Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA KHỐI LƯỢNG TRÂU BỐ, MẸ ĐẾN KHỐI LƯỢNG VÀ TỐC ĐỘ SINH TRƯỞNG CỦA ĐỜI CON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.91 KB, 12 trang )


NGUYỄN CÔNG ĐỊNH - Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng

1

ẢNH HƯỞNG CỦA KHỐI LƯỢNG TRÂU BỐ, MẸ ĐẾN KHỐI LƯỢNG
VÀ TỐC ĐỘ SINH TRƯỞNG CỦA ĐỜI CON
Nguyễn Công Định
1
, Mai Văn Sánh
2
và Trịnh Văn Trung
1
1
Bộ môn Di truyền Giống vật nuôi – Viện Chăn nuôi;
2
Phòng

Đào tạo và Thông tin - Viện Chăn nuôi
Tác giả liên hệ: Nguyễn Công Định - Tel: (04) 8.386.125/ 0988678559; Fax : (04).8 389.775;
Email:

ABSTRACT
Effect of buffalo bull and cow size on body weight and growth rate of offsprings
Sixteen Swamp buffalo bulls (8 big size and 8 local bulls) and 480 buffalo cows (240 selected
and 240 non-selected) were used to evaluate the effect of bull size and selected buffalo cows
on body weight and growth rate of offsprings. Experimental animals were allocated into 4
groups: 1- big size bulls and selected cows; 2 - big size bulls and non-selected cows; 3 – local
bulls and selected cows and 4 – local bulls and non-selected cows (control group). Each bull
was used to breed with 15 selected cows and 15 non-selected cows.
Body weight of offsprings at 3, 6, 12, 24, 36, 48 and 60 months of age was highest in group 1,


following group 2 and group 3 and the lowest was found in control group. Body weight of
offsprings in big size bulls groups was higher than that of offsprings in local bull groups at all
ages. Offsprings weight of big size bulls and selected cows group was higher 10 - 19% than
offsprings in local bulls and non-selected cows group at all ages.
It is concluded that use of big size bulls and selected buffalo cows are the good solution for
improving body size and growth of offsprings.
Key words: big size bull, selected buffalo cows, body weight, growth.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Con trâu có tầm quan trọng trong sản xuất nông nghiệp là cung cấp sức kéo, phân hữu cơ và
một phần không nhỏ thịt cho nhu cầu con người, ngoài ra còn một số sản phẩm phụ như da,
sừng, lông cho chế biến đồ dùng gia dụng và hàng mỹ nghệ.
Trâu nội thích ứng và phát triển tốt trong điều kiện sinh thái nước ta, nhưng chúng có tầm vóc
nhỏ, sinh trưởng chậm, thành thục muộn, khoảng cách lứa đẻ dài, khả năng cho thịt thấp.
Những năm qua, công tác giống trâu của ta chưa tốt dẫn đến đàn trâu đang có hiện tượng đồng
huyết và bị chọn lọc ngược do trâu to bị bán đi giết thịt, trâu nhỏ được giữ lại cho cày kéo
đồng thời làm giống và đàn trâu cái thì không được chọn lọc. Nhiều nơi tầm vóc đàn trâu đã
có chiều hướng giảm sút.
Nhiều nghiên cứu cho thấy tầm vóc trâu Việt Nam có thể được chia làm 3 loại hình là trâu
tầm vóc to (trâu Ngố) có khối lượng 450-500kg (đực), 400-450kg (cái); trâu tầm vóc trung
bình có khối lượng 400-450kg (đực), 350-400kg (cái) và trâu tầm vóc nhỏ (trâu Gié) khối
lượng 350-400kg (đực), 300-350kg (cái). Nguyễn Đức Thạc (1983) đề xuất sử dụng trâu đực
ngoại hình to làm giống sẽ góp phần cải tạo tầm vóc và khả năng sản xuất của trâu ngoại hình
nhỏ các địa phương. Thái Lan và một số nước khác cũng cho thấy chương trình quốc gia về
tạo trâu đực giống và chọn trâu cái tốt đã góp phần cải thiện tầm vóc đàn trâu địa phương
(Aleko Alexiev, 1998; Charan Chantalakhana và Pakapun Skunmun, 2002).
Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố,
mẹ đến khối lượng và tốc độ sinh trưởng của đời con”.
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 32 - Tháng 10 - 2011




2

Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu: Trâu đực Ngố ngoại hình to, trâu đực và trâu cái địa phương.
Địa điểm: Xã Vân Hòa, Ba Vì, Hà Nội (Hà Tây cũ) và xã Ngọc Sơn, Thanh Chương, Nghệ An.
Thời gian tiến hành thí nghiệm: 2003 - 2010
Nội dung nghiên cứu
Xác định khối lượng và tăng khối lượng của trâu sinh ra qua các mốc tuổi.
Xác định ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng và tốc độ sinh trưởng của đời
con.
Phương pháp nghiên cứu
Tuyển chọn đàn trâu cái: chọn những trâu cái sinh sản có khối lượng trưởng thành từ cao nhất
trở xuống đến trung bình đàn kết hợp với tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách hai lứa đẻ từ trung
bình trở lên (Tuổi của trâu cái đưa vào thí nghiệm là 4-6 tuổi).
Tuyển trâu đực Ngố từ Tuyên Quang có đủ tiêu chuẩn của trâu đực giống (5-6 tuổi, đẹp về
ngoại hình, đã có nghé sinh ra), khối lượng cơ thể bình quân 558 kg.
Đàn trâu đực địa phương cũng chọn những con tốt nhất trong đàn theo tiêu chuẩn của trâu đực
giống (5-6 tuổi, đẹp về ngoại hình, đã có nghé sinh ra), khối lượng trung bình là 404 kg để
đưa vào thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí như sau:
Lô TN 1: trâu đực Ngố với trâu cái đã tuyển chọn (đực to cái to).
Lô TN 2: trâu đực Ngố với trâu cái đại trà (đực to cái nhỏ).
Lô TN 3: trâu đực đại trà với trâu cái đã tuyểnchọn (đực nhỏ cái to).
Lô đối chứng: trâu đực đại trà với trâu cái đại trà (đực nhỏ cái nhỏ).
Tổng số trâu thí nghiệm là 16 trâu đực giống (trong đó có 8 trâu đực ngố ngoại hình to và 8
trâu đực đại trà), và 480 trâu cái sinh sản. Mỗi trâu đực sẽ cho phối với 15 trâu cái tuyển chọn
và 15 trâu cái đại trà.

