1
MỤC LỤC 1
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ 5
PHẦN I: MỞ ĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Mục đích nghiên cứu 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Đối tượng nghiên cứu 10
6. Phạm vi nghiên cứu 10
7. Phương pháp nghiên cứu 10
8. Đóng góp của đề tài 11
9. Cấu trúc đề tài 11
PHẦN II: NỘI DUNG 12
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC KHẮC PHỤC LỖI PHÁT ÂM
CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH LẠNG 12
1.1. Cơ sở lý luận 12
1.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của học sinh tiểu học 12
1.1.2. Một vài khái niệm liên quan 12
1.1.3. Vị trí, ý nghĩa của việc rèn phát âm trong dạy học tập đọc cho học
sinh 18
1.2. Cơ sở thực tiễn 20
1.2.1. Vài nét về chương trình và sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 20
1.2.2. Khảo sát thực trạng sửa lỗi phát âm cho HS lớp 3 Trường Tiểu học
Thanh Lạng 21
2
1.2.3. Kết quả khảo sát 22
CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI PHÁT ÂM CHO HS LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH LẠNG – THANH HÓA – TUYÊN HÓA –
QUẢNG BÌNH 33
2.1. Biện pháp luyện tập theo mẫu 33
2.2. Biện pháp phân tích cách phát âm 36
2.3. Biện pháp luyện tập tổng tập 37
2.4. Biện pháp tổ chức trò chơi học tập để sửa lỗi phát âm cho HS 40
2.5. Thường xuyên luyện đọc các từ khó trong giờ Tập đọc 44
2.6. Biện pháp sử dụng công nghệ thông tin để khắc phục lỗi phát âm 44
2.7. Biện pháp sử dụng các thiết bị dạy học để khắc phục lỗi phát âm trong
dạy học Tập đọc 46
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 49
3.1. Những vấn đề chung 49
3.1.1. Một số yêu cầu của thực nghiệm sư phạm 49
3.1.2. Cấu trúc của thực nghiệm sư phạm 49
3.1.3. Mục đích thực nghiệm sư phạm 50
3.1.4. Đối tượng, thời gian và địa bàn thực nghiệm 51
3.1.5. Cách thức thực nghiệm 51
3.1.6. Nội dung, phương pháp thực nghiệm 51
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm sư phạm 53
3.2.1. Thiết kế giáo án giành cho lớp đối chứng bài tập đọc “Bàn tay cô
giáo” (tuần 21 – Tiếng Việt 3, tập 2) 53
3.2.2. Thiết kế giáo án giành cho lớp thực nghiệm bài tập đọc “Bàn tay cô
giáo” (tuần 21 – Tiếng Việt 3, tập 2) 59
3.3. Kết quả thực nghiệm 65
3
3.3.1. Chỉ tiêu đánh giá 65
3.3.2. Kết quả thực nghiệm 65
PHẦN III: KẾT LUẬN 69
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
PHỤ LỤC 1 73
PHỤ LỤC 2 74
PHỤ LỤC 3 76
PHỤ LỤC 4 77
4
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
SGV: Sách giáo viên
NXBGD: Nhà xuất bản Giáo dục
5
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1 Bảng sự khác biệt ngữ âm giữa các phương ngữ của tiếng Việt……15
Bảng 1.2 Các lỗi phát âm mà học sinh thường mắc phải ……………………. 23
Bảng 1.3 Bảng khảo sát hứng thú của HS khi học Tập đọc ………………… 25
Bảng 1.4 Bảng khảo sát vai trò của phân môn Tập đọc đối với học ………….25
Bảng 1.5 Bảng khảo sát thời gian học sinh học phát âm …………………… 25
Bảng 3.1 Bảng điều tra chất lượng ban đầu ………………………………… 52
Bảng 3.2 Bảng kiểm tra chất lượng HS ……………………………………….66
Biểu đồ 3.1 Biểu đồ điều tra chất lượng ban đầu …………………………… 52
Biểu đồ 3.2 Biểu đồ kiểm tra chất lượng HS ……………………………… 66
6
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, đất nước ta đang trên con đường đổi mới. Trong
cuộc cách mạng đổi mới ấy giáo dục được ưu tiên hàng đầu và được coi là quốc
sách với mục tiêu: “ Nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài,
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng với yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh”. Cùng với sự phát triển của xã hội, tiếng Việt cũng phát triển phong
phú và đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội. Để bắt kịp với công
cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào
tạo phải có đổi mới phù hợp. Bên cạnh sự đổi mới chương trình và nội dung học
tập, thì việc đổi mới cách làm của đội ngũ giáo viên là rất quan trọng và được
xem là khâu cơ bản đối với sự nghiệp giáo dục của nước ta.
Trong đó, bộ môn Tiếng Việt ở Tiểu học có ý nghĩa rất quan trọng, đặc
biệt phân môn Tập đọc lại không thể thiếu. Bởi nó giúp học sinh hình thành các
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt đó là nghe, nói, đọc, viết, lĩnh hội các kiến thức rất
cơ bản trong kho tàng tri thức, những kinh nghiệm sống, văn hoá và khoa học.
Vì thế, nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của
nhân loại, sẽ trở thành con người lạc hậu và bị xã hội đào thải. Biết đọc con
người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây người ta biết tìm hiểu,
đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Đọc giúp trẻ
chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong hoạt động học tập và giao tiếp, nó là
công cụ học tập các môn học khác, tạo hứng thú động cơ học tập, đồng thời tạo
điều kiện để HS có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Đặc biệt khi đọc
các tác phẩm văn chương, con người có những rung động tình cảm, nảy nở
những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy những năng lực, hành động, sức mạnh sáng tạo
cũng như bồi dưỡng tâm hồn. Nếu không biết đọc con người sẽ không có điều
kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được
7
một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc
ngày càng quan trọng vì nó giúp con người sử dụng các nguồn thông tin một
cách tốt nhất. Biết đọc sẽ giúp các em tự tìm hiểu tri thức khoa học xã hội loài
người, những điều mà nhà trường không có điều kiện truyền đạt hết.
