) cao nhất là khối 2 (7,9 kg), kế đến là khối 1 (7,4 kg) và thấp nhất là
khối 3 (7,1 kg). Khối lượng cuối kỳ của heo thí nghiệm cao nhất là khối 2 (13,2 kg)
kế đến là khối 1(12,3 kg) và thấp nhất là khối 3 (11,6 kg).
Các chỉ tiêu về mức ăn và tiêu hóa: mức ăn của heo ở khối 2 cao nhất với
251,5 g/con/ngày, kế đó là khối 1 và khối 3 với 243,8 và 231,0 g/con/ngày. Tiêu tốn
thức ăn trong khoảng thời gian thí nghiệm cao nhất là khối 2 (68,0 kg/ô) kế đến là
khối 3 (66,9 kg/ô) và thấp nhất là khối 1 (63,4 kg/ô). Về hệ số chuyển hóa thức ăn,
HSCHTĂ ở khối 2 (1,32) thấp nhất kế đến là khối 1 (1,39) và khối 3 (1,42).
Về bệnh và công tác thú y: nhìn chung heo con được chọn nuôi thí nghiệm có
thể trạng tốt, không xảy ra dịch bệnh hay hao hụt. Số heo con bị tiêu chảy không
nhiều, 1 heo con ở bầy thứ nhất thuộc NT1 và 2 heo con ở bầy 6 thuộc NT2.



iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu,
kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.

Tác giả luận văn



Võ Thanh Duy



iv

MỤC LỤC

Tóm tắt ii

Chương 1: Giới thiệu 1

Chương 2: Tổng quan tài liệu 2
2.1 Giống heo và công tác giống 2
2.1.1 Một số giống heo ngoại 2
2.1.2 Công tác giống 4
2.2 Đặc điểm sinh lý heo con 5
2.2.1 Sinh trưởng và phát triển 5
2.2.2 Cơ quan điều tiết thân nhiệ của heo con 6
2.2.3 Sức đề kháng của heo con 7
2.2.4 Đặc điểm về sự phát triển của cơ quan tiêu hoá của heo con 8
2.2.5 Sự phát triển của hệ thống enzym tiêu hoá 10
2.2.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan tiêu hoá 11
2.2.7 Đặc điểm bộ máy tiêu hóa của heo khi cai sữa 12
2.2.8 Những biến đổi sinh lý heo con cai sữa 13
2.3 Nhu cầu dinh dưỡng của heo con 14
2.3.1 Nhu cầu năng lượng 17
2.3.2 Nhu cầu protein 17
2.3.3 Nhu cầu gluxit 19
2.3.4 Nhu cầu vitamin 19
2.3.5 Nhu cầu khoáng 20
2.3.6 Nhu cầu lipid 21
2.3.6 Nhu cầu nước 22
2.4 Thức ăn nuôi heo 22
2.4.1 Thức ăn năng lượng 22
2.4.2 Thức ăn bổ sung protein 23

2.4.3 Thức ăn hỗn hợp 23
2.5 Chuồng trại nuôi heo 24
2.5.1. Địa điểm 24
2.5.2 Hướng chuồng 24
2.5.3 Ảnh hưởng của các yếu tố tiểu khí hậu môi trường 24
2.5.4 Chuồng heo cai sữa 25
2.6 Công tác thú y 25
2.6.1 Phòng bệnh 25
2.6.2 Trị bệnh 26

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu 27
3.1 Thời gian và địa điểm 27
3.2 Phương tiện thí nghiệm 28
3.2.1 Chuồng trại thí nghiệm 28
3.2.2 Đối tượng thí nghiệm 29
3.2.3 Thức ăn dùng trong thí nghiệm 30



v
3.2.4 Nước uống dùng trong thí nghiệm 30
3.2.5 Thuốc thú y dùng trong thí nghiệm 30
3.2.6 Dụng cụ thí nghiệm 31
3.3 Phương pháp thí nghiệm 31
3.3.1 Bố trí thí nghiệm 31
3.3.2 Phương pháp tiến hành thí nghiệm 32
3.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi 32
3.3.4 Hiệu quả kinh tế trong quá trình thí nghiệm 33
3.4 Xử lý số liệu 33


Chương 4: Kết quả và thảo luận 34
4.1 Ghi nhận tổng quát 34
4.2 Kết quả về sinh trưởng của heo thí nghiệm theo nghiệm thức 34
4.3 Lượng thức ăn và dưỡng chất tiêu thụ hằng ngày của heo con thí nghiệm
theo nghiệm thức 36
4.4 Tỷ lệ tiêu chảy của heo con thí nghiệm theo nghiệm thức 37
4.5 Tiêu tốn thức ăn và HSCHTĂ của heo con theo nghiệm thức 38
4.6 Hiệu quả kinh tế của thí nghiệm về mặt thức ăn 39

Chương 5: Kết luận và đề xuất 40
5.1 Kết luận 40
5.2 Đề xuất 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO 41






vi
DANH SÁCH BẢNG

Bảng 2.1 Sự phát triển của bộ máy tiêu hóa heo con 8
Bảng 2.2: Lượng dịch vị biến đổi tùy theo tuổi và ngày đêm như sau 9
Bảng 2.3: Sự thay đổi lượng sữa và thành phần sữa heo 14
Bảng 2.4: Nhu cầu dinh dưỡng của heo đang tăng trưởng 15
Bảng 2.5: Nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày cho heo con 16
Bảng 2.6: Nhu cầu năng lượng của heo con 17
Bảng 2.7: Nhu cầu amino acid hàng ngày của heo cho ăn tự do (90% VCK) 18

Bảng 2.8: Nhu cầu acid amin không thay thế hàng ngày (g/con/ngày) 19
Bảng 2.9: Nhu cầu vitamin hàng ngày của heo cho ăn tự do (90% VCK) 20
Bảng 2.10: Nhu cầu khoáng hàng ngày của heo cho ăn tự do (90 % VCK) 21
Bảng 2.11: Thành phần hóa học của cám gạo mịn, cám to, tấm ở điều
kiện nông hộ xã Tân Phú Thạnh 23
Bảng 2.12 Nhiệt độ tới hạn của các hạng heo 24
Bảng 3.1: Thành phần dinh dưỡng thức ăn NOVO 9651 30
Bảng 4.1: Khối lượng và sinh trưởng của heo thí nghiệm theo nghiệm thức . 34
Bảng 4.2: Mức ăn và tiêu thụ dưỡng chất hàng ngày của heo theo nghiệm
thức 37
Bảng 4.3: Kết quả tỷ lệ tiêu chảy của heo theo nghiệm thức 38
Bảng 4.4: TTTĂ và HSCHTĂ theo nghiệm thức 38
Bảng 4.5: Hiệu quả kinh tế về mặt thức ăn toàn thí nghiệm theo nghiệm
thức 39





vii
DANH SÁCH HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

Hình 2.1: Heo Yorkshire 2
Hình 2.2: Heo Landrace 3
Hình 2.3: Heo Duroc 3
Hình 3.1: Bản đồ hành chính thành phố Cần Thơ 27
Hình 3.2: Quy hoạch tổng thể Trại heo Nông trường Cờ Đỏ 28
Hình 3.3: Chuồng trại được dùng trong thí nghiệm 29
Hình 3.4: Heo con cai sữa dùng trong thí nghiệm 29
Hình 3.5: Thức ăn NOVO 9651 dùng trong thí nghiệm 30

