BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
PHẠM THỊ THIỆN
HƯƠNG ƯỚC CẢI LƯƠNG HUYỆN THANH
LIÊM, TÌNH HÀ NAM ( 1921 – 1942 )
LUẬN ÁN THẠC SĨ
Hà Nội, 2014
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ
- người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban chủ nhiệm khoa Lịch
sử, đặc biệt là thầy cô trong tổ Lịch sử Việt Nam, Phòng tư liệu khoa Lịch sử,
Phòng đào tạo và Phòng sau đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Thư viện Quốc gia, Thư viện Viện sử học, Thư viện Viện Hàn Lâm khoa
học xã hội Việt Nam, Thư viện tỉnh Hà Nam, Thư viện huyện Thanh Liêm –
tỉnh Hà Nam đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em
trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên tôi hoàn thành khóa học.
Hà Nội, tháng 7 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1 BCĐ Ban chỉ đạo
2 BCHTWĐCSVN Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
3 CMT8 Cách mạng tháng Tám
4 CP Chính phủ
5 CT Chỉ thị
6 CTQG HN Chính trị Quốc gia Hà Nội
7 ĐHKHXH&NV Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn
8 ĐHSP HN Đại học Sư phạm Hà Nội
9 ĐHVH HN Đại học Văn hóa Hà Nội
10 HĐKH Hội đồng kỳ hào
11 HĐKM Hội đồng kỳ mục
12 HĐTB Hội đồng tộc biểu
13 HTX Hợp tác xã
14 NCLS Nghiên cứu lịch sử
15 NĐ Nghị định
16 Nxb Nhà xuất bản
17 PTS. KHLS Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử
18 TS Tiến sĩ
19 STT Số thứ tự
20 SV Sinh viên
21 TTKHXH Thông tin khoa học xã hội
22 UBND Uỷ ban nhân dân
23 VD Ví dụ
24 VHTT Văn hóa thông tin
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử ra đời và tồn tại của hương ước cho thấy nó luôn giữ vị trí quan
trọng trong việc ổn định cuộc sống ở nông thôn Việt Nam, là công cụ đắc lực
để Nhà nước điều chỉnh và quản lý làng xã. Khi nghiên cứu về "Nguồn gốc và
điều kiện xuất hiện hương ước trong làng xã vùng đồng bằng trung du Bắc
Bộ”, tác giả Vũ Duy Mền đã đưa ra nhận định: “Dù không phải là một bộ luật
hoàn chỉnh, hương ước, với những điều qui định về một số nét sinh hoạt riêng
của làng xã vẫn đóng một vai trò "cương lĩnh”, có thể còn khá chung chung,
nhưng dù sao cũng đáng xem là một nếp sống hàng ngày của làng xã mà mọi
cá nhân, mọi tổ chức, trong làng, trong xã phải tuân thủ”. “Hương ước giữ vị
trí quan trọng, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội, dung hòa giữa tục lệ của làng
xã và luật pháp của nhà nước”, là khẳng định của nhà sử học Đinh Khắc Thuần,
Viện Hán-Nôm, Viện TT KHXH Việt Nam (nay là Viện Hàn Lâm khoa học xã
hội Việt Nam) trong tọa đàm: “Một số vấn đề về hương ước làng xã người Việt”
tổ chức ngày 20/06/2012 tại Trung tâm văn hóa Pháp, Hà Nội.
Tồn tại song song với luật pháp, hương ước từng là công cụ và phương
thức quản lý trong xã hội truyền thống của người Việt. Ngày nay, hương ước
còn giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của làng xã Việt Nam. Trong
giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng nông thôn mới đang được Đảng và Nhà
nước đẩy mạnh thực hiện ở nhiều địa phương, hương ước đã cho thấy phần nào
quá trình lịch sử phát triển của làng xã. Trên cơ sở nắm vững quá trình phát triển
của làng xã, nghiên cứu đặc điểm cụ thể trong quá khứ mới có thể đưa ra được
chiến lược phát triển phù hợp đối với địa phương.
Hương ước tồn tại cùng luật pháp, giữ vai trò là công cụ để điều chỉnh
các mối quan hệ trong cộng đồng và quản lý làng xã. Trong làng xã Việt Nam
xưa, người nông dân tập hợp lại với nhau bằng nhiều hình thức tổ chức: xóm
ngõ, dòng họ, phe giáp, phường hội và theo các thiết chế của bộ máy chính trị
1
- xã hội ở địa phương. Mỗi thiết chế hoặc tổ chức ấy có quy định riêng, độc
lập, tách biệt với nhau. Hương ước đóng vai trò quan trọng trong việc điều
hoà các thiết chế, là sợi dây ràng buộc hữu cơ mọi thành viên, tổ chức.
Hương ước là phương tiện để chuyển tải pháp luật và tư tưởng tôn giáo
vào làng xã , hỗ trợ và bổ sung cho pháp luật khi xử lí những việc cụ thể nảy
sinh trong làng xã. Nó phản ánh văn hoá làng, tự đưa cuộc sống của mọi người
dân trong làng vào khuôn phép, gắn bó họ thành một cộng đồng chặt chẽ dựa
trên trách nhiệm và quyền lợi chung của làng. Nhà nước can thiệp, quản lý,
điều hoà lợi ích giữa làng xã với nhà nước thông qua hương ước.
Việc thực hiện hương ước đã làm phong phú đời sống văn hoá làng xã,
giữ gìn được các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Điều quan trọng
là hương ước vẫn giữ vai trò to lớn trong việc ổn định cuộc sống chốn hương
thôn. Có thể nói, từ chỗ là quy ước về lối sống, hương ước đóng vai trò là
“Cương lĩnh tinh thần” điều chỉnh các hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân
trong làng xã. Trong suốt chiều dài lịch sử xã hội phong kiến, hương ước luôn
giữ vị trí quan trọng trong việc ổn định cuộc sống của dân làng, là công cụ
đắc lực để Nhà nước điều chỉnh