Trong môn Tiếng Việt thì Tập đọc là phân môn chính có vị trí đặc biệt to
lớn ở nhà trường tiểu học, bởi vì giai đoạn này là giai đoạn then chốt trong quá
trình hình thành kỹ năng phát âm cho HS. Việc phát âm và luyện phát âm đúng
với chuẩn quy tắc tiếng Việt góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và
giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy ngay từ đầu bậc tiểu học các em cần
được học môn Tập đọc một cách khoa học, cẩn thận. Đó là lý do vì sao Tập đọc
bố trí thành phân môn độc lập (thuộc môn Tiếng Việt) có tiết dạy riêng. Đối với
HS miền núi do ảnh hưởng của tiếng địa phương nên khả năng phát âm đang
gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt đối với Trường Tiểu học Thanh Lạng thuộc xã
Thanh Hóa là một xã biên giới vùng cao, nằm ở phía Tây của huyện Tuyên Hóa,
tỉnh Quảng Bình, học sinh là người miền núi do đó khả năng phát âm chưa
chuẩn nên chất lượng dạy và học đối với các môn học nói chung và đối với phân
môn Tập đọc lớp 3 nói riêng chưa cao. Việc sửa lỗi phát âm sai cho học sinh đã
được giáo viên quan tâm nhưng chưa có cách khắc phục cụ thể cho học sinh
vùng bản xứ.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Khắc phục lỗi phát âm trong dạy
học Tập đọc cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa
– Tuyên Hóa – Quảng Bình” để làm khóa luận nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học tập đọc cho HS miền núi tỉnh Quảng Bình nói chung và HS Trường
Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa – Quảng Bình nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát âm chuẩn chính âm sẽ giúp người nghe cảm nhận được đầy đủ và
chính xác giá trị nội dung của văn bản. Vì vậy việc rèn luyện, đề xuất các biện
pháp khắc phục lỗi phát âm cho học sinh là vấn đề mà nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, tìm hiểu. Với những cuốn sách cơ bản như:
8
Giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” của Lê A – Thành Thị Yên
Mĩ – Lê Phương Nga – Nguyễn Trí – Cao Đức Tiến cũng đưa ra cơ sở lí luận
các nguyên tắc và phương pháp dạy Tập đọc, nhấn mạnh đến các phương pháp
như phương pháp trực quan, phương pháp đàm thoại, phương pháp luyện tập
theo mẫu
Giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc cấp
Tiểu học” (tài liệu đào tạo giáo viên) của Dự án phát triển giáo viên tiểu học
(NXB Giáo dục, 2006) cũng đã đi sâu vào nghiên cứu tầm quan trọng của dạy
phát âm đúng cho HS, tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến việc phát âm đúng
tiếng Việt cho HS. Đây là những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn đối với HS những
biện pháp này vẫn có tác dụng tích cực.
“Phát triển lời nói cho học sinh tiểu học trên bình diện ngữ âm” (tài liệu
đào tạo GV tiểu học), dự án phát triển GV tiểu học của Nguyễn Thị Xuân Yến –
Lê Thị Thanh Nhàn (NXBGD 2007) đã mô tả hệ thống âm chuẩn trong tiếng
Việt hiện đại xác định lỗi phát âm, xác định biến thể phát âm theo các vùng
phương ngữ cho HS tiểu học. Trong cuốn này tác giả đã đưa ra được cơ sở lý
luận một số phương pháp dạy học phát âm ở tiểu học.
Công trình “Ngữ âm học Tiếng Việt hiện đại” của tác giả Cù Đình Tú –
Hoàng Văn Thung – Nguyễn Nguyên Trứ (NXB Giáo dục, 1978) đã đề cập đến
một số vấn đề liên quan đến ngữ âm học trong nhà trường. Mặc dù đã nêu lên
được một số biện pháp cụ thể có liên quan đến luyện phát âm xong chưa hướng
tới đối tượng cụ thể.
“Dạy học tập đọc ở tiểu học” – Lê Phương Nga, đã nghiên cứu đến việc
xác định chuẩn chính âm trong tiếng Việt và hướng đến một trong ba mẫu hình
lý tưởng để luyện phát âm cho HS.
“Vui học Tiếng Việt” của tác giả Trần Mạnh Hưởng (NXB Giáo dục,
2000) đã biên soạn những trò chơi, những bài tập nhẹ nhàng về Tiếng Việt theo
yêu cầu kiến thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở bậc Tiểu học để học sinh vừa
9
có thể tự học mà vẫn được chơi các trò chơi cùng bạn bè theo tinh thần “Học vui
– vui học” một cách hứng thú và bổ ích.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến những vấn đề khác nhau của
phân môn Tập đọc và luyện phát âm cho học sinh bậc tiểu học nhưng chưa có
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu tìm hiểu về biện pháp khắc phục lỗi phát
âm cho học sinh lớp 3 – Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên
Hóa – Quảng Bình. Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở lí luận quý báu để
chúng tôi thực hiện đề tài: “Khắc phục lỗi phát âm trong dạy học Tập đọc cho
học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa –
Quảng Bình”.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong chương trình Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng thì
phân môn Tập đọc có một vị trí hết sức quan trọng, nó giúp học sinh biết cách
phát âm đúng chuẩn Tiếng Việt, hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong qua trình đọc.