Hình 3.6: Cân đồng hồ 5 kg và 30 kg dùng trong thí nghiệm 31
Hình 4.1: Biểu đồ sinh trưởng tích lũy trên heo ở các NT 35
Hình 4.2: Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối trên heo ở các NT 36
Hình 4.3: Hệ số chuyển hóa thức ăn ở các NT 39




viii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
cm Xentimet
CP Protein thô
CF Xơ thô
EE Chiết chất este
ĐVTĂ Đơn vị thức ăn
Kcal Kilo calo
KP Khẩu phần
Kg Kilogam
g Gam
HSCHTĂ Hệ số chuyển hóa thức ăn
IU International Unit
m Mét
Mcal Mega calo
ME Năng lượng trao đổi
MJ Mega jule
mg Miligam
NT1 Nghiệm thức 1
NT2 Nghiệm thức 2
NT3 Nghiệm thức 3
NRC National Research Council

NXB Nhà xuất bản
ppm Part per million
STTL Sinh trưởng tích lũy
STTĐ Sinh trưởng tuyệt đối
STTgĐ Sinh trưởng tương đối
TB Trung bình
TL Khối lượng
TTTĂ Tiêu tốn thức ăn
TTTB Tăng trọng trung bình
TĂ Thức ăn
VCK Vật chất khô
W Watt



1
Chương 1: GIỚI THIỆU
Nhu cầu về lương thực thực phẩm là một trong những vấn đề nóng bỏng
đang được thế giới quan tâm. Để giải quyết vấn đề nóng bỏng này con người
ngoài việc hạ tỷ lệ tăng dân số còn phải cần đẩy mạnh khả năng sản xuất
lương thực thực phẩm để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ to lớn hiện tại. Do vậy
nhu cầu về mặt hàng thịt nói chung và thịt heo nói riêng trên thị trường trong
nước và thế giới ngày càng đòi hỏi cao cả về số lượng lẫn chất lượng.
Trong các giai đoạn chăn nuôi heo, thì chăn nuôi heo con theo mẹ và sau
cai sữa là vấn đề đáng quan tâm và có ý nghĩa kinh tế đối với người chăn nuôi.
Hiện nay hầu hết những trại chăn nuôi và những hộ chăn nuôi đều có những
biện pháp nuôi dưỡng riêng, song tỷ lệ tiêu chảy, sự hao hụt ở heo con theo mẹ
và sau cai sữa còn quá cao.
Ngày nay, trong việc quản lý và nuôi dưỡng heo con tại một số trại với
quy mô lớn, người ta thường phân loại heo con sau khi tách mẹ theo khối

lượng để tiện việc nuôi dưỡng và theo dõi. Tuy nhiên ở một số trại với quy mô
vừa và nhỏ, heo con thường được giữ lại theo bầy để nuôi ở giai đoạn tiếp
theo.
Được sự hướng dẫn của thầy Trương Chí Sơn và sự cho phép của Bộ
Môn Chăn nuôi - Khoa Nông nghiệp và SHƯD - Trường Đại học Cần Thơ và
của Công ty TNHH MTV Nông nghiệp Cờ Đỏ, đề tài nghiên cứu “Ảnh
hưởng của khối lượng cai sữa toàn ổ trên heo giai đoạn sau cai sữa 28-56
ngày tuổi” được tiến hành.
Mục tiêu đề tài: Đánh giá năng suất sinh trưởng của heo con sau cai sữa
trong giai đoạn 28-56 ngày tuổi thông qua khối lượng cai sữa trên toàn ổ và
mỗi con. Qua đó có thể khuyến cáo người chăn nuôi nên phân loại hay giữ
nguyên ổ để nuôi.



2
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Giống heo và công tác giống
2.1.1 Một số giống heo ngoại
2.1.1.1 Heo Yorkshire (Đại Bạch - Yorkshire Large White)
Heo Yorkshire có nguồn gốc từ vùng Yorkshire (Anh) và là giống heo
phổ biến trên thế giới. Heo có tầm vóc lớn, toàn thân màu trắng, tai nhỏ dựng
thẳng. Ớ tuổi trưởng thành, heo đực nặng 350-380 kg, heo nái nặng 250-280
kg, khả năng sinh sản và cho thịt đều tốt. Heo cái phối giống lần đầu lúc 8-9
tháng tuổi, trung bình mỗi lứa đẻ 11-12 con. Heo thịt TTTB 700-50 g/ngày, tỷ
lệ nạc 50-55%, tiêu tốn 2,2-2,4 kg thức ăn/kg thể trọng (Đặng Vũ Bình, 2005).
Heo Yorkshire Large White có ưu điểm là dòng đực có tỉ lệ nạc cao,
dòng nái sinh sản cao; cả đực và nái đều có thân hình chữ nhật, bộ phận sinh
dục đực lộ rõ, mắn đẻ, sai con, nuôi con khỏe, thích nghi tốt, có chất lượng thịt
tốt, khả năng chống chịu với điều kiện khí hậu môi trường thay đổi cao. Do đó

heo Yorkshire đang được nuôi phổ biến ở nước ta và được dùng trong nuôi
kinh tế.

Hình 2.1: Heo Yorkshire ()
2.1.1.2 Heo Landrace
Heo Landrace là giống heo hướng nạc gốc từ Đan Mạch, là giống heo có
sắc lông trắng (có thể có vài đốm đen hiện diện), dài đòn, mông nở, ngực hẹp,
mõm dài, tai to cụp về phía trước, mình lép, bốn chân hơi yếu, đẻ sai và nuôi
con giỏi nhưng tính chịu đựng kém trong môi trường nóng nên dễ mất sữa, ít
sữa, kém ăn, nhạy cảm với các yếu tố stress. Nếu chọn nái Landrace không kỹ
thì nhà chăn nuôi sẽ gặp phải những con nái chân yếu, đau chân khi sinh đẻ
(Trần Ngọc Phương và Lê Quang Minh, 2002).
Khả năng sinh sản trung bình 11 con/ổ, riêng heo Landrace của Bỉ thì số
con đẻ ra ít hơn (8-10 con/ổ), chất lượng thịt tốt, tỷ lệ nạc cao 56-57%. Heo
đực trưởng thành đạt 220-300 kg, hệ số chuyển hóa thức ăn 2,9-3,5 (Kỹ thuật
chăn nuôi heo sạch, Viện chăn nuôi quốc gia).
Theo Lê Thị Mến (2010), heo Landrace đòi hỏi điều kiện chăm sóc nuôi
dưỡng cao hơn và kém thích nghi trong điều kiện thời tiết nóng, nước chua,
phèn, mặn. Vì thế nó chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu đàn heo nuôi ở nông hộ.



3
Thời gian qua, Landrace được nhập từ các nước trên thế giới như: Đan Mạch,
Mỹ, Canada… đây cũng là một giống được chú ý trong công thức lai, nhất là
lai ba máu ở các cơ sở chăn nuôi và nông hộ.