Trâu đực giống và trâu cái được đánh số, có sổ theo dõi từng nhóm, từng lô.
Khi trâu cái động dục được phối giống và giữ tại nhà đến khi hết động dục.
Trâu thí nghiệm được nuôi dưỡng theo điều kiện của dân là chăn thả kết hợp bổ sung thức ăn
tại chuồng vào ban đêm.
Trâu nghé thí nghiệm đều được tiêm phòng định kỳ, nghé sinh ra được tẩy giun theo quy trình
của thú y.
Nghé được theo mẹ đến khi tự cai sữa.
Theo dõi khả năng sinh trưởng phát triển của đàn nghé sinh ra: cân khối lượng ở các mốc tuổi
sơ sinh, 3, 6, 12, 24, 36, 48 và 60 tháng tuổi bằng cân điện tử Ruddweigh.
Phương pháp xử lý số liệu

NGUYỄN CÔNG ĐỊNH - Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng

3

Số liệu được xử lý sơ bộ bằng phần mềm Excel 2003 sau đó để ước tính các giá trị trung bình
của các biến số theo các lớp được xử lý bằng mô hình tuyến tính tổng quát Proc GLM trong
chương trình SAS9.1 (2002-2003).
Để tính các giá trị trung bình của các biến số và so sánh giữa chúng (Khối lượng cơ thể, tăng
khối lượng ở các độ tuổi) dùng mô hình.
Y
ijk
= L
i
+ S
j
+e
ijk

Trong đó: Y là giá trị của các số quan sát của các cá thể thứ k

L
i
là ảnh hưởng của lô thí nghiệm thứ i
S
j
là ảnh hưởng của giới tính thứ j
e
ijk
là sai số dư thừa ngẫu nhiên với giả thiết N(0,σ
2
e
)
Để tính tương quan giữa các biến số dùng Proc Corr và Plots trong Corr các biến số được phân
tích ở hai dạng: Tương quan 1 biến với các biến còn lại và dạng ma trân tương quan giữa các
biến số với nhau và theo phương pháp hệ số tương quan của Pearson, các hệ số tính được ở mức
P≤0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Khối lượng và tăng khối lượng của đàn trâu thí nghiệm
Khối lượng cơ thể trâu qua các mốc tuổi
Khối lượng cơ thể là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự sinh trưởng và phát
dục, đồng thời nó cũng biểu hiện khả năng sản xuất của chúng. Qua khối lượng cơ thể sẽ phản
ánh được tốc độ sinh trưởng của gia súc ở từng giai đoạn khác nhau.
Bảng 1. Khối lượng cơ thể trâu (kg) các mốc tuổi
Lô TN1
(đực to – cái to)
Lô TN2
(đực to – cái nhỏ)
Lô TN3
(đực nhỏ - cái to)
Lô ĐC

(đực nhỏ - cái nhỏ)