Tuy nhiên trong thực tế dạy học Tiếng Việt hiện tượng học sinh mắc lỗi phát âm
còn rất phổ biến, đặc biệt là học sinh một số trường trên địa bàn các xã miền núi
thuộc huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, cụ thể là trường Tiểu học Thanh
Lạng, xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Từ thực tế trên tôi đã chọn đề tài khóa luận này với mục đích đề xuất các
biện pháp để khắc phục lỗi phát âm và rèn kỹ năng phát âm chuẩn cho học sinh
tiểu học miền núi huyện Tuyên hóa, tỉnh Quảng Bình nói chung và học sinh lớp
3 trường Tiểu học Thanh lạng nói riêng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt những mục tiêu đề ra việc xây dựng và giải quyết các nhiệm vụ là
hết sức quan trọng. Các nhiệm vụ đó là: thứ nhất chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý
luận của dạy học phát âm. Hai là điều tra khảo sát thực trạng học phát âm. Ba là
đề xuất một số biện pháp khắc phục lỗi phát âm tiếng Việt cho HS lớp 3 trường
Tiểu học Thanh Lạng. Cuối cùng tiến hành thực nghiệm để khẳng định tính khả
thi của vấn đề nghiên cứu.
10
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là: “Khắc phục lỗi phát âm trong dạy
học Tập đọc cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng.”
Đối tượng thực nghiệm: HS và GV Trường Tiểu học Thanh Lạng, xã
Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
6. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu cơ sở lý luận của việc khắc phục lỗi phát âm cho
học sinh.
Lựa chọn và khảo sát một số từ ngữ trong các bài Tập đọc lớp 3 mà học
sinh thường mắc lỗi trong quá trình học tập và giao tiếp.
Đề xuất một số biện pháp sửa lỗi phát âm nhằm khắc phục tình trạng phát
âm lệch chuẩn cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng, Thanh Hóa – Tuyên
Hóa – Quảng Bình.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực tốt các nhiệm vụ đề ra đạt được mục tiêu nghiên cứu thì không
thể thiếu được các phương pháp nghiên cứu. Có rất nhiều phương pháp trong
nghiên cứu khoa học thường được áp dụng, với các vấn đề của đề tài này chúng
tôi đã sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
Mục đích: Thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản
tài liệu, các công trình khoa học có liên quan làm cơ sở lí luận cho đề tài.
Phương pháp đọc, Phương pháp phân tích, Phương pháp tổng hợp và khái
quát hóa, Phương pháp xử lí kết quả bằng thống kê toán học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp trò chuyện: thu thập thông tin về thực trạng phát âm của
học sinh dân tộc lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa
– Quảng Bình.
+ Phương pháp thực nghiệm: phát phiếu điều tra để thu thập thông tin.
Thể nghiệm một số biện pháp nâng cao hiệu quả phát âm tiếng Việt cho học sinh
11
dân tộc lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa – Quảng
Bình.
8. Đóng góp của đề tài
Khóa luận đưa ra một số biện pháp khắc phục lỗi phát âm trong dạy học
Tập đọc cho HS lớp 3 trường Tiểu học Thanh Lạng. Khóa luận được nghiệm thu
sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên Tiểu học trong quá trình giảng dạy ở miền
núi huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói chung, giáo viên dạy học lớp 3
Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa – Quảng Bình và sinh
viên khoa Tiểu học – Mầm non nói riêng, trong quá trình học tập, nghiên cứu và
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
9. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần mở đầu, phần kết luận - kiến nghị - đề xuất, phụ lục, tài
liệu tham khảo, phần nội dung cơ bản của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cở khoa học của việc khắc phục lỗi phát âm cho học sinh lớp
3 trường Tiểu học Thanh Lạng
Chương 2: Biện pháp khắc phục lỗi phát âm cho học sinh lớp 3 trường
Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên hóa – Quảng Bình
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
12
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC KHẮC PHỤC LỖI PHÁT
ÂM CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH LẠNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của học sinh tiểu học
Đối với HS lứa tuổi tiểu học là giai đoạn các em chuyển từ hoạt động chủ
đạo vui chơi sang hoạt động học tập làm chủ đạo. Đặc biệt, HS lớp 3 ghi nhớ
không chủ định cũng dần chuyển sang ghi nhớ có chủ định. Hơn nữa, khi học
qua phân môn Học vần, hầu hết các em đã đọc thông viết thạo. Tuy nhiên đối
với học sinh miền núi thì ngôn ngữ địa phương làm ảnh hưởng đến cách phát âm
của HS nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học môn tiếng Việt của các
em.
Do đó, khi dạy tập đọc cho HS lớp 3 ở các trường miền núi, GV cần giúp
HS hình thành kỹ năng và thói quen phát âm chuẩn khi đọc. Muốn vậy cần cho
các em luyện đọc nhiều. Ngoài ra trong quá trình luyện phát âm cho HS, GV cần
nắm được chuẩn chính âm và chuẩn chính tả để tránh luyện phát âm cho HS
không đạt hiệu quả.
Cơ chế của việc phát âm khi đọc là cơ sở của việc dạy đọc. Tập đọc biểu
thị mối quan hệ mật thiết giữa sự vận động của thị giác với lời nói âm thanh. Do
đó, trong dạy học Tập đọc GV cần nắm được đặc điểm tâm sinh lý, ngôn ngữ, tư
duy cụ thể của HS lớp 3 để xác định cho mình những phương pháp giảng dạy
sao cho phù hợp với đối tượng HS.
1.1.2. Một vài khái niệm liên quan
1.1.2.1. Phát âm và lỗi phát âm
Phát âm: Theo Từ điển tiếng Việt: “Phát âm là phát ra các âm thanh của
ngôn ngữ bằng các động tác lưỡi”. (Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng)
Phát âm trong giờ Tập đọc của học sinh tiểu học được thể hiện thông qua
việc đọc đúng tiếng, từ. Phát âm chuẩn góp phần quan trọng trong việc giúp học
13
sinh đọc đúng trong chương trình Tiếng Việt và nói đúng trong giao tiếp. Muốn
luyện phát âm chuẩn cho học sinh thì giáo viên cần nắm vững những đơn vị ngữ
âm của một đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động phát âm như: âm vị
và âm tiết. Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của một ngôn ngữ có chức năng
phân biệt nghĩa và nhận dạng từ.