Hình 2.2: Heo Landrace ()
2.1.1.3 Heo Duroc
Heo xuất xứ từ Mỹ, lông màu đỏ nâu. Heo Duroc thuần mỗi chân có bốn

móng màu đen nâu, không có móng trắng, hai tai thường nhỏ xụ nhưng gốc tai
đứng, đặc biệt lưng Duroc cong, ngắn đòn. Heo Duroc cũng cho nhiều nạc, ở 6
tháng tuổi heo có thể đạt 80-85 kg, heo nái trưởng thành có thể đạt 200-250
kg. Heo nái mỗi năm đẻ 1,8-2 lứa, mỗi lứa trung bình 8 con. Sử dụng heo
Duroc cho lai kinh tế tăng trọng nhanh, tỷ lệ nạc cao (Lê Hồng Mận, 2002).
Đây là loại heo hướng nạc, phẩm chất thịt tốt nên trong lai tạo heo con
nuôi thịt người ta sử dụng đực Duroc lai hai máu, ba máu hoặc bốn máu giữa
các giống heo ngoại tạo ra con lai nuôi mau lớn, chịu đựng stress, heo cho
nhiều thịt nạc. Heo đạt 100 kg trở lên ở khoảng 6 tháng tuổi, độ dày mỡ lưng
biến thiên từ 17-30 mm. Heo Duroc đẻ ít con hơn Yorkshire và Landrace, bình
quân 7-9 con/lứa. Nhược điểm lớn nhất là khó đẻ và ít kém sữa. Do đó cần cho
nái vận động nhiều trong lúc mang thai và không sử dụng nái lớn tuổi để sinh
sản (Nguyễn Ngọc Tuân và Trần Thị Dân, 2000).

Hình 2.3: Heo Duroc ()




4
2.1.1.4 Heo Pietrain
Giống heo Pietrain này xuất hiện ở Bỉ. Heo có tuổi đẻ lứa đầu 418 ngày
(so với Landrace White 366 ngày). Khoảng cách giữa hai lứa đẻ 165,1 ngày,
cai sữa ở 35,2 ngày; số con/lứa: 10,2; số con cai sữa: 8,3; số con cai
sữa/nái/năm: 18,3 con. Khả năng tăng trọng từ 35 kg-90 kg là 770 ngày. Tiêu
tốn 2,58 kg TĂ cho 1 kg tăng trọng. Mổ thịt heo 100 kg có chiều dài thân thịt
93,2 cm. Tỷ lệ thịt móc hàm (không có đầu): 75,9%; tỷ lệ nạc/thịt xẻ: 61,35%.
Trong khi heo Large White Pháp là 54,11%, Landrace Pháp là 12%, Landrace
Bỉ: 58,3%, dày mỡ lưng trung bình có khối lượng mổ thịt 90 kg của heo
Pietrain là 7,8 mm, trong khi Large White và Landrace là 11,4 mm. Heo

Pietrain được dùng để lai kinh tế ở nhiều nước trên thế giới, lông da có những
vết đỏ và đen không đều. Khi cho lai với heo có màu lông trắng thì màu trắng
sẽ trội. Heo Pietrain có năng suất ổn định, nhưng lang đen trắng không ổn định
trên lông da (Lê Hồng Mận, 2002).
Theo Nguyễn Thiện (2008), heo Pietrain được sử dụng để lai kinh tế ở
nhiều nơi trên thế giới. Lông da của heo có những vết đỏ và đen không đều.
Khi cho lai với heo có màu lông trắng màu trắng sẽ trội. Heo Pietrain là một
điển hình về vết loang đen trắng không cố định trên lông da, nhưng năng suất
thì rất ổn định. Hiện heo Pietrain đã có ở nước ta nhưng chưa nhập chính thức
vào Việt Nam.
2.1.2 Công tác giống
2.1.2.1 Chọn heo cái hậu bị
Theo Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Quế Côi (2005), việc chọn heo cái
hậu bị cần lưu ý một số điểm sau: không chọn heo nái nhân giống từ các lứa
đẻ ít con khoảng 5 con/ổ, có thể do di truyền của bố mẹ sẽ ảnh hưởng đến sinh
sản ở đời con; chọn mua ở các cơ sở heo giống có chất lượng cao về con
giống, đảm bảo vệ sinh và phòng dịch; chọn heo cái hậu bị từ những đàn bố
mẹ có năng suất sinh sản cao, có khả năng nuôi con và tiết sữa tốt; heo có
ngoại hình và thể chất khỏe mạnh, mang tính đặc trưng của phẩm giống, da
lông mịn, móng và 4 chân khỏe, nhanh nhẹn, số vú điều và lộ rõ, âm hộ phát
triển bình thường; không chọn những con có khuyết tật, dị dạng, thể trạng yếu,
vú hoặc âm hộ phát triển không bình thường; chọn cái hậu bị đạt chỉ số chọn
lọc > 100; chọn giống heo chương trình lai được định sẵn. Heo cái hậu bị tốt là
những heo có kết quả kiểm tra năng suất; bình quân tăng trọng/ngày: 700-750
g; thức ăn tiêu tốn/ kg tăng trọng: < 3 kg. Ngoại hình cần quan tâm: cơ quan
sinh dục phát triển bình thường; vú ≥ 12-14 không có vú lép, vú không cong,
không khô; khi heo có biểu hiện động dục vú phía dưới phát triển chứng tỏ
tính dục phát triển bình thường. Bộ khung xương vững chắc không chọn heo
cái chân yếu vì ảnh hưởng đến phối giống, đẻ và nuôi con. Những heo nái
không nằm xuống hoặc không đứng lên được trong khung chuồng cần loại thải

ngay, nên chọn heo có nguồn gốc rõ ràng, kiểm soát được tình hình dịch bệnh.
2.1.2.2 Chọn heo đực hậu bị
Khi chọn đực làm giống phải có lý lịch ông bà cha mẹ, chọn giống có
năng suất cao, chọn đực giống có ngoại hình, thể chất đạt tiêu chuẩn giống cấp



5
1 trở lên, chọn đực tốt nhất tổng đàn, khỏe mạnh, lưng thẳng, không quá
mỏng, ngực nở, mình dài, mông to, bốn chân cứng cáp, thẳng đứng nhanh
nhẹn, chân cao vừa phải, hiếu động. Heo đực có 2 hòn cà (tinh hoàn) đồng
đều, cân đối, lộ rõ rệt, không xệ, không mỏng như sa ruột, tránh tinh hoàn
lệch, to nhỏ không đều nhau, không bị nấm ghẻ. Đực có móng chân chụm,
móng hến. Không chọn đực có móng chân chỏe rộng, móng cao, móng thấp,
nứt nẻ, bị hà. Chọn heo đực phàm ăn thích nghi tốt với thời tiết nóng lạnh, tiêu
tốn thức ăn/kg tăng trọng thấp. Heo được chọn không bị bệnh kinh niên truyền
nhiễm (Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỹ, 2004).
2.1.2.3 Nhân giống thuần
Theo Trương Lăng (2000), nhân giống thuần là phương pháp giao phối
heo đực và heo cái cùng giống hoặc cùng dòng tạo ra tính đồng nhất, duy trì
những đặc tính di truyền tốt sẵn có. Mục tiêu của phương pháp này là nhằm
giữ giống thuần chủng để có thể sử dụng vào nhân giống lai.
Theo Nguyễn Ngọc Tuân và Trần Thị Dân (2000), nhân giống thuần gia
tăng mức đồng hợp tử để ổn định đàn giống thuần. Tuy nhiên nên chọn giống
và ghép đôi giao phối cẩn thận, tránh giao phối cận huyết quá đáng vì đồng
huyết ảnh hưởng xấu đến sinh lực của thế hệ sau.
2.1.2.4 Nhân giống lai
Theo Lê Thị Mến (2010), phải nhân giống lai vì không giống nào có thể
cung cấp hoặc thể hiện một cách đầy đủ các đặc điểm tốt theo yêu cầu hoặc thị
hiếu của người nuôi. Do đó phải kết hợp những đặc tính đó ở các giống khác