Tháng
tuổi
Tinh
biệt

N
(Mean±SD)
N
(Mean±SD)
N
(Mean±SD)
N
(Mean±SD)
Đực

166

25,35
a
±2,42
150

24,71
b
±2,14
98

22,75

c
±1,53
95

21,29
d
±1,76

sinh
Cái 175

24,45
a
±2,08
171

24,17
a
±1,84
112

21,79
b
±1,73
114

20,40
c
±1,62
Đực


166

61,50
a
±5,16
150

59,28
b
±6,44
98

55,01
c
±4,12
95

51,98
d
±4,24
3
tháng

Cái 175

59,07
a
±4,87
171


57,05
b
±4,66
112

52,71
c
±3,98
114

49,81
d
±4,41
Đực

165

93,22
a
±8,45
150

90,28
b
±9,22
98

84,68
c

±4,98
95

80,44
d
±6,78
6
tháng

Cái 175

90,23
a
±7,47
171

87,76
b
±8,96
112

82,36
c
±5,59
112

78,31
d
±6,93
Đực


160

164,75
a
±11,30

145

159,78
b
±13,54

97

150,57
c
±10,92

95

143,46
d
±9,42

12
tháng

Cái 169


159,07
a
±9,98

169

153,05
b
±10,68

112

144,58
c
±12,97

111

138,69
d
±16,47

Đực

154

267,77
a
±9,88


133

261,50
b
±10,19

88

247,07
c
±9,37

86

237,65
f
±10,32

24
tháng

Cái 156

257,10
c
±9,82

152

251,22

d
±15,38

98

238,41
f
±17,40

98

230,32
d
±11,01

Đực

98

340,19
a
±14,15

92

333,04
b
±13,28

68


313,75
c
±10,55

67

302,70
d
±12,31

36
tháng

Cái 105

321,20
a
±12,48

107

314,91
b
±12,49

86

297,98
c

±12,80

77

289,08
d
±12,93


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 32 - Tháng 10 - 2011



4

Đực

73

386,04
a
±14,78

78

378,74
b
±13,88

56


355,27
c
±14,24

59

345,25
d
±15,95

48
tháng

Cái 69

355,72
a
±13,02

71

348,13
b
±13,20

54

329,30
c

±17,18

48

321,60
d
±13,02

Đực

52

423,62
a
±18,65

57

413,39
b
±18,99

38

388,74
c
±19,65

42


379,81
d
±15,05

60
tháng

Cái 41

387,54
a
±15,89

37

380,76
a
±16,03

34

359,50
b
±20,77

32

352,59
b
±20,27


Ghi chú: Trong cùng một hàng nếu các số trung bình giữa các lô có các chữ cái ký hiệu khác
nhau thì giữa chúng khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Qua kết quả Bảng 1 cho thấy: Từ sơ sinh, mức chênh lệch về khối lượng giữa các lô thí
nghiệm đã có sai khác, trâu càng lớn thì khác biệt càng thể hiện rõ ràng hơn (P<0,05) và đặc
biệt là khối lượng của lô thí nghiệm 1 luôn cao nhất (lô sử dụng trâu đực Ngố ngoại hình to
phối với trâu cái được tuyển chọn). Khối lượng của nghé sơ sinh đực và cái ở các lô thí
nghiệm tương ứng là: 25,35 và 24,45 kg ở lô TN1; 24,71 và 24,17 ở lô TN2; 22,75 và 21,79
kg ở lô TN3 còn ở lô ĐC (đối chứng) là 21,29 và 20,40 kg. Sự sai khác về khối lượng giữa
các lô có ý nghĩa thống kê rõ rệt (P<0,05). Như vậy, khối lượng nghé sơ sinh của lô TN1 và lô
TN2 cao hơn so với nghé sinh ra ở kết quả nghiên cứu của Le Viet Ly (1983), trâu đầm lầy
của Việt Nam có khối lượng sơ sinh trung bình thấp 22,60 kg. Mai Văn Sánh và cs. (2008a)
khi chọn lọc trâu đực ngoại hình lớn làm giống để nâng cao tầm vóc trâu địa phương tỉnh Hà
Giang cho kết quả khối lượng trung bình của nghé sơ sinh là 23,23 kg đối với nghé đực và
22,18 kg đối với nghé cái. Song, tương đương với kết quả nghiên cứu của Mai Văn Sánh và
cs. (2008b) khi nghiên cứu sử dụng trâu đực giống ngoại hình to nhằm cải tạo tầm vóc và khả
năng sinh trưởng của đàn trâu địa phương tại xã Ngọc Sơn, Thanh Chương, Nghệ An cho biết
khối lượng nghé sơ sinh đực dao động từ 21,1 -25,3 kg và nghé cái là 20,4 - 24,7 kg và thấp
hơn nghiên cứu của Bhuyan (1997) khối lượng sơ sinh trung bình của trâu đầm lầy Assam là
27,52 kg, Zaman (1996) cho thấy khối lượng trung bình cao hơn 32,33 kg. Singh và cs.
(1984), Vijai và cs. (1993) cho biết khối lượng sơ sinh của trâu Nili-Ravi thay đổi từ 26-41kg.
Theo một số tác giả như Singh và cs. (1984), Tiwana và cs. (1985), khối lượng sơ sinh của
trâu Nili-Ravi luôn cao hơn khối lượng của trâu Murrah, trâu Surti và trâu đầm lầy. Theo
Nguyễn Văn Thiện (1995), khối lượng sơ sinh là một tính trạng chịu ảnh hưởng di truyền của
phẩm giống, các giống khác nhau có khối lượng sơ sinh khác nhau, hệ số di truyền của tính
trạng này là khá cao (h
2
=0,34-0,41). Trâu được nuôi trong nông hộ và điều kiện nuôi dưỡng
chăm sóc trâu mẹ trong giai đoạn mang thai là như nhau nhưng khối lượng sơ sinh lại giảm
dần từ lô TN1 đến lô ĐC điều đó cho thấy ảnh hưởng của trâu đực giống cho kết quả rất rõ rệt

với độ tin cậy (P<0,05).
Tương tự như vậy, khối lượng nghé ở các mốc tuổi tiếp theo đều có xu hướng tăng dần: thấp
nhất là lô đối chứng tiếp đó đến lô thí nghiệm 3, lô thí nghiệm 2 và cao nhất là nghé ở lô thí
nghiệm 1. Khối lượng trâu lúc 60 tháng tuổi ở lô TN1 là 432,62 và 387,54; lô TN2 là 413,39 và
380,76; lô TN3 là 388,74 và 359,50; lô đối chứng là 379,81 và 352,59 kg, tương ứng với trâu
đực và trâu cái.
Khối lượng cơ thể nghé ở các mốc tuổi có sự khác nhau giữa các lô (P<0,05), điều đó cho
thấy hiệu quả của việc sử dụng trâu đực Ngố ngoại hình to làm giống đã cải thiện đáng kể
khối lượng sơ sinh và sinh trưởng của nghé.
Hà Phúc Mịch (1985) khảo sát đàn trâu địa phương cho biết khối lượng nghé sơ sinh là 21 kg,
lúc 6 tháng là 79, 5 kg và 12 tháng là 132 kg tương đương với khối lượng nghé ở lô đại trà,
thấp hơn lô chọn lọc của thí nghiệm này.
Mai Văn Sánh và cs. (1995) điều tra trâu ở Bình Sơn, Thái Nguyên cho thấy khối lượng trâu
vùng này thấp, trâu đực trưởng thành 326 kg, trâu cái trưởng thành 312 kg. Vũ Duy Giảng và

NGUYỄN CÔNG ĐỊNH - Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng

5

cs. (1999) điều tra đánh giá tình hình phát triển đàn trâu miền Bắc thấy rằng khối lượng đàn trâu
của nhiều địa phương ở 2 năm tuổi trâu đực chỉ đạt 234 kg, trâu cái 183 kg.
Kết quả của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu Nguyễn Đức Chuyên (2004), khi theo dõi
đàn trâu địa phương cho biết khối lượng lúc sơ sinh nghé đực 21,6 kg, nghé cái 19,5 kg; 12
tháng tuổi khối lượng nghé đực là 153,5 kg, nghé cái 143,9 kg; 36 tháng tuổi nghé đực 286,1
kg, nghé cái 267,1 kg.
Mai Văn Sánh (2005) cho biết: Sử dụng trâu đực giống ngoại hình to làm giống cho phối với trâu
cái địa phương ở xã Vân Hoà, Ba Vì, Hà Tây đã cho kết quả nghé sơ sinh đực đạt 24,2 kg và nghé
cái đạt 23,3 kg; 24 tháng tuổi nghé đực đạt 254,8 kg, nghé cái đạt 248,4 kg. Nếu so với các số liệu
trên thì khối lượng nghé ở lô TN1 và TN2 của chúng tôi có phần cao hơn.
Trong tất cả các giai đoạn tuổi đều cho thấy sự khác biệt giữa con đực và con cái, điều này thể