* Ví dụ: khi nghe một em bé gọi "ba". Ta nhận ra từ "ba" đó là nhờ các
âm "b", "a".
Để ghi các âm vị, người ta dùng kí hiệu ghi âm tố đặt ở trong / /.
* Ví dụ: /b/, /a/.
Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong ngôn ngữ.
* Ví dụ: sách
Âm tiết tiếng Việt là đơn vị phát âm nhỏ nhất, đơn giản về mặt tổ chức, có
giá trị về mặt ngữ pháp. Âm tiết tiếng Việt là đơn vị ngữ âm mang tính ổn định
về mặt hình thức và ranh giới của âm tiết tiếng Việt do tính chất cố định nên bất
biến.
Phát âm đúng, chuẩn chỉ có thể có dựa trên cơ sở giáo viên hiểu rõ các
yếu tố: âm vị, âm tiết. Vì đó là một trong những cơ sở quan trọng để luyện phát
âm cho học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 3.
Phát âm chuẩn quy tắc tiếng Việt là phát âm đúng âm vị, phụ âm, to, rõ
ràng, lưu loát, mạch lạc từng âm vị và chữ cái. Đối với việc hình thành kỹ xảo
phát âm, đặc tính của mỗi thể loại văn bản, đoạn trích mà HS dựa vào đó để lĩnh
hội từ ngữ, ngôn ngữ tiếng Việt là rất quan trọng. Theo đó khi phát âm theo
nguyên tắc chữ viết là các biểu tượng âm vị, chữ cái, vần, thanh điệu từ đó được
thể hiện bằng biểu tượng âm thanh.
Lỗi phát âm: Lỗi phát âm là những sai lệch trong cách phát âm so với
cách phát âm chuẩn làm cho người nghe khó hiểu thậm chí hiểu sai thành một
nghĩa khác.
Ví dụ: Từ “Nhảy múa” phát âm thành “nháy múa”. Hay “mật ong” phát
âm “mật ông”…
14
1.1.2.2. Chính âm, phương ngữ và thanh điệu
Chính âm: Chính âm là chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị
và hiệu lực về mặt xã hội. Chính âm quy định nội dung luyện phát âm ở tiểu
học. Chính âm liên quan đến vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt. Việc hiểu biết của chính âm sẽ giúp ta xác định được nội dung
cần đọc đúng, đọc diễn cảm một cách có nguyên tắc.
Chính âm có mối quan hệ chặt chẽ tới quá trình dạy học Tập đọc cho HS
tiểu học và phát âm đúng sẽ giúp cho HS học tập cách phát âm chuẩn, từ đó hiểu
sâu sắc vấn đề được đề cập.
Do đó, GV phải xác định chuẩn chính âm khi dạy học tập đọc cho HS để
sửa lỗi, rèn kỹ năng phát âm chuẩn và đọc chuẩn.
Phương ngữ: (hay phương ngôn) là hệ thống ngôn ngữ được dùng cho tập
hợp người nhất định trong xã hội, thường là phân chia theo lãnh thổ.
Để luyện phát âm đúng cho HS, trước hết phải giải quyết vấn đề phương
ngữ. Mục tiêu của chúng ta đặt ra là luyện cho HS vươn đến một tiếng nói dân
tộc Việt thống nhất, đẹp đẽ về mặt âm thanh. Muốn như vậy, chúng ta phải
luyện cho HS đọc đúng, hay trong phạm vi giao tiếp rộng hơn phương ngữ hẹp
của mình.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết như thế nào những nét khác biệt trên bình
diện ngữ âm giữa các phương ngữ, một hiện tượng khách quan có liên quan trực
tiếp đến việc xác định chuẩn chính âm. Nếu lấy hệ thống ngữ âm được phản ánh
trên chữ viết hiện nay (chữ Quốc ngữ) làm cơ sở để so sánh thì có thể nêu lên
một số nét cơ bản nhất về sự khác biệt ngữ âm giữa các phương ngữ của tiếng
Việt như sau:
15
Phương ngữ
Những nét khác biệt
Bắc Bộ Bắc Trung Bộ
Nam Trung
Bộ, Nam Bộ
Âm đầu tr, s, r - + +
Vần ưu, ươu - + +
Âm vần v + + -
Âm cuối t, n + + -
6 thanh + - -
Bảng 1.1 Bảng sự khác biệt ngữ âm giữa các phương ngữ của tiếng Việt
Sự thực, bức tranh ngữ âm của các phương ngữ tiếng Việt còn đa dạng và
phức tạp hơn nhiều. Trong nhiều thập kỉ nay, trong giới ngữ học có nhiều quan
điểm khác nhau về chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, trong đó có ý kiến cho rằng
nên lấy phương ngữ Bắc Bộ (tiêu biểu là Thủ đô Hà Nội) làm cơ sở để xác định
chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt đồng thời bổ sung một số yếu tố ngữ âm tích cực
của các phương ngữ khác. Đây là quan điểm được nhiều người tán thành. Về
thực chất, quan điểm này đã lấy chữ viết làm cơ sở để xác định chuẩn mực ngữ
âm tiếng Việt. Quan điểm này đã chi phối cách phát âm của trường học, nên
hiện nay, mặc dù chưa có một văn bản chính thức nào quy định chặt chẽ nhưng
trong trường học, một cách tự nhiên, hệ thống ngữ âm được phản ánh trên chữ
viết được coi là hệ thống ngữ âm chuẩn mực của tiếng Việt hiện đại. Đó là cách
phát âm lấy phương ngữ Bắc Bộ (tiêu biểu là tiếng Hà Nội) bổ sung thêm 3 phụ
âm đầu của miền Trung, những âm được biểu hiện trên chữ viết bằng các con
chữ tr, s, r và 2 vần ươu, ưu (từ đây chúng ta sẽ gọi cách phát âm này là cách
phát âm đúng chuẩn chữ viết. Nhiều GV tiểu học còn gọi cách phát âm này là
“phát âm đúng chính tả”). Đây là cách phát âm có sự khu biệt âm vị học tối đa
của chữ viết để khắc phục những âm đã mất đi hoặc đã bị biến dạng của tiếng
địa phương. Cách phát âm này tránh được tai hoạ của hiện tượng đồng âm, là
cách phát âm tối ưu để viết đúng chính tả. Giá trị thực tiễn và tính hợp lí của
16
cách phát âm này là ở chỗ đó. Đấy là chưa kể đến tiếng Hà Nội, tiêu biểu cho
tiếng địa phương miền Bắc, lại là tiếng nói thanh lịch, đáng yêu. Vì vậy, cách
phát âm hợp chuẩn chữ viết là căn cứ đầu tiên để chúng ta đối chiếu, xem xét
cách phát âm của HS. Mỗi GV tiểu học cần phải xác định được các trường hợp
phát âm lệch chuẩn chữ viết của HS vùng phương ngữ mình đang dạy học.