nhau bằng phương pháp nhân giống lai để tạo ra con lai có đặc tính như mong
muốn.
Theo Nguyễn Ngọc Tuân và Trần Thị Dân (2000), qua nghiên cứu nhiều
năm cho thấy việc lai giống đã đạt hiệu quả cao thông qua ưu thế lai. Ưu thế
lai là một sự vượt trội của con lai so với bố mẹ được thể hiện ở khả năng sống,
sinh trưởng, số con đẻ ra và khả năng nuôi con.
Mục tiêu nhằm bổ sung một số tính trạng nào đó ở một giống bị khiếm
khuyết, tạo ra con lai có phẩm chất tốt của bố mẹ, con lai thường sử dụng
trong mục đích kinh tế (Lê Hồng Mận, 2002).
Những cặp lai ngoại đạt chất lượng thịt và năng suất thịt cao phổ biến
hiện nay như: Duroc x (Landrace-Yorkshire), Duroc x (Yorkshire-Landrace),
Pietrain x (Landrace-Yorkshire), (Pietrain-Duroc) x (Landrace-Yorkshire)…
2.2 Đặc điểm sinh lý heo con
2.2.1 Sinh trưởng và phát triển
Heo con trong thời kỳ này phát triển với tốc độ rất nhanh thể hiện thông
qua sự tăng khối lượng của cơ thể. Thông thường, khối lượng heo con ở ngày
thứ 7-10 đã gấp 2 lần khối lượng sơ sinh, lúc 21 ngày tuổi gấp 4 lần khối
lượng sơ sinh, lúc 30 ngày tuổi gấp 5 lần khối lượng sơ sinh và đến 60 ngày
tuổi gấp 10-15 lần khối lượng sơ sinh (Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007).



6
Khối lượng heo con đạt được ở các thời điểm sơ sinh, cai sữa, xuất
chuồng có mối quan hệ thuận với nhau khá chặt chẽ, có nghĩa là khối lượng sơ
sinh càng cao thì có khối lượng lúc cai sữa cao (Vũ Đình Tôn và Trần Thị
Nhuận, 2005).
Theo Mullan và Frio (2008) thì khả năng tăng trọng cao nhất của heo:
nếu heo lúc sơ sinh hơn nhau 0,5 kg thì hơn nhau tương đương 1 kg ở thời
điểm cai sữa, và nếu khối lượng ở thời điểm cai sữa hơn nhau 0,1 kg thì thời

điểm đạt khối lượng giết thịt sẽ sớm hơn một ngày. Heo con nuôi trong giai
đoạn cai sữa nếu tăng trọng bình quân mỗi ngày thêm 5 g thì ở thời điểm đạt
khối lượng giết thịt sẽ sớm hơn một ngày.
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, heo con gặp hai thời kỳ khủng
hoảng là lúc 3 tuần tuổi và lúc cai sữa:
Lúc 3 tuần tuổi: nhu cầu sữa cho heo con tăng, trái lại lượng sữa heo mẹ
lại bắt đầu giảm, một số chất dinh dưỡng trong heo con giảm dần đặt biệt là
sắt. Sắt là thành phần cấu tạo hemoglobin (Trần Cừ, 1972). Ở heo con mỗi
ngày cần khoảng 7-11 mg, mà lượng sắt do sữa mẹ cung cấp rất ít, khoảng 1
mg Fe/ngày (Võ Duy Giảng, 1997).
Lúc cai sữa: do bị tách khỏi mẹ, từ dinh dưỡng phụ thuộc sữa mẹ chuyển
sang dinh dưỡng phụ thuộc hoàn toàn vào thức ăn.
2.2.2 Cơ quan điều tiết thân nhiệt của heo con
Khả năng điều tiết thân nhiệt của gia súc non rất kém, do đó nó rất nhạy
cảm với sự thay đổi khí hậu bên ngoài, nhất là nhiệt độ lạnh dễ làm gia súc
non bị bệnh. Ở gia súc non từ 15-20 ngày tuổi thân nhiệt mới dần ổn định
(Trần Thị Dân, 2006).
Heo con mới sinh có lượng nước rất cao trong cơ thể, nước có vai trò rất
quan trọng trong việc điều tiết thân nhiệt của heo. Khả năng điều tiết thân
nhiệt của heo trong những ngày đầu rất kém, nó chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố
môi trường và phụ thuộc vào tuổi nhiều hơn là khối lượng heo (Vũ Đình Tôn
và Trần Thị Nhuận, 2005).
Nước ta tuy là xứ nóng nhưng phải chống lạnh cho heo con mới sinh đến
cai sữa, vì nhiệt độ ban đêm thường dưới 30
0
C. Heo con chống lạnh bằng
cách nâng cao chuyển hóa cơ bản, tăng sinh nhiệt, nhưng không kéo dài được.
Cơ thể chỉ chứa 1/100 lipid, lipid này tiêu hao nhanh nên heo con bị lạnh.
Nhiệt độ của heo con sau khi đẻ giảm xuống phụ thuộc khối lượng sơ sinh,
lượng và chất dinh dưỡng thu được và nhiệt độ môi trường. Khi sinh ra, 20

phút đầu tiên thân nhiệt hạ rất nhanh giảm 2–3
0
C. Heo con có khối lượng
dưới 0,5 kg không đủ duy trì thân nhiệt bình thường. Do ảnh hưởng của nhiệt
độ không khí và tốc độ bốc hơi của nước đầu ối, nhiệt độ heo con hạ từ 38,6
0
C xuống 37,7
0
C. Nếu sau khi đẻ từ 5-16 giờ heo con không được bú sữa,
thân nhiệt hạ xuống 36,9
0
C thì heo con có thể hôn mê và dễ chết. Nếu nhiệt
độ bên ngoài dưới 12
0
C, sau khi đẻ 20 phút đến 24 giờ mà thân nhiệt heo con
chưa nâng được 38
0
C thì sẽ chết. Vì vậy, phải có ổ ấm cho heo sơ sinh, để
heo con nhanh trở lại nhiệt độ cơ thể bình thường. Nền chuồng, vách chuồng