hiện ưu thế vượt trội của con đực về sinh trưởng. Sinh trưởng còn bị ảnh hưởng bởi giới tính,
tuy nhiên ảnh hưởng của giới tính trong thời kỳ nghé non chưa nhiều, sự khác biệt sẽ lớn hơn
khi trâu thành thục về tính do ảnh hưởng của hoóc môn và khi đến độ trưởng thành, tầm vóc
của đực và cái là khác biệt một cách rõ rệt.
Sự khác biệt giữa các lô thí nghiệm so với đối chứng có xu hướng giảm dần theo tuổi có thể là do
ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh mà chủ yếu là chăm sóc nuôi dưỡng. Điều này cho thấy việc
tuyển chọn đàn cái nền và sử dụng trâu đực giống ngoại hình to kết hợp với chăm sóc nuôi
dưỡng tốt là việc hết sức quan trọng và cần thiết.
Tăng khối lượng của trâu qua các giai đoạn tuổi
Tốc độ sinh trưởng và khối lượng tích luỹ là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng
giống và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng.
Số liệu ở Bảng 2 cho thấy, con bố có ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng tăng khối lượng của trâu
ở các giai đoạn tuổi (P<0,05). Tăng khối lượng bình quân (g/ngày) của nghé ở giai đoạn từ sơ
sinh đến 12 tháng tuổi là cao nhất: Nghé đực là 381,79; 370,16; 350,18; 334,71 g/con/ngày và
nghé cái là 368,77; 353,10; 336,41; 323,99 g/con/ngày tương ứng với các lô TN1, TN2, TN3,
ĐC. Sự sai khác giữa các lô thí nghiệm và lô đối chứng là có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Giai
đoạn này, dinh dưỡng của trâu chủ yếu dựa vào nguồn sữa mẹ, do đó nếu trong điều kiện nuôi
dưỡng tốt thì khối lượng của trâu phụ thuộc chủ yếu vào bản chất di truyền của cả con bố và
con mẹ, chính vì vậy, trong giai đoạn còn non, nếu được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cần
thiết, vật nuôi sẽ phát triển toàn diện về thể vóc. Ngược lại, khi độ tuổi tăng lên, tốc độ sinh
trưởng của con vật sẽ giảm dần (Nguyễn Hải Quân và cs., 1995).
Tăng khối lượng của trâu giảm dần theo tuổi, cao nhất ở giai đoạn sơ sinh đến một năm tuổi
sau đó giảm dần và thấp nhất ở giai đoạn 48 – 60 tháng tuổi, lô TN1 đạt 88,40 g/con/ngày với
trâu cái và 105,95 g/con/ngày với trâu đực; lô TN2 là 86,22 và 103,77 g/con/ngày; Lô TN3 là
85,18 và 102,78 g/con/ngày và lô ĐC là 83,35 đối với trâu cái và 100,17g/con/ngày đối với
trâu đực.
Tăng khối lượng trong cả giai đoạn từ sơ sinh đến 60 tháng tuổi cao nhất ở lô TN1 (nghé đực
là 218,20 g/con/ngày và nghé cái là 119,16 g/con/ngày), tiếp đến là lô TN2 (nghé đực tăng
212,05 g/con/ngày và nghé cái tăng 195,37 g/con/ngày), lô TN3 (nghé đực là 200,77
g/con/ngày và nghé cái là 185,23 g/con/ngày) và thấp nhất là lô ĐC nghé đực tăng 196,44

g/con/ngày và nghé cái tăng 181,99 g/con/ngày. Sự sai khác về khả năng tăng khối lượng giữa
các lô TN1, TN2 so với lô TN3 và ĐC là có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 32 - Tháng 10 - 2011



6

Tăng khối lượng giảm dần theo tuổi, điều này được giải thích là do trâu càng lớn thì càng tiến
gần đến sự hoàn thiện về mặt thể vóc và thành thục về tính biệt, điều này hoàn toàn phù hợp
với quy luật sinh trưởng của gia súc nói chung và với trâu nói riêng. Theo Nguyễn Trọng Tiến
(1991), sau 18 tháng tuổi tốc độ tăng trưởng của tế bào cơ giảm thấp, hàm lượng nước giảm,
sự tích lũy mỡ tăng kèm theo tiêu thụ năng lượng tăng, còn mỡ liên kết giảm, khả năng tổng
hợp protein giảm, sự sinh trưởng của tế bào cơ bị kìm hãm. Nguyễn Đức Thạc (1983) nghiên
cứu trên trâu nội ngoại hình to có khả năng tăng khối lượng ở giai đoạn 0-6 tháng tuổi cả đực
và cái là 465 g/con/ngày, 7-9 tháng tuổi đực tăng 353 g/con/ngày, cái tăng 190g/con/ngày; 10-
12 tháng tuổi đực tăng 482 g/con/ngày, cái tăng 353g/con/ngày, sau đó tăng trọng giảm đến
19-24 tháng tuổi đực tăng 280 g/con/ngày, cái tăng 190 g/con/ngày.
Lê Đăng Đảnh và cs. (1995) nghiên cứu trên 1019 số liệu sinh trưởng của trâu nội Việt Nam ở
các lứa tuổi đã nhận xét: Trâu sau khi sinh có tốc độ tăng trưởng khởi đầu rất cao (650
g/ngày), tăng khối lượng giảm dần xuống 300 g/ngày khi trâu đạt 1 năm tuổi, 200 g/ngày lúc
trâu đạt 2 năm tuổi và tốc độ sinh trưởng giảm nhiều, chỉ ở mức dưới 100 g/ngày khi đạt 3
năm tuổi.
Bảng 2. Tăng khối lượng của trâu qua các mốc tuổi (g/con/ngày)
Lô TN1
(đực to – cái to)
Lô TN2
(đực to – cái nhỏ)
Lô TN3

(đực nhỏ - cái to)
Lô ĐC
(đực nhỏ - cái nhỏ)