Nhưng mặt khác, luyện phát âm chỉ có tính khả thi khi nó được tiến hành một
cách tự nhiên, tự nguyện, không đi ngược với quan niệm và tình cảm, thói quen
của những cộng đồng HS nói tiếng địa phương và nó không buộc phải thực hiện
những kĩ thuật phát âm quá khó đối với các em. Hệ thống ngữ âm mà chữ viết
phản ánh là một hệ thống siêu phương ngữ, không được hiện thực hoá đầy đủ
trong giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ mà chỉ tồn tại trong ý thức của người bản
ngữ khi học viết đúng chính tả.
Nếu chỉ chọn phát âm theo chữ viết, nghĩa là cho rằng tất cả những cách
phát âm khác hệ thống ngữ âm được phản ánh trên chữ viết là mắc lỗi thì chúng
ta sẽ buộc HS tất cả các vùng nói giọng Hà Nội pha một số yếu tố của miền
Trung, buộc HS Nam Bộ nói tiếng Bắc. Làm như vậy sẽ rất khó đối với việc trau
dồi cách phát âm chuẩn mực trong nhà trường. Vì vậy, để luyện đọc đúng cho
HS, chúng ta phải đặt vấn đề chấp nhận hai chuẩn chính âm. Vậy, những trường
hợp nào cần xem là HS mắc lỗi phát âm phải sửa chữa và những trường hợp nào
cần chấp nhận chuẩn chính âm thứ hai?
Dựa vào tâm lí của người bản ngữ, chúng ta có thể chia các trường hợp
phát âm lệch chuẩn chữ viết thành hai nhóm: nhóm lỗi phát âm và nhóm biến
thể phương ngữ. Chúng ta chỉ luyện cho các trường hợp được xem là mắc lỗi
phát âm và đặt vấn đề chấp nhận hai chuẩn chính âm cho các trường hợp được
xem là biến thể phương ngữ.
Để luyện phát âm cho HS, chúng ta có thể hướng đến một trong ba mẫu
hình lí tưởng, hay nói cách khác là có thể chọn một trong ba chuẩn phát âm sau :
- Hướng đến cách phát âm của hệ thống ngữ âm phù hợp với chữ viết. GV
và HS thuộc phương ngữ Trung Bộ nên hướng đến cách phát âm này.
17
- Hướng đến cách phát âm theo tiếng Hà Nội như phát thanh viên đài phát
thanh, truyền hình Trung ương. GV và HS phương ngữ Bắc Bộ nên hướng đến
cách phát âm này.
- Hướng đến cách phát âm của tiếng Sài Gòn như phát thanh viên đài phát
thanh, truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. GV và HS thuộc phương ngữ Nam
Bộ nên hướng đến cách phát âm này.
Thanh điệu: Thanh điệu là một loại đơn vị siêu đoạn tính bao trùm lên
toàn bộ âm tiết và có chức năng thay đổi đơn vị cao của âm tiết. Đối với các
ngôn ngữ Đông Nam Á trong đó có tiếng Việt thì thanh điệu có chức năng âm vị
học tức là có chức năng khu biệt nghĩa.
Hệ thống thanh điệu gồm sáu thanh: Ngang (-), huyền (/), hỏi (?), sắc (/),
nặng (.) được chia làm hai nhóm cao (sắc, ngã, không) và thấp (ngang, huyền);
nếu xét về âm vực được chia là bằng phẳng (ngang, huyền), không bằng phẳng
(hỏi, ngã, sắc, nặng) nếu xét về âm điệu.
Không bằng phẳng Âm điệu
Âm vực
Bằng phẳng
Gẫy Không gẫy
Cao Ngang Ngã Sắc
Thấp Huyền Hỏi Nặng
Các thanh điệu dễ hòa nhập với nhau đó là nặng với ngã, sắc với hỏi, điều
này cộng với tính chất dễ thay đổi âm vực của các thanh điệu hai chiều như hỏi,
ngã đã dẫn đến hiện tượng nhập thanh ở một số vùng phương ngữ tiếng Việt.
Trong quá trình phát âm cần kết hợp hài hòa các yếu tố học phát âm trong
phân môn Tập đọc cao trong quá trình HS phát âm GV cần phải hướng dẫn các
em cách phối hợp thanh điệu, chính âm để việc sửa lỗi phát âm đạt hiệu quả,
chất lượng.
Thanh ngang (không dấu): là thanh cao có đường nét bằng phẳng đồng
đều từ đầu đến cuối.
18
Thanh huyền: là thanh thấp, cũng có đường nét bằng phẳng đi xuống thoai
thoải.
Thanh ngã: có đường nét không bằng phẳng xuất phát từ âm vực thấp hơi
đi lên đến giữa chừng lại đi xuống, dốc đứng trong một thời gian ngắn, sau đó
lại đột ngột vút lên và kết thúc ở một độ cao rất lớn, thanh ngã thuộc nhóm
thanh cao.