7
lạnh làm tăng bức xạ nhiệt của cơ thể heo con, tỏa nhiệt nhiều, tốn năng lượng.
Chuồng ấm áp, nhiều rơm độn, đốt sưởi ban đêm là biện pháp cần thiết để
nâng cao tỷ lệ nuôi sống (Trương Lăng, 2003).
Heo con mới đẻ có sự thay đổi rất lớn về điều kiện sống so với ở bên
trong cơ thể heo mẹ có nhiệt độ ổn định 39
0
C, ra bên ngoài điều kiện nhiệt độ

rất thay đổi tùy theo từng mùa khác nhau. Do vậy heo con rất dễ bị nhiễm
lạnh, giảm đường huyết và có thể dẫn đến chết. Điều này có thể do một số vấn
đề sau: lông heo con thưa, lớp mỡ dưới da mỏng, diện tích bề mặt so với khối
lượng cơ thể cao nên khả năng chống lạnh kém; lượng mỡ và glycogen dự trữ
trong cơ thể thấp nên khả năng cung cấp năng lượng chống lạnh bị hạn chế;
Hệ thần kinh điều khiển cân bằng thân nhiệt chưa hoàn chỉnh. Bởi vì trung khu
điều khiển thân nhiệt nằm ở vỏ não là cơ quan phát triển muộn nhất ở cả hai
giai đoạn trong thai và ngoài thai (Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007).
Nhiệt độ trong khu vực chuồng nái đẻ vừa thích hợp cho heo mẹ vừa
thích hợp cho heo con là một vấn đề không dễ, vì yêu cầu về nhiệt độ đối với
heo mẹ và yêu cầu về nhiệt độ đối với heo con trong từng giai đoạn khác nhau.
Đối với heo mẹ nhiệt độ dao động thích hợp từ 15–24
0
C. Khi nhiệt độ trong
chuồng cao hơn 24
0
C thì tính thèm ăn giảm và sẽ giảm năng suất sữa. Đối với
heo con, đặc biệt là những ngày đầu sau khi mới đẻ ra, biên độ dao động nhiệt
độ đối với heo con trong thời kỳ theo mẹ là từ 25–35
0
C. Vì vậy, để có được
nhiệt độ thích hợp cho heo con mà không ảnh hưởng đến heo mẹ thì nhất thiết
phải có bóng đèn để sưởi ấm vào những tháng mùa đông, mùa thu và các ngày
đầu sau khi đẻ của tất cả các mùa trong năm. Bóng đèn có thể là bóng điện
100 W, nếu tốt hơn có thể mua bóng đèn hồng ngoại công suất 250 W, ngoài
tác dụng sưởi ấm bóng đèn hồng ngoại còn có tác dụng diệt khuẩn trong ô
chuồng heo con. Dưới đây là khuyến cáo nhiệt độ thích hợp cho heo con trong
thời kỳ theo mẹ:
- Ngày đầu (mới lọt lòng mẹ) 35
0

C
- Ngày thứ 2 33
0
C
- Ngày thứ 3 31
0
C
- Ngày thứ 4 29
0
C
- Ngày thứ 5 27
0
C
- Ngày thứ 6 trở đi 25–27
0
C
(Trần Văn Phùng, 2005)
2.2.3 Sức đề kháng của heo con
Theo Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt (2007), heo con từ khi mới sinh ra
trong máu hầu như không có kháng thể. Song lượng kháng thể trong máu heo
con được tăng rất nhanh sau khi heo con bú sữa đầu. Cho nên nói rằng ở heo
con khả năng miễn dịch là hoàn toàn thụ động. Nó phụ thuộc vào lượng kháng
thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa mẹ. Trong sữa đầu của heo mẹ có tỷ lệ
protein rất cao, những giờ đầu sau khi đẻ trong sữa có tới 18-19% protein.



8
Trong đó lượng  - globulin chiếm số lượng rất lớn (34–45%) cho nên nó có
vai trò miễn dịch ở heo con.

Bên cạnh sự hấp thu kháng thể từ sữa mẹ thì bản thân heo con trong thời
kỳ này cũng có quá trình tổng hợp kháng thể. Trước đây người ta cho rằng mãi
tới 2 tuần tuổi hoặc muộn hơn mới có quá trình tổng hợp kháng thể ở heo con.
Song một nghiên cứu tại Bruno cho thấy chỉ ngay ngày thứ hai sau khi đẻ một
số cơ quan trong cơ thể heo con đã bắt đầu sản sinh kháng thể. Nhưng khả
năng này còn rất hạn chế và nó chỉ được hoàn chỉnh tốt hơn khi heo con được
một tháng tuổi (Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007).
2.2.4 Đặc điểm về sự phát triển của cơ quan tiêu hoá của heo con
Theo Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt (2007), thời kỳ này đặc điểm nổi
bật của cơ quan tiêu hóa heo con đó chính là sự phát triển rất nhanh song chưa
hoàn thiện. Sự phát triển nhanh thể hiện ở sự tăng về dung tích và khối lượng
của bộ máy tiêu hóa. Còn chưa hoàn thiện thể hiện ở số lượng cũng như hoạt
lực của một số men trong đường tiêu hóa heo con bị hạn chế.
Bảng 2.1: Sự phát triển của bộ máy tiêu hóa heo con
Cơ quan
Thời điểm
Số lần tăng
Sơ sinh
70 ngày
Dạ dày
2,5 ml
1815 ml
> 70 lần
Ruột non
100 ml
6000 ml
60 lần
Ruột già
40 ml
2100 ml

> 50 lần
(Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007)
Theo Trương Lăng (2003) heo con sinh trưởng, phát dục nhanh. Song
những tuần đầu bị hạn chế do chức năng cơ quan tiêu hóa chưa thành thục.
2.2.4.1 Tiêu hóa ở miệng
Theo Trương Lăng (2003), thức ăn ở miệng được hấp thu chủ yếu là
đường glucose nhưng với số lượng không đáng kể vì thời gian dừng lại không
lâu, tùy lượng thức ăn, lượng tiết khác nhau. Thức ăn có phản ứng acid yếu và
khô thì nước bọt tiết ra mạnh, thức ăn lỏng thì giảm hoặc ngừng tiết dịch.
Lượng nước bọt thay đổi tùy theo số lần cho ăn, chất lượng thức ăn. Ăn chỉ
một loại thức ăn kéo dài sẽ làm tăng nhiệm vụ của một tuyến, gây ức chế, heo
ít thèm ăn. Ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, cả hai tuyến hoạt động, không
gây ức chế. Vì vậy nên cho ăn nhiều loại thức ăn, đổi bữa, heo sẽ thèm ăn, tiết
nước bọt liên tục giúp tiêu hóa tốt thức ăn.
Trong quá trình tập ăn cho heo con, men amylase từ tuyến nước bọt tiết
ra cao nhất lúc 2-3 tuần tuổi sau đó giảm lại. Sự tiêu hóa tinh bột trong khoang
miệng rất hạn chế do thức ăn tồn tại trong khoang miệng trong thời gian rất
ngắn (Nguyễn Thiện, 2008).
Theo Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Quế Côi (2005), thức ăn tập ăn cho
heo con có thành phần chủ yếu là sản phẩm sữa (35-45%) và các thành phần