Giai đoạn

Giới tính

N

Mean ± SD
N

Mean ± SD
N

Mean ± SD
N

Mean ± SD
Đực 160

381,79
a
±30,07

145

370,16
b

±37,05

97

350,18
c
±28,30

95

334,71
d
±25,82

SS-12T
Cái 169

368,77
a
±26,69

169

353,10
b
±29,44

112

336,41

c
±33,82

111

323,99
d
±44,11

Đực 154

281,45
a
±33,05

133

275,57
ab
±39,91

88

260,90
bc
±31,57

86

257,18

bc
±26,57

12-24T
Cái 156

271,53
a
±38,60

150

268,16
a
±35,44

98

252,68
b
±67,25

98

248,24
b
± 41,89

Đực 154


332,01
a
±13,06

133

324,57
b
±13,89

88

307,25
c
±12,97

86

296,44
d
±13,84

SS-24T
Cái 156

318,71
a
±13,42

152


311,06
b
±20,70

98

296,79
c
±24,34

98

287,51
d
±14,87

Đực 98

196,92
a
±43,05

92

194,43
a
± 44,96

68


185,66
ab
±36,02

67

182,70
b
±40,80

24-36T
Cái 105

179,05
a
±45,15

107

176,52
ab
±57,15

86

165,38
b
±53,37


77

164,03
b
±40,35

Đực 98

287,36
a
±13,21

92

281,61
b
±12,35

68

265,93
c
±9,30
67

257,08
d
±11,16

SS-36T

Cái 105

271,12
a
±11,49

107

265,42
b
±11,39

86

252,36
c
±11,80

77

245,41
d
±11,86

Đực 71

130,74
a
±39,05


78

125,96
ab
±40,91

56

119,94
b
±42,45

59

116,14
b
±45,21

36-48T
Cái 68

98,23 ±36,26

71

95,20 ±36,47
52

90,41 ±52,69
48


85,84 ±43,62
Đực 73

247,04
a
± 10,23

78

242,60
b
±9,47
56

227,96
c
±9,45
59

221,88
d
±10,79

SS-48T
Cái 69

227,09
a
±8,97


71

221,89
b
±9,00
54

210,72
c
±11,74

48

206,28
d
±8,87

Đực 49

105,95±56,50

53

103,77±51,61

37

102,78±46,54


42

100,17±48,22

48-60T
Cái 41

88,40±27,04
37

86,22±47,35
33

85,18±68,15
31

83,35±56,03
Đực 52

218,20
a
±10,30

57

212,05
b
±10,44

38


200,77
c
±10,74

42

196,44
c
±8,39
SS-60T
Cái 41

199,16
a
±8,61

37

195,37
a
±8,69
34

185,23
b
±11,80

32


181,99
b
±1,29


NGUYỄN CÔNG ĐỊNH - Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng

7

Chú thích: Trong cùng một hàng nếu các số trung bình giữa các lô có các chữ cái khác nhau
thì giữa chúng khác nhau có ý nghĩa (P<0,05).
Tăng khối lượng của nghé chịu ảnh hưởng bởi yếu tố giống và chế độ dinh dưỡng. Trong thực
tế, đàn trâu ở các vùng thí nghiệm được nuôi dưỡng trong điều kiện nông hộ chưa đáp ứng được
đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng của gia súc, thức ăn vẫn còn hạn chế và thiếu nhiều nhất là trong
mùa khô đã làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng bình thường của chúng, đặc biệt với các lô
sử dụng trâu đực đại trà, nhưng qua bảng số liệu trên cho thấy nghé vẫn cho tăng trọng tương
đối tốt và cao hơn so với nghiên cứu của Mai Văn Sánh và cs. (2008b) cho biết khả năng tăng
khối lượng của nghé giảm dần theo tuổi, ở giai đoạn sơ sinh đến 12 tháng tuổi là cao nhất (tăng
khối lượng tuyệt đối nằm trong khoảng 330,9 – 361,3 g/con/ngày). Abeygunawardena và cs.
(1996) cho biết trâu Surti có khối lượng sơ sinh 29,4 kg, tăng khối lượng trong 12 tháng đầu
trung bình là 256 g/con/ngày như vậy tăng khối lượng của trâu ở đây là cao hơn. Mai văn Sánh
(1996), trâu Murrah nuôi tại Sông Bé cho biết tăng khối lượng giai đoạn 13-24 tháng tuổi đối
với nghé đực là 260,3 g/con/ngày và nghé cái là 245,53 g/con/ngày. Nguyễn Đức chuyên (2004)
cho thấy, với nghé đực: giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi tăng 464,4 g/con/ngày; giai đoạn
từ 6 đến 12 tháng tuổi tăng 307,2 g/con/ngày; giai đoạn 12- 24 tháng tuổi sinh trưởng tuyệt đối
của trâu là 200,5 g/con/ngày; giai đoạn 24 đến 36 tháng tuổi tăng 167,8 g/con/ngày; Từ sơ sinh -
36 tháng tuổi sinh trưởng tuyệt đối của trâu tăng 244,9 g/con/ngày; Với nghé cái, ở giai đoạn từ
sơ sinh đến 12 tháng tuổi tăng 303,9 g/con/ngày; giai đoạn 12- 24 tháng tuổi tăng 184,7
g/con/ngày; giai đoạn 24 đến 36 tháng tuổi tăng 158,6 g/con/ngày và từ sơ sinh đến 36 tháng
tuổi sinh trưởng tuyệt đối của trâu là 229,3 g/con/ngày.

Kết quả thí nghiệm này chứng tỏ nghé của trâu đực Ngố với trâu cái được chọn có khối lượng
và khả năng tăng khối lượng là cao nhất, tiếp theo là nghé của trâu đực Ngố với trâu cái đại
trà, rồi đến nghé của trâu đực đại trà với trâu cái chọn lọc và thấp nhất là nghé của trâu đực
đại trà với trâu cái đại trà. Như vậy ảnh hưởng của trâu đực đến khối lượng con sinh ra lớn
hơn so với ảnh hưởng của mẹ. Nói cách khác sử dụng trâu đực Ngố làm giống đã cải thiện
đáng kể khối lượng sơ sinh và sinh trưởng của nghé.
Bảng 3. So sánh hiệu quả (%) đã đạt được của các lô thí nghiệm so với đối chứng
Giới tính

Tuổi
Lô TN1
(đực to – cái to)
Lô TN2
(đực to – cái nhỏ)
Lô TN3
(đực nhỏ - cái to)
Sơ sinh 19,04 16,02 6,83
3 Tháng 18,32 14,05 5,82
6 Tháng 15,89 12,24 5,28
12 Tháng 14,84 11,37 4,95
24 Tháng 12,67 10,04 3,96
36 Tháng 12,39 10,02 3,65
48 Tháng 11,81 9,70 2,90
Đực
60 Tháng 11,53 8,31 2,35
SS 19,82 18,48 6,77
3 Tháng 18,59 14,53 5,83
Cái
6 Tháng 15,22 12,07 5,18