Thanh hỏi: Có đường nét cong như một vòng cung xuất phát từ độ cao
thấp hơn thanh huyền rồi đi dần xuống giữa chừng lại đi lên và kết thúc ở độ cao
gần bằng lúc xuất phát, đây là một thanh thấp.
Thanh sắc: Bắt đầu từ một độ cao thấp hơn thanh ngang, rồi đi vút lên, kết
thúc ở độ cao lớn nhất.
Thanh nặng: Bắt đầu ngang với độ cao xuất phát của thanh huyền rồi đi
xuống thoai thoải nhưng dốc hơn thanh huyền rất nhiều, kết thúc ở độ cao thấp.
Các thanh điệu dễ hòa nhập với nhau đó là nặng với ngã, sắc với hỏi, điều
này cộng với tính chất dễ thay đổi âm vực của các thanh điệu hai chiều như hỏi,
ngã, đã dẫn đến một số hiện tượng nhập thanh ở một số vùng phương ngữ tiếng
Việt.
Trong quá trình phát âm cần kết hợp hài hòa giữa các yếu tố để có kết quả
phát âm cao, trong quá trình HS phát âm GV cần phải hướng dẫn các em cách
phối hợp thanh điệu để việc dạy học có chất lượng.
1.1.3. Vị trí, ý nghĩa của việc rèn phát âm trong dạy học tập đọc cho
học sinh
Môn Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông góp phần đắc lực trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ trong tương lai. Việc dạy Tiếng Việt trong
nhà trường tạo cho học sinh khả năng sử dụng Tiếng Việt văn hóa và hiện đại
để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt rèn cho học
sinh năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục các em những tư tưởng
tình cảm lành mạnh trong sáng. Bên cạnh đó môn Tiếng Việt còn có nhiệm vụ
hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn
19
ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết.
Trong đó phân môn Tập đọc thuộc môn Tiếng Việt có nhiệm vụ rất quan
trọng, hình thành cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Để học tốt phân
môn Tập đọc trước hết ta phải chú ý kỹ năng đọc của học sinh. Đọc là một dạng
hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm
thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển
trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng
với đọc thầm). (M.R. Lơvôp – Cẩm nang dạy học tiếng Nga (tiếng Nga). Chắc
hẳn ai cũng biết những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá,
khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương
thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết, biết đọc con người có cơ hội tiếp
nhận được những tinh hoa văn hóa nhân loại. Chính những lý do trên mà đọc
đúng chuẩn là yêu cầu đang được đặt ra trong nhà trường Tiểu học, để đọc đúng
trước hết phải phát âm đúng. Vì vậy khắc phục lỗi phát âm trong dạy học Tập
đọc là khâu rất quan trọng, nó giúp cho ngôn ngữ của các em phát triển một cách
toàn diện nhất, đúng nhất trong mọi hoàn cảnh. Ngoài ra phát âm đúng còn giúp
cho học sinh Tiểu học hiểu đúng nghĩa của từ ngữ, câu văn. Từ đó giúp các em
cảm nhận được cái hay cái đẹp của văn bản nghệ thuật cũng như sự chính xác
của văn bản khoa học.
Việc khắc phục lỗi phát âm sẽ tạo nhiều cái lợi: Trước hết nó giúp cho
học sinh viết đúng chính tả, sau đó giúp các em dễ dàng hơn khi học ngoại ngữ.
Ngôn ngữ là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ có chuẩn thì việc giao tiếp ở
phạm vi rộng hơn phương ngữ mới thuận lợi và bài đọc của các em cũng mới
tiến tới hay được. Bởi mỗi bài tập là một bức tranh nhỏ về cuộc sống xung
quanh của con người. Các em đọc càng hay càng thêm dễ hiểu về nội dung bài
đọc cũng như cảm nhận được cái hay, cái đẹp thể hiện trong bài, từ đó từng
bước hình thành khả năng cảm thụ văn học, giúp cho bài văn của các em ngày
một hay hơn.
20
Khắc phục lỗi phát âm cho học sinh góp phần không nhỏ trong việc thực
hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt. Mà môn Tiếng Việt lại có quan hệ khăng
khít với các môn học khác, không có môn Tiếng Vệt sẽ không có bất cứ một
hoạt động nào trong nhà trường. Ngược lại, thông qua sử dụng Tiếng Việt để
học các môn khác, trình độ của các em được tăng lên, kỹ năng học Tiếng Việt
được củng cố khắc sâu thêm. Xuất phát từ những lý do trên cho ta thấy việc
khắc phục lỗi phát âm trong dạy học Tập đọc có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 3.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vài nét về chương trình và sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
SGK Tiếng Việt 3
SGK Tiếng Việt 3 gồm có hai tập (tập 1+ tập 2), chương trình được xây
dựng theo từng chủ điểm, các chủ điểm được học trong hai hoặc ba tuần.
* Tập 1: Gồm 8 đơn vị với các chủ điểm có tên gọi như sau:
+ Măng non (tuần 1, 2)
+ Mái ấm (tuần 3, 4)
+ Tới trường (tuần 5, 6)
+ Cộng đồng (tuần 7, 8)
+ Quê hương (tuần 10, 11)
+ Bắc - Trung - Nam (tuần 12, 13)
+ Anh em một nhà (tuần 14,15)
+ Thành thị và nông thôn (tuần 16, 17)
Tuần 9 ôn tập giữa học kỳ I; tuần 18 ôn tập và kiểm tra cuối học kỳ I.
* Tập 2: Gồm 7 chủ điểm có tên gọi như sau:
+ Bảo vệ tổ quốc (tuần 19, 20)
+ Sáng tạo (tuần 21, 22)
+ Nghệ thuật (tuần 23, 24)
+ Lễ hội (tuần 25, 26)
+ Thể thao (tuần 28, 29)
21
+ Ngôi nhà chung (tuần 30, 31, 32)
+ Bầu trời và mặt đất (tuần 33, 34)
Tuần 27 ôn tập giữa học kỳ II; tuần 35 ôn tập và kiểm tra cuối học kỳ II.