9
khác cũng phải đảm bảo dễ tiêu hóa (92-94%). Thức ăn phải có mùi thơm hấp
dẫn.
2.2.4.2 Tiêu hoá ở dạ dày
Độ acid của dịch vị heo sơ sinh thấp nên hoạt hoá pepsinogen kém, diệt
khuẩn kém. Acid HCl tự do xuất hiện ở 25-30 ngày tuổi và diệt khuẩn rõ nhất
ở 40-45 ngày tuổi. Trong tháng tuổi đầu, dạ dày hầu như không tiêu hoá

protein thực vật. Sữa sau khi rời khỏi dạ dày 1-1,3 giờ, trộn dịch vị với sữa tỷ
lệ 1:5, sau 5-6 gây sữa đông vón lại, sữa được tiêu hoá hoàn toàn (Trương
Lăng, 2003). Bên cạnh acid HCl trong dạ dày còn có acid lactic, acid acetic,
propionic; còn acid butyric thì ít hơn. Acid lactic có liên quan đến vi khuẩn
lactic. Heo con 60 ngày tuổi, vi khuẩn lactic nhiều hơn ở heo 120 ngày tuổi.
Nó giảm khi cân bằng dinh dưỡng hoàn toàn và tăng khi cân bằng dinh dưỡng
không hoàn toàn. Trực trùng E.coli cũng giảm khi cân bằng dinh dưỡng hoàn
toàn. Ở dạ dày không tiết men tiêu hoá tinh bột, nhưng vẫn có chức năng tiêu
hoá chút ít tiêu hoá tinh bột nhờ men amilaz và men mantaz của nước bọt
thấm vào thức ăn.
Theo Nguyễn Đình Tôn và Trần Thị Nhuận (2005), khả năng tiêu hóa ở
dạ dày được nghiên cứu khá đầy đủ. Khi mới sinh, dịch vị tiết ra ít sau đó tăng
nhanh theo sự tăng dung tích của dạ dày. Lượng dịch vị tăng nhanh nhất vào
3-4 tuần tuổi sau đó giảm dần. Trong một ngày đêm, lượng dịch vị tiết ra khác
nhau và biến đổi theo tuổi. Trước khi cai sữa, ban đêm heo con tiết nhiều dịch
vị hơn do heo mẹ cho sữa nhiều vào ban đêm nên kích thích sự tiết dịch vị của
heo con. Khi cai sữa lượng dịch vị tiết ra ngày đêm gần bằng nhau.
Bảng 2.2: Lượng dịch vị biến đổi tùy theo tuổi và ngày đêm như sau:
Thời gian
Loại heo
Heo lớn
Heo nhỏ
Ngày
62%
31%
Đêm
38%
69%
(Trương Lăng, 2003)
Acid lactic có liên quan đến vi khuẩn lactic. Heo con 60 ngày tuổi, vi

khuẩn lactic nhiều hơn ở heo 120 ngày tuổi. Nó giảm khi cân bằng dinh dưỡng
hoàn toàn và tăng khi cân bằng dinh dưỡng không hoàn toàn. Trực trùng E.coli
cũng giảm khi cân bằng dinh dưỡng hoàn toàn.
2.2.4.3 Tiêu hoá ở ruột
Heo sơ sinh dung tích ruột non 100 ml, 20 ngày tuổi tăng 7 lần, tháng thứ
3 đạt 6 lít, 12 tháng đạt 20 lít. Ruột già, sơ sinh dung tích 40-50 ml, 20 ngày
100 ml, tháng thứ 3 khoảng 2,1 lít, tháng thứ 4 là 7 lít, tháng thứ 7 là 11-12 lít.
Tiêu hoá ở ruột nhờ tuyến tụy, enzyme trypsin trong dịch tụy thủy phân
protein thành acid amin. Ở trong thai 2 tháng tuổi chất tiết đã có trypsin. Thai
càng lớn, hoạt tính enzyme trypsin càng cao và khi mới đẻ hoạt tính rất cao.
Độ kiềm của dich tụy tăng theo tuổi và cường độ tiết. Hoạt tính enzyme
amylase đạt 1000-8000 đơn vị và giảm theo tuổi.



10
Người ta nhận thấy bệnh thiếu máu heo con không ảnh hưởng đến hoạt
tính các enzyme, trừ enzyme manltase. Các enzyme tiêu hoá trong dịch ruột
heo con gồm: amino peptidase, dipeptidase, lipase và amylase. Trong một
ngày đêm, heo con một tháng tuổi tiết dịch từ 1,2-1,7 lít; 3-5 tháng có từ 6-9
lít dịch. Lượng dịch tiêu hoá phụ thuộc vào tuổi và tính chất khẩu phần thức
ăn. Heo con một tháng rưỡi đến 2 tháng tuổi, lượng dịch ngày đêm tăng đáng
kể nếu tăng thức ăn thô xanh vào khẩu phần (Trần Thị Dân, 2006).
2.2.5 Sự phát triển của hệ thống enzym tiêu hoá
Theo Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt (2007), mặc dù dung tích tăng lên
rất nhanh song hệ thống men lại chưa phát triển đầy đủ nhất là ở những tuần
đầu sau khi đẻ. Cụ thể như sau:
+ Men tiêu hóa tinh bột: amylase do tuyến nước bọt tiết ra ở heo sơ sinh
có hoạt lực thấp, tăng cao nhất lúc 2-3 tuần tuổi sau đó lại giảm. Tuy nhiên vai
trò của amylase nước bọt đối với quá trình tiêu hóa tinh bột rất hạn chế là do

thức ăn tồn tại ngắn trong miệng và quá trình tiêu hóa chỉ được thực hiện ở
phần thượng vị dạ dày. Amylase tụy có ngay ở thời kỳ sơ sinh song hoạt lực
thấp và tăng cao dần ở 4-6 tuần tuổi. Đây là loại men có vai trò rất quan trọng
trong tiêu hóa tinh bột do lượng men lớn và thời gian tiếp cận với cơ chất dài.
Maltaza và saccaraza cũng tương tự như amylase tụy, tức là những tuần
đầu sau khi sinh hàm lượng thấp và sau đó tăng dần đạt mức cao ở 5-6 tuần
tuổi. Do các men tiêu hóa tinh bột như vậy, cho nên khả năng tiêu hóa tinh bột
của heo con trong 4 tuần đầu còn kém chỉ đạt 50% lượng tinh bột ăn vào.
Khoảng tuần 5-6 khả năng tiêu hóa tinh bột tương đối hoàn thiện. Đây chính là
yếu tố cần chú ý trong khi phối hợp khẩu phần cũng như chế biến thức ăn để
giúp cho heo con có khả năng sử dụng được. Ví dụ như tinh bột ngô sống còn
tiêu hóa rất kém trong vòng 25 ngày tuổi song tinh bột ngô chín lại tiêu hóa
được.
+ Men lactase tiêu hóa đường lactoza có hoạt lực cao ngay từ khi sơ sinh
và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2 sau đó giảm nhanh chóng (phù hợp với
đường lactoza trong sữa).
+ Men tiêu hóa mỡ (Lipase): men này hoạt động mạnh ngay từ khi mới
sinh ra và tương đối ổn định trong suôt thời kỳ bú sữa.
+ Men tiêu hóa protein: men pepsin có ngay từ khi sơ sinh và tăng dần
tới 5-6 tuần tuổi, song không có chức năng tiêu hóa protein bởi vì ở dạng
pepsinogen. Pepsinogen cần có acid clohydric (HCl) ở dạng tự do để hoạt hóa
nó biến thành dạng hoạt động. Acid clohydric (HCl): do thiếu acid này ở thời
kỳ đầu sau khi mới sinh cho nên độ acid dịch vị của heo con thấp, vì vậy khả
năng hoạt hóa epsinogen kém.
HCl tự do xuất hiện ở ngày tuổi 25-30 và tính diệt khuẩn rõ ở ngày 40-
50. HCl có 2 dạng tự do và kết hợp. Ở dạng kết hợp nó liên kết với các chất
hữu cơ trong niêm dịch cả dạng tự do và liên kết (có thể có cả phosphat acid
và acid lactic), kết hợp gọi lại là acid chung. Độ acid chung của dịch vị bình
quân 0,3-0,4% (heo trưởng thành) biến động 0,1-0,5%. Trong đó HCl tự do là