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 32 - Tháng 10 - 2011



8

12 Tháng 14,69 10,35 4,24
24 Tháng 11,63 9,07 3,51
36 Tháng 11,11 8,93 3,08
48 Tháng 10,61 8,25 2,39

60 Tháng 9,91 7,99 1,96
So với nghé đại trà (lô ĐC) thì khối lượng nghé đực sơ sinh, 3, 6, 12, 24, 36, 48 và 60 tháng
tuổi của nghé lô TN1 cao hơn 11,53-19,04%, nghé lô TN2 cao hơn 8,31-16,02% trong khi
nghé lô TN3 chỉ cao hơn 2,35-6,83%, tương tự đối với nghé cái tăng 9,91-19,82% lô TN1,
7,99-18,48% lô TN2 và 1,96-6,77% lô TN3. Điều đó nói lên sự sai khác rõ rệt về khối lượng
nghé ở hai lô thí nghiệm có bố là đực giống Ngố so với lô có bố là đực đại trà và cao hơn so
với nghé lô có mẹ được chọn, hay nói cách khác ảnh hưởng của trâu đực bố đến khối lượng
con lớn hơn ảnh hưởng của trâu cái mẹ (lô TN3). Mai Văn Sánh (2005) cho biết: sử dụng trâu
đực giống ngoại hình to làm giống cho phối với trâu cái địa phương ở xã Vân Hoà, Ba Vì, Hà
Tây cho kết quả nghé giai đoạn từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi tăng từ 10-15% so với nghé đại
trà. Như vậy, kết quả của chúng tôi có phần cao hơn (12,67-19,04% đối với nghé đực và
11,63-19,82% đối với nghé cái). Mai Văn Sánh và cs. (2008b) khi nghiên cứu sử dụng trâu
đực giống ngoại hình to nhằm cải tạo tầm vóc và khả năng sinh trưởng của đàn trâu địa
phương tại xã Ngọc Sơn, Thanh Chương, Nghệ An cho biết khối lượng nghé đực giai đoạn từ
sơ sinh – 36 tháng tuổi tăng từ 9,5 – 19,4%, nghé cái tăng từ 8,5 – 21,1%. Thái Lan sau 10
năm thực hiện chương trình chọn lọc nhân thuần, khối lượng nghé sơ sinh tăng từ 28,4 lên
30,6 kg (7,7%), lúc cai sữa 8 tháng tuổi tăng từ 121 lên 167 kg (38%), lúc 2 năm tuổi tăng từ
268 lên 317 kg (18%) (Chantalakhana và Skunmun, 2002).
Sự khác biệt về khối lượng nghé giữa các lô thí nghiệm so với đối chứng có xu hướng giảm

dần khi tuổi nghé tăng lên là do ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh tăng dần đã làm giảm ảnh
hưởng của yếu tố di truyền, tuy vậy sự khác biệt đó vẫn rất rõ rệt.
Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng con sinh ra
Các nhà khoa học đã nghiên cứu những ảnh hưởng và các mối quan hệ giữa khối lượng sơ
sinh với khối lượng của bố mẹ và khẳng định có sự tương quan thuận giữa khối lượng sơ sinh
và khối lượng cơ thể của bố mẹ. Nguyễn Đức Thạc (1983) khi nghiên cứu về sinh trưởng của
nghé thấy rằng khối lượng sơ sinh có tương quan thuận với khối lượng trâu mẹ, tính trên 65
lứa đẻ, hệ số tương quan giữa khối lượng mẹ và khối lượng sơ sinh (r = 0,71). Topanurak và
cs. (1991) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng và sinh trưởng của nghé báo
cáo rằng khối lượng của nghé bị ảnh hưởng bởi khối lượng trâu đực bố và tính biệt của nghé
đặc biệt là khối lượng nghé sơ sinh. Intaramongkol và cs. (1991) cũng chứng minh răng khối
lượng nghé lúc 24 tháng tuổi bị ảnh hưởng bởi khối lượng cơ thể bố và tuổi trâu đực giống,
trâu cái mẹ cũng như tính biệt nghé, mùa và năm sinh.
Kết quả Bảng 4 cho thấy khối lượng của trâu đực bố ảnh hưởng rất rõ đối với đàn con, trong
khi đó trâu cái mẹ ảnh hưởng ít hơn. Sự chênh lệch về khối lượng sơ sinh của nghé sinh ra
giữa trâu bố ngoại hình to và trâu bố đại trà là 24,67 kg so với 21,56 kg lớn hơn nhiều so với
sự khác biệt giữa trâu mẹ tuyển chọn và trâu mẹ đại trà 23,58 kg so với 22,64 kg. Khối lượng
nghé ở giai đoạn sinh trưởng sau cũng bị ảnh hưởng lớn hơn bởi khối lượng trâu bố so với ảnh
hưởng của trâu mẹ tương tự như khối lượng sơ sinh, khối lượng lúc 60 tháng tuổi của trâu bố
ngoại hình to và trâu bố đại trà là 400,82 và 370,16 kg; của trâu mẹ tuyển chọn và trâu mẹ đại
trà là 389,85 và 381,14 kg.
Bảng 4. Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng con (kg)

NGUYỄN CÔNG ĐỊNH - Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng

9

KL KLSS

KL3t KL6t


KL12t KL24t KL36t KL48t

KL60t

Trâu bố Ngố

558,41

24,67 59,23

90,37

159,16

259,40 327,34

367,16

400,82

Trâu bố địa
phương

404,32

21,56 52,38

81,45


144,32

238,36 300,88

337,86

370,16

Trâu mẹ chọn
lọc

358,95

23,58 57,07

87,62

154,74

252,59 318,28

356,58

389,85

Trâu mẹ đại
trà

340,27


22,64 54,53

84,20

148,75

245,17 309,93

348,43

381,14

Có thể sự khác biệt về khối lượng giữa trâu đực giống ngoại hình to với trâu đực giống địa
phương lớn (558 kg so với 404 kg) đã làm ảnh hưởng đến khối lượng đàn nghé sinh ra lớn
hơn và rõ ràng hơn. Trong khi tuyển chọn đàn cái địa phương sự khác biệt về khối lượng giữa
trâu cái chọn lọc với trâu cái đại trà không lớn lắm (358 kg và 340 kg) nên ảnh hưởng đến
khối lượng đàn nghé sinh ra ít hơn. Như vây, ảnh hưởng của tuyển chọn trâu bố, mẹ đã cải
thiện được khối lượng sơ sinh và sinh trưởng của nghé, đặc biệt là ảnh hưởng của trâu đực bố.
Mối tương quan giữa khối lượng trâu bố, mẹ và khối lượng đời con
Các nhà khoa học đã nghiên cứu mối quan hệ giữa khối lượng nghé sinh ra ở các mốc tuổi khác
nhau với khối lượng của bố mẹ chúng đều có kết luận có sự tương quan thuận giữa khối lượng
nghé ở các mốc tuổi và khối lượng cơ thể của bố mẹ. Nghiên cứu của chúng tôi trên đàn trâu nội
Việt Nam tại các địa phương Ba Vì, Hà Nội và Thanh Chương, Nghệ An cũng cho thấy có mối
quan hệ thuận chiều và khá chặt chẽ giữa khối lượng nghé ở tất cả các mốc tuổi với khối lượng
của trâu bố (Bảng 5) và mẹ (Bảng 6). Các giá trị về hệ số tương quan giữa khối lượng ở các mốc
tuổi của nghé với khối lượng của bố mẹ đều đạt xác suất ở mức độ tin cậy rất cao (P<0,0001).
Bảng 5. Hệ số tương quan giữa khối lượng bố và con ở các mốc tuổi
Giai đoạn tuổi n Hệ số tương quan (r) P
Sơ sinh 1081 0,76 <,0001
3 tháng 1081 0,62 <,0001

6 tháng 1078 0,50 <,0001
12 tháng 1058 0,70 <,0001
24 tháng 965 0,60 <,0001
36 tháng 700 0,74 <,0001
48 tháng 508 0,54 <,0001
60 tháng 333 0,55 <,0001
Ghi chú: n là số lượng nghé, P là mức xác suất tin cậy hệ số tương quan.
Bảng 6. Hệ số tương quan giữa khối lượng mẹ và con ở các mốc tuổi
Giai đoạn tuổi n Hệ số tương quan (r) P
Sơ sinh 1081 0,33 <,0001
3 tháng 1081 0,23 <,0001
6 tháng 1078 0,16 <,0001

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 32 - Tháng 10 - 2011



10

12 tháng 1058 0,14 <,0001
24 tháng 965 0,27 <,0001
36 tháng 700 0,31 <,0001
48 tháng 508 0,25 <,0001
60 tháng 333 0,24 <,0001
Ghi chú: n là số lượng nghé, P là mức xác suất tin cậy của phương trình hồi quy
Kết quả trình bày tại Bảng 5 cho thấy khối lượng bố ảnh hưởng đến khối lượng sơ sinh và
khối lượng ở tất cả các mốc tuổi của nghé khá lớn, thể hiện tất cả các hệ sô tương quan kiểu
hình thuận chiều, chặt chẽ, dao động trong phạm vi 0,50-0,74. Hệ số tương quan biến động
không lớn, từ 0,50 giữa khối lượng bố và khối lượng nghé 6 tháng tuổi đến 0,76 giữa khối
lượng bố với khối lượng nghe lúc sơ sinh. Tất cả các giá trị về hệ số tương quan xác định

được đều có xác suất tin cậy rất cao (P<0,0001).
Tương tự, Bảng 6 cho thấy sự ảnh hưởng của khối lượng mẹ đến khối lượng sơ sinh và khối
lượng nghé qua các mốc tuổi cũng biểu thị mối tương quan kiểu hình thuận chiều, nhưng các
trị số của hệ số tương quan đều nhỏ hơn (r=0,14-0,33) so với hệ số tương quan giữa khối
lượng bố và khối lượng nghé tương ứng các mốc tuổi. Hệ số tương quan giữa khối lượng mẹ
và khối lượng con biến động trong phạm vi 0,14 giữa khối lượng mẹ với khối lượng 12 tháng
tuổi đến 0,33 giữa khối lượng mẹ với khối lượng con lúc sơ sinh. Tuy các giá trị của hệ số
tương quan giữa khối lượng mẹ và khối lượng con không chặt chẽ lắm, nhưng vẫn đạt độ xác
suất tin cậy rất cao (P<0,0001). Kết quả thu được ở nghiên cứu này thấp hơn so với công bố
của Nguyễn Đức Thạc (1983) khi nghiên cứu về sinh trưởng trên trâu nội của ta đã xác định
được khối lượng sơ sinh có tương quan thuận với khối lượng trâu mẹ (r = +0,71).
Kết quả ở nghiên cứu này cũng phù hợp với các công bố của Topanurak và cs. (1991) khi
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng sơ sinh và khả năng sinh trưởng của nghé
cho thấy khối lượng sơ sinh trâu đầm lầy bị ảnh hưởng bởi khối lượng trâu bố, giới tính, lứa
đẻ và năm sinh với độ tin cậy rất cao (P<0,01); Intaramongkol và cs. (1991) cũng đã chỉ ra
rằng khối lượng cai sữa 240 ngày tuổi của trâu đầm lầy bị ảnh hưởng bởi tuổi của bố, mẹ, giới
tính, mùa vụ và năm sinh.
Qua kết quả thu được về mối tương quan kiểu hình giữa khối lượng bố mẹ và khối lượng đời
con từ việc sử dụng trâu đực ngoại hình to làm giống và trâu cái được tuyển chọn có thể rút ra
kết luận: Sử dụng trâu đực ngoại hình to phối với trâu cái được tuyển chọn sẽ cho khối lượng
đời con cao vì khối lượng trâu đực giống và cái giống đều làm tăng khối lượng đàn con.
Trong hai nguồn bố và mẹ thì tác động của bố lớn hơn so với mẹ vì có hệ số tương quan cao
hơn. Kết quả này chỉ ra rằng các tính trạng khối lượng đều được điều khiển bởi một số gen
chung nhất định từ bố mẹ truyền sang đời con của chúng và muốn có khối lượng của đời con
cao thì phải sử dụng trâu đực giống và cái giống có ngoại hình lớn.
KẾT LUẬN
Khối lượng nghé ở các mốc sơ sinh, 3, 6, 12, 24, 36, 48 và 60 tháng tuổi đạt cao nhất là lô trâu
đực Ngố với trâu cái tuyển chọn, tiếp theo là lô trâu đực Ngố với trâu cái đại trà, sau đó đến lô
trâu đực đại trà với trâu cái tuyển chọn và nhỏ nhất là lô trâu đực đại trà với trâu cái đại trà.
Khối lượng nghé đực ở lô trâu đực Ngố với trâu cái tuyển chọn lớn hơn 11,53 – 19,04% so

với lô trâu đực đại trà với trâu cái đại trà, nghé cái cao hơn tờ 9,91 – 19,82.