SGK Tiếng Việt 3 bao gồm các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả,
Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Mỗi phân môn có nội dung chương
trình riêng và bố trí theo phân phối chương trình. Trung bình một tuần HS được
học hai bài tập đọc, trong đó có một bài tập đọc kể chuyện được học hai tiết.
Như vậy trong một năm học, HS được học 62 bài tập đọc tương đương với 93
tiết.
Cấu trúc bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt lớp 3 thường gồm bốn phần:
tranh minh họa, văn bản tập đọc, chú giải và câu hỏi trong phần tìm hiểu bài.
Trong quá trình dạy học, tùy thuộc vào từng bài đọc cụ thể GV sử dụng
SGK một cách tối ưu để đạt hiệu quả giờ học một cách tốt nhất. Đối với Trường
Tiểu học Thanh Lạng khả năng phát âm của nhiều em HS chưa cao, chính vì vậy
SGK là công cụ chủ yếu sửa lỗi phát âm để nâng cao hiệu quả dạy – học đọc cho
GV và HS.
1.2.2. Khảo sát thực trạng sửa lỗi phát âm cho HS lớp 3 Trường
Tiểu học Thanh Lạng
Mục đích khảo sát
Chúng tôi tiến hành khảo sát giờ dạy Tập đọc của GV Trường Tiểu học
Thanh Lạng, từ đó xác định những khó khăn chủ yếu mà GV gặp phải khi dạy
tập đọc cho HS và đưa ra biện pháp khắc phục. Đồng thời chúng tôi tìm hiểu
hoàn cảnh, tâm sinh lý HS lớp 3, khảo sát thực trạng phát âm trong giờ Tập đọc
để thấy được những lỗi phát âm mà các em thường mắc phải, tiến hành phân loại
lỗi để nắm được thực trạng mắc lỗi. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp
khắc phục lỗi phát âm nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tập đọc.
Nội dung khảo sát
Khóa luận tiến hành khảo sát trên những nội dung sau:
1. Thực trạng phát âm của HS
22
2. Thực trạng sửa lỗi phát âm của GV đối với HS
Địa điểm và thời gian khảo sát
+ Thời gian khảo sát: Học kì II năm học 2014 – 2015
+ Địa điểm khảo sát: Tại Trường Tiểu học Thanh Lạng
Cách thức khảo sát
Để đánh giá thực trạng phát âm cho các em HS lớp 3 Trường Tiểu học
Thanh Lạng, tôi dùng phương pháp dự giờ trực tiếp, phương pháp điều tra bằng
phiếu, trao đổi với GV về chương trình tập đọc lớp 3 và các phương pháp sửa lỗi
phát âm cho HS.
1.2.3. Kết quả khảo sát
Sau một thời gian tiến hành khảo sát thực tế tại Trường Tiểu học Thanh
Lạng chúng tôi thu được kết quả như sau:
1.2.3.1. Thực trạng mắc lỗi phát âm của HS
Một số lỗi phát âm thường gặp của HS lớp 3 Trường Tiểu học Thanh
Lạng
Qua thực tế khảo sát trong giờ học Tập đọc, qua việc trò chuyện với HS
lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng, chúng tôi thấy các em mắc khá nhiều lỗi
phát âm, thống kê số lỗi phát âm, em thấy có hai loại lỗi cơ bản sau:
• Lỗi phát âm do HS không nắm vững cấu trúc nội bộ trong cùng một âm
tiết tiếng Việt, (chẳng hạn như ăn cơm thì các em lại phát âm là ăm cơn, sức
khỏe phát âm là sức khẻo …)
Dễ thấy các lỗi phát âm trên là do HS không nắm vững được cấu tạo trong
nội bộ tiếng Việt, dẫn đến hiện tượng thừa, thiếu, sai âm từ. Để khắc phục lỗi
này GV nên chỉ ra cho HS các thành phần của âm tiết (cấu tạo âm tiết từ mức độ
tối thiểu đến tối đa) tức là giúp HS nắm được các thành phần của âm tiết bao
gồm những thành phần nào, vị trí âm tiết đảm nhận vai trò gì. Nắm được cơ sở
này HS sẽ khắc phục lỗi phát âm thừa, thiếu hoặc sai âm.
• Lỗi phát âm do HS không nắm vững chính âm và do ảnh hưởng của lối
23
phát âm địa phương
Hầu hết theo số liệu điều tra đã cho thấy các em đều mắc lỗi về phụ âm
đầu s/x, lỗi phần vần ong/ông, oc/ooc, ênh/anh, ươu/iêu, ưu/iu … lỗi về thanh
điệu như thanh ngã và thanh hỏi Để sửa lỗi này đòi hỏi một quá trình rèn
luyện lâu dài, trước hết HS cần nắm vững chính âm tiếng Việt, chú ý hướng dẫn
HS phát âm theo âm chuẩn tiếng Việt, không phát âm theo lối phát âm địa
phương. Muốn đạt được điều đó GV cần dạy đúng, phát âm chuẩn chính âm
tiếng Việt cho HS. Điều quan trọng nhất trong việc khắc phục lỗi này và nâng
cao hiệu quả sửa lỗi phát âm là GV thường xuyên cho HS phát âm, tập phát âm
nhiều lần những phụ âm dễ lẫn đồng thời phải phối hợp đa dạng với các hình
thức rèn luyện khác.