11
0,06-0,45% chiếm 90% độ acid chung còn acid HCl liên kết chỉ chiếm 8-10%.
HCl tự do không phải luôn luôn tuân theo tuổi của heo, tức cứ ngày 25-30 mới
có ở dạng tự do. Nó tùy theo điều kiện môi trường nuôi dưỡng, tùy theo việc
bổ sung thức ăn vào sớm hay muộn mà xuất hiện vào lúc nào.
Nuôi heo con ở môi trường vô trùng thì HCl có ngay từ những ngày đầu
sau khi đẻ. Có điều này là do liên quan với lượng acid lactic không có trong dạ
dày đã dẫn đến độ pH dạ dày cao, từ đó kích thích sự phát triển của các tế bào
sinh HCl. Trong khi đó nếu nuôi heo con trong điều kiện bình thường thì phải
sau 25-30 ngày mới có. Nếu ta tập cho heo con ăn sớm từ 7-10 ngày bằng thức
ăn hạt thì ngày thứ 14 đã thấy có HCl ở dạng tự do. Trong dạ dày heo con còn
có men kimozin. Men này có hoạt lực cao trong tháng tuổi thứ nhất sau đó
giảm. Men này có tác dụng làm đông vón sữa để chuyển sữa qua vùng tiêu hóa
chậm hơn, do đó quá trình tiêu hóa được thực hiện lâu hơn.
Men tripsin: ở thời kỳ bào thai lúc 2 tháng tuổi trong chất chiết đã có
tripsin. Thai càng lớn hoạt tính của tripsin càng cao. Khi heo mới đẻ hoạt tính
của tripsin rất cao, để bù đắp lại khả năng tiêu hóa kém của pepsin dạ dày.
Như vậy ở thời kỳ đầu của heo con, nhất là giai đoạn trước 3 tuần tuổi khả
năng tiêu hóa thức ăn bổ sung sẽ bị hạn chế, do hầu hết hoạt lực của các men
tiêu hóa kém. Tuy nhiên nếu có những biện pháp thích hợp như tạo môi trường
nuôi dưỡng tốt, cung cấp các loại thức ăn được chế biến hợp lý hay tập cho
heo con ăn sớm sẽ cải thiện được những hạn chế này (Nguyễn Thiện và Võ
Trọng Hốt, 2007)
2.2.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan tiêu hoá
Theo Trương Lăng (2003) thì các nhân tố sau thường ảnh hưởng đến
hoạt động của cơ quan tiêu hóa:
+ Các loại thức ăn: thức ăn nhiều nước làm giảm khả năng tiết nước bọt.
Pha loãng tỷ lệ 1:3, ở dạng cháo thì tuyến nước bọt hầu như không tiết. Cám

gạo kích thích tiết dịch vị nhiều, độ acid của dịch vị cũng cao hơn khoai sắn.
Thức ăn rang thơm, ủ men tăng tiết dịch vị. Thức ăn sống gây dịch tụy, dịch
ruột tiết nhiều dịch vị, hoạt lực enzyme cũng cao hơn so với cho ăn thức ăn
chín.
+ Tỷ lệ các chất dinh dưỡng: khẩu phần thức ăn kém cân bằng sẽ làm
cho cơ quan tiêu hoá hoạt động căng thẳng giảm đồng hoá thức ăn. Khẩu phần
thiếu protein sẽ làm tăng hoạt động của cơ quan tiêu hoá, thải nhiều nitơ theo
dịch tiêu hoá, liên quan đến sự tăng lượng nitơ trao đổi theo phân, dẫn đến heo
con bị thiếu protein. So sánh, khi tăng protein trong khẩu phần từ thấp (14%
đối với heo 3-5 tháng tuổi, 12% đối với heo 5-6 tháng tuổi) lên cao (20% với
heo 3-4 tháng tuổi, 18% với heo 5-6 tháng) nhận thấy ở mức protein 20%, hoạt
lực proteaza ở dịch vị, dịch tụy, nhũ chấp ruột, nồng độ các dạng nitơ trong
nhũ chấp ruột đều cao hơn, sử dụng nitơ nhiều hơn, heo tăng trọng tốt hơn.
+ Cách cho ăn: ăn nhiều bữa trong ngày (5 bữa so với 3 bữa) dịch vị tăng
79,43%, dịch tụy tăng 35,2%. Ăn khô so với ăn ướt tăng nhũ chấp trong một
ngày đêm (tính trên 1 kg thức ăn ăn vào) là 32% và dịch tiêu hóa tăng 12%.
Ăn đặc, hàm lượng các dạng nitơ trong nhũ chấp cao, sử dụng nitơ ở ống tiêu



12
hoá nhiều hơn so với ăn loăng. Heo con sinh trưởng nhanh, tốc độ tăng trọng
cao. Sau khi đẻ 8 ngày tăng gấp đôi, 10 ngày tăng gấp 3-4 lần, 55-60 ngày
tăng gấp 15-20 lần. Heo con càng lớn, nhu cầu sữa càng nhiều, nhưng lượng
tiết sữa của heo mẹ lại giảm từ tuần thứ 3, tuần thứ 4 rõ rệt. Có heo mẹ thiếu
sữa ngay từ tuần lễ đầu, hoặc do con nhiều, vú ít. Sơ sinh, dạ dày heo con chỉ
chứa được 4-5 g sữa, 20 ngày tăng gấp 4-6 lần, khi cai sữa tăng 20-25 lần. Cho
heo con ăn sớm kích thích tiết dịch vị, tiết HCl khi thức ăn tác động cơ giới
vào thành dạ dày. Bộ máy tiêu hoá phát triển, ruột dài ra, tăng tiêu hoá, sinh
trưởng mau.

Lượng pepsin ở heo sơ sinh ít, tăng đều đặn trong khoảng 3-6 tuần tuổi.
Từ sơ sinh đến 20-35 ngày tuổi không tiết HCl, nhưng cho ăn sớm bằng ngũ
cốc từ 14-20 ngày thì tiết HCl, giúp tiêu hoá tốt hơn. Pepsin ít tham gia tiêu
hoá cho đến khi heo con 3-4 tuần tuổi. Protein sữa tiêu hóa bởi trypsin không
cần pepsin. Heo con 7-21 ngày tuổi, sữa có khả năng đông, và đông sữa có tác
dụng giúp tiêu hóa sữa. Amylase trong nước bọt hoạt động cao nhất lúc heo 2-
3 tuần tuổi. Amylase tuyến tụy tăng nhanh khi heo 4-5 tuần tuổi. Khi 35 ngày
tuổi heo con đủ lượng amylase để tiêu hóa glucid trong khẩu phần thức ăn.
Tinh bột ngũ cốc cho ăn sống không tiêu hóa một cách dễ dàng cho tới khi heo
23-25 ngày tuổi, bởi lẽ đó thức ăn tập ăn sớm cho heo còn phải chế biến, rang
sấy nghiền bột. Enzyme maltase ở ruột non sơ sinh tác dụng thấp nhưng tăng
lên khi 5 tuần tuổi. Lipase trong 4 tuần đầu hoạt động cao, sau càng cao. Nó
thủy phân triglyxerit thành monoglyxorid. Sự tiết mật ảnh hưởng sự tiếp thu
lipid. Lượng dịch mật tăng chậm trong 3 tuần đầu. Qua thay đổi hệ thống
enzyme ở heo con, việc tập ăn sớm để cai sữa 3-4 tuần tuổi là phù hợp.
2.2.7 Đặc điểm bộ máy tiêu hóa của heo khi cai sữa
Theo Trần Thị Dân (2004) bộ máy tiêu hóa heo sau cai sữa có một số đặc
điểm sau:
Ở heo con màng nhày ruột non có những thay đổi khi heo được cai sữa ở
3–4 tuần tuổi. So với trước khi cai sữa, nhung mao hấp thu dinh dưỡng ngắn
hơn sau cai sữa 75% trong vòng 24 giờ sau cai sữa và tình trạng này vẫn tiếp
tục cho đến ngày thứ 5 sau cai sữa.
Một số enzyme tiêu hóa như lactase, glucosidase, protease bị giảm nhưng
maltase tăng lên, vì vậy hấp thu dinh dưỡng của ruột cũng bị giảm. Chiều dài
nhung mao và hình dạng chưa trưởng thành của quần thể tế bào ruột có thể
giải thích tại sao heo sau cai sữa lại tăng sự nhạy cảm đối với bệnh E.coli. Sự
thay đổi này được thiết lập trong vòng 5 ngày và kéo dài trong ít nhất 5 tuần.
Ở heo trước khi cai sữa nhung mao ít có sự thay đổi hoặc có thể giảm chút ít
và độ sâu của màng ruột tăng dần nhưng tốc độ chậm hơn. Vì vậy nếu cai sữa
sớm heo con thì lưu ý đến những thay đổi trên để có chế dộ dinh dưỡng thích