NGUYỄN CÔNG ĐỊNH - Ảnh hưởng của khối lượng trâu bố, mẹ đến khối lượng

11

Ảnh hưởng của trâu bố đối với khối lượng nghé sinh ra lớn hơn ảnh hưởng của trâu mẹ, chênh
lệch về khối lượng nghé sơ sinh của trâu bố Ngố ngoại hình to và trâu bố đại trà ngoại hình
nhỏ là 24,67 kg so với 21,56 kg (3,11 kg), trong khi chênh lệch giữa khối lượng nghé của trâu
mẹ tuyển chọn và trâu mẹ đại trà chỉ là 23,58 kg so với 22,64 kg (0,94 kg), khối lượng lúc 60
tháng tuổi của trâu bố ngoại hình to và trâu bố đại trà là 400,82 và 370,16 kg; của trâu mẹ
tuyển chọn và trâu mẹ đại trà là 389,85 và 381,14 kg.
Tương quan khối lượng giữa nghé với trâu bố là thuận, chặt chẽ (r = 0,50-0,76), giữa nghé với
trâu mẹ cũng thuận nhưng hệ số tương quan thấp hơn (r = 0,14-0,33).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abeygunawardena, H.; Subasinghe, D. H. A.; Jayatilaku, M. W. A. P.; Perera, A. N. F. and
Perera, B. M. A. O. (1996). Development of intensive buffalo management systems
for small holders in Homan settlement schemes in the dry zone of Sri Lanka.
Proceedings of the Second Asian Buffalo Association Congress Shangi-La Hotel
Makati City, Philippines, October 9-12, 1996, p. 63-75
Aleko Alexiev (1998), The water buffalo. St Kliment Ohridski University Press, Sofia.
Bhuyan, D. (1997), Studies on certain aspects of reproduction in swamp buffaloes of Assam.
Ph.D. Thesis, Assam Agricultural University, Assam, India.
Charan Chantalakhana and Pakapun Skunmun (2002), Sustainable Smallholder Animal
Systems in the Tropics. Kasetsart University Press, Thailand.
Nguyễn Đức Chuyên (2004), Đánh giá thực trạng và nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhằm
nâng cao khả năng sinh trưởng của đàn trâu nuôi tại huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên,
Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp
Le Đang Đanh, Chau Chau Hoang, Nguyen Kim Cuong, Pham Trong Nghia, Tran Van Chinh,
Nguyen Van Phat and John Perkins (1995), Management and performance of village

cattle and buffalo – a case study from Phuoc Thanh village. Exploring Approaches to
Research in the Animal Sciences in Vietnam. A Workshop held in Hue, 31 Jul 3
Aug., 1995, pp 90-93.
Ly, L.V. (1983), Characteristics of buffalo husbandry in Vietnam. Buffalo Bulletin, 2: 6.
Vũ Duy Giảng, Nguyễn Trọng Tiến, Nguyễn Xuân Trạch và CTV. (1999), Báo cáo kết quả thực
hiện đề tài: Điều tra đánh giá và định hướng phát triển đàn trâu miền Bắc VN.
Intaramongkol, J.; S. Topanurak and S. Intaramongkol (1991), Factors influencing weaning
weight in swamp buffalo and correction factors for adjusting this trait due to age of
dam. Annual report 1898-1991. The national buffalo research and development
project, Bangkok, Thailand, pp 26-35.
Hà Phúc Mịch (1985), Một số nhận xét bước đầu về khả năng sinh trưởng của trâu lai F1
Murrah x Việt nam. Khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, 1985, trang 424-426
Nguyễn Hải Quân, Đặng Vũ Bình, Đinh Văn Chỉnh, Ngô Đoan Trinh (1995), Giáo trình chọn lọc
và nhân giống gia súc. Trường ĐHNN - Hà Nội.
Mai Van Sanh, Nguyen Duc Thac, Dao Lan Nhi and R. J. Petheram (1995), Buffalo rearing in
a mountainous village of Vietnam. Exploring Approaches to Research in the Animal
Sciences in Vietnam. A Workshop held in Hue, 31 Jul 3 Aug., 1995, pp161-166.

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 32 - Tháng 10 - 2011



12

Mai Văn Sánh (1996). Khả năng sinh trưởng, sinh sản, cho sữa thịt của trâu Murrah nuôi ở
Sông Bé và kết quả lai tạo với trâu nội. Luận án PTS nông nghiệp.
Mai Văn Sánh (2005), Ảnh hưởng của chọn lọc đàn trâu cái và sử dụng trâu đực có khối
lượng lớn làm giống đến khối lượng sơ sinh và sinh trưởng của nghé. TC Chăn nuôi số
11, tr 8-9.
Mai Văn Sánh, Nguyễn Công Định và Trịnh Văn Trung (2008a), Sử dụng trâu đực giống

ngoại hình to nhằm cải tạo tầm vóc và khả năng sinh trưởng của đàn trâu địa phương
tại xã Ngọc Sơn, Thanh Chương- Nghệ An.Tạp chí khoa học công nghệ chăn nuôi -
Viện chăn nuôi, số 15 năm 2008, tr24.
Mai Văn Sánh, Trịnh Văn Trung, Nguyễn Công Định và Nguyễn Kiêm Chiến (2008b), Hiện
trạng đàn trâu ở một số địa phương đại diện cho các vùng trâu tốt. Tạp chí khoa học
công nghệ chăn nuôi - Viện chăn nuôi, số 15 năm 2008, tr8.
Singh, C.V., Yadav, M.C. and Dutt, G. 1984, Asian Journal of Dairy Research, 3(2): 87-90.
Nguyễn Đức Thạc (1983), Một số đặc điểm về sinh trưởng, cho thịt sữa của loại hình trâu to
miền Bắc và khả năng cải tạo nó với trâu Murrah. Luận án PTS khoa học NN.
Nguyễn Văn Thiện (1995), Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn nuôi. Nhà xuất bản
Nông nghiệp, tr. 7 - 204.
Nguyễn Trọng Tiến (1991), Giáo trình Chăn nuôi trâu bò. Trường Đại học NN I, Hà Nội.
Tiwana, M.S., Arora, B.S., Bullar, M.S., Singh, M., Sindhu, S.S. and Singh, J. 1985,
SARLAS Live Stock and Poultry Production: 48-54.
Topanurak, S.; J. Intaramongkol, P. Ratanapunna, S. Intaramongkol, S. Tumwasorn and C.
Chatalakhana (1991), Factors affecting growth performance in Thai swamp buffalo.
Annual report 1898-1991. The national buffalo research and development project,
Bangkok, Thailand, pp 17-25.
Vijai, R.G., Jain L.S. and Tailor, S.P. 1993, Indian Journal of Animal Sciences, 63:152-153.
Zaman, G.U. (1996), Genetic studies on swamp buffaloes. Ph.D. Thesis, Assam Agricultural
University, Assam, India.
Người phản biện: TS. Vũ Văn Nội và ThS. Nguyễn Thành Trung

×