Thực trạng điều tra cho thấy 42 HS ở lớp 3A, 3B thuộc khối 3 của Trường
Tiểu học Thanh Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa – Quảng Bình hầu hết đều
mắc lỗi khi phát âm. Qua quá trình khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
Lỗi phụ âm đầu:
s/x, …
Lỗi phần vần:
ươu/iêu, ong/ông,
oc/ooc,…
Lỗi về thanh điệu:
Ngã/hỏi,
hỏi/sắc,…
Lớp
Số
lượng
HS
được
khảo sát
Số HS
mắc lỗi
Tỷ lệ
HS mắc
lỗi(%)
Số HS
mắc lỗi
Tỷ lệ
HS mắc
lỗi(%)
Số HS
mắc lỗi
Tỷ lệ
HS mắc
lỗi(%)
3A 21 6 28,5% 15 71,4% 21 100%
3B 21 5 23,8% 16 76,2% 21 100%
Bảng 1.2 Các lỗi phát âm mà học sinh thường mắc phải
Qua bảng số liệu thống kê trên cho thấy HS lớp 3 của Trường Tiểu học
Thanh Lạng đều mắc lỗi phát âm. Cụ thể là:
Thứ nhất: Về phụ âm đầu
Số lượng HS mắc lỗi về phụ âm chiếm số lượng ít, chủ yếu là các phụ âm
s/x.
Ví dụ: Từ “cây xanh” HS phát âm thành “cây sanh”…
24
Thứ hai: Về phần vần
So với số lượng HS mắc lỗi về phụ âm thì tỷ lệ HS mắc lỗi về phần vần
chiếm tỷ lệ cao hơn: lớp 3A chiếm 42,9%, lớp 3B chiếm 52,4 %. Do HS lớp 3 ở
Trường Tiểu học Thanh Lạng là HS miền núi nên chủ yếu là nói tiếng địa
phương ít khi giao tiếp bằn tiếng phổ thông.
Ví dụ: Từ “đi học” các em phát âm là “đi hoọc”, hay là từ “rượu” phát âm
thành “riệu”…
Thứ ba: Về thanh điệu
Đa số HS xã Thanh Hóa nói chung và học sinh lớp 3 Trường Tiểu học
Thanh Lạng nói riêng đều mắc lỗi về thanh điệu, các em thường nhầm lẫn giữa
thanh ngã/thanh hỏi, thanh hỏi/thanh sắc.
Ví dụ: Từ “số bảy” các em lại phát âm thành “số báy”
Hay là “con muỗi” phát âm là “con muổi”
Thực trạng học phát âm trong trường tiểu học
Không chỉ riêng gì với HS lớp 3 Trường Tiểu học Thanh Lạng – Thanh
Hóa – Tuyên Hóa – Quảng Bình mà hầu hết các HS khác trên địa bàn vẫn nhìn
nhận Tập đọc là một môn học “phụ”, bổ trợ cho kỹ năng sử dụng tiếng Việt
trong ngôn ngữ nói. Với quan niệm trên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ học cho biết,
cho xong thì người Việt Nam không ai là không mắc lỗi phát âm. Phát âm là một
phần nhỏ trong phân môn Tập đọc nhưng nó góp phần khá lớn vào việc hình
thành kỹ năng sử dụng đúng và chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt, đồng thời còn là cơ
sở cho việc sử dụng ngôn ngữ để học tập các môn học khác. HS lớp 3 Trường
Tiểu học Thanh Lạng hầu hết cũng chỉ quan tâm đến phát âm trong dạy học Tập
đọc ở góc độ học cho biết đọc cái chữ, chứ chưa thực sự quan tâm đến các lỗi sai
mà mình mắc phải hay việc phát âm, sử dụng ngôn ngữ trong khi nói sao cho
đúng, cho chuẩn.
Phát âm lệch chuẩn tiếng Việt ngay ở các lớp đầu cấp sẽ hình thành thói
quen và ảnh hưởng không nhỏ đến sau này, phát âm không chỉ là công cụ giúp
HS chiếm lĩnh văn hóa, trau dồi kiến thức, tư duy để học tập mà còn tạo điều
25
kiện ban đầu trong hành trang ngôn ngữ cả đời người trong các em. Với ý nghĩa
quan trọng như vậy, phân môn Tập đọc phải là môn học được coi trọng trong
nhà trường, thế nhưng trên thực tế lại không như vậy, không riêng gì với HS
Trường Tiểu học Thanh Lạng mà hầu hết các em HS vẫn chưa nhận thức được
tầm quan trọng của môn Tập đọc và chỉ nhìn nhận môn học này là một môn học
“phụ” hỗ trợ cho kỹ năng sử dụng tiếng, nói tiếng Việt. Điều đó được thể hiện
cụ thể: theo thống kê phiếu điều tra khảo sát HS của Trường Tiểu học Thanh
Lạng – Thanh Hóa – Tuyên Hóa – Quảng Bình mà chúng tôi tiến hành nghiên
cứu cho thấy:
Mức độ Số lượng HS
được khảo sát
Lớp
Rất thích Thích Không thích
21 3A 3/21 (14,3%) 5/21 (23,8%) 10/21 (61,9%)
Bảng 1.3 Bảng khảo sát hứng thú của HS khi học Tập đọc
Qua bảng số liệu thống kê trên cho thấy có khoảng 61,7% HS là không
thích học phân môn Tập đọc, 38,1% thích và rất thích học môn này khi hỏi: “em
có thích học tập đọc không ?”
Mức độ Số lượng HS
được khảo sát
Lớp
Rất quan trọng
Quang trọng Không quan trọng
21 3A 3/21 (14,3%) 9/21 (42,85%) 9/21 (42,85%)
Bảng 1.4: Bảng khảo sát vai trò của phân môn Tập đọc đối với học sinh
Từ số liệu thống kê trên cho thấy có 42,85% HS trả lời không quan trọng,
có 57,15% HS cho là quan trọng và rất quan trọng, với câu hỏi: “theo em, phân
môn Tập đọc có vai trò như thế nào ?”
Mức độ Số lượng HS
được khảo sát
Lớp
Nhiều thời gian Bình thường Ít thời gian
21 3A 2/21 (9,5%) 7/21 (33,3%) 12/21 (57,2%)
Bảng 1.5: Bảng khảo sát thời gian học sinh học phát âm