hợp.
Có sự liên quan giữa khẩu phần và đáp ứng miễn dịch trên heo con, nếu
heo ăn khẩu phần có protein đậu nành chỉ trong một khoảng thời gian ngắn
trước cai sữa thì heo sau cai sữa dễ bị tiêu chảy hơn.



13
Heo con khỏe mạnh trong đường ruột chứa vi khuẩn lactobacilli ở ruột
non, Bifidobacteria hiện diện ở manh tràng và kết tràng, streptococci,
enterobacteria, peptostreptococci, veinonella thì không có hoặc hiện diện nhỏ
trong dạ dày, ruột non và tăng dần ở phần ruột già.
2.2.8 Những biến đổi sinh lý heo con cai sữa
2.2.8.1 Những biến đổi về tiêu hoá
Đối với heo con đang theo mẹ, nếu ta tách mẹ ra và nuôi dưỡng chúng
với khẩu phần thích hợp trong tuần đầu vẫn xảy ra xáo trộn trao đổi chất. Vì
thế cần phải có thời gian thích hợp để heo con làm quen với một số khẩu phần
thức ăn, lúc này cơ thể heo con hoàn toàn sử dụng nguồn năng từ thức ăn cung
cấp. Do quá trình tiêu hoá khác nhau, chức năng tiêu hoá tăng dẫn đến chất
dinh dưỡng hấp thu nhiều hơn (Trần Cừ, 1972).
Theo Trương Lăng (1999) thì thức ăn thay thế sữa mẹ có thể khó tiêu
hơn sữa mẹ, không tiêu hoá hết số lượng thức ăn tập ăn có thể làm cho heo
con bị ảnh hưởng là giảm khả năng tiêu hoá, vi sinh vật ruột già dễ lên men
nên giảm hấp thu nước ở đường ruột dẫn đến tiêu chảy.
2.2.8.2 Ảnh hưởng của sự cho ăn lên sự tiêu hoá
Sau khi tách mẹ việc cho ăn tự do dẫn đến tỷ lệ rối loạn tiêu hoá cao hơn, tuy
nhiên khi cho ăn giới hạn cũng là cho năng suất giảm. Do đó tiêu chảy và cho
ăn hạn chế đều làm cho tốc độ tăng trọng giảm, khuyến cáo nên giảm số lượng
cho ăn trên ngày trong những trường hợp xuất hiện tiêu chảy (Trần Thị Dân,
2006).

Theo Trương Lăng (2000), khi heo ăn nhiều bữa trong ngày (5 bữa so
với 3 bữa) dịch vị tăng 79,43%, dịch tụy tăng 35,2%. Ăn thức ăn khô dịch tiêu
hóa tăng 12% so với ăn thức ăn ướt). Từ sơ sinh đến 20–35 ngày tuổi không
tiết HCl, nhưng cho ăn sớm bằng ngũ cốc từ 14–20 ngày thì tiết HCl, giúp tiêu
hoá tốt hơn Cho heo con ăn sớm kích thích tiết dịch vị, tiết HCl khi thức ăn tác
động cơ giới vào thành dạ dày. Bộ máy tiêu hoá phát triển, ruột dài ra, tăng
tiêu hoá và sinh trưởng nhanh hơn.
2.2.8.3 Khả năng ức chế sau cai sữa
Cơ thể heo con dễ bị strees sau khi cai sữa do một số nguyên nhân sau:
Về tâm lý: việc tách khỏi mẹ, nhập đàn hay chuyển chuồng nuôi làm ảnh
hưởng đến hoạt động của heo. Có sự thay đổi về nhiệt độ và điều kiện môi
trường. Heo con phải học cách uống nước và ăn thức ăn riêng (Trần Thị Dân,
2006).
Về thức ăn: việc thay đổi thức ăn được cung cấp chủ yếu từ sữa mẹ sang
thức ăn khô, cứng và việc cung cấp giữa các lần không tương đương, thức ăn
không được cung cấp 24/24 giờ. Do đó dẫn đến nguồn cung cấp năng lượng bị
giảm. Đó là chưa nói đến việc cung cấp thức ăn có chất lượng không ổn định
vì được đặt trong điều kiện không khí nóng ẩm. Sự thay đổi bởi sự cung cấp
dinh dưỡng từ những máng ăn xa lạ đối với heo con (Trương Lăng, 2003).



14
Ngoài ra heo con cần nước nhiều hơn khi ăn thức ăn khô. Sự tranh giành
hoặc đánh nhau cũng rất xảy ra khi ghép bầy hay có sự chênh lệch về khối
lượng trong cùng một bầy.
2.3 Nhu cầu dinh dưỡng của heo con
Theo Trương Lăng (2003), heo con sinh trưởng nhanh, tốc độ tăng trọng
cao. Sau khi đẻ 8 ngày tăng gấp đôi, 10 ngày tăng gấp 3-4 lần, 55-60 ngày
tăng gấp 15-20 lần. Heo con càng lớn, nhu cầu sữa càng nhiều, nhưng lượng

tiết sữa của heo mẹ lại giảm từ tuần thứ 3, tuần thứ 4 rõ rệt. Có heo mẹ thiếu
sữa ngay từ tuần lễ đầu, hoặc do con nhiều, sinh trưởng nhanh, tốc độ tăng
trọng cao, vú ít. Tuần thứ 3, do lượng sữa giảm nên không cung cấp đủ năng
lượng cho heo con, nên tập ăn sớm cho heo con.
Bảng 2.3: Sự thay đổi lượng sữa và thành phần sữa của heo
Thành phần
Đơn vị
Sữa đầu
6 ngày
29 ngày
Lượng sữa trung bình
Protein
Lipid
Lacto
Khoáng
lít
%
%
%
%

15,56
9,53
3,84
0,85
7,4
12,8
3,14
2,99
0,71

4,40
5,68
2,81
1,59
0,81
(Trương Lăng, 2003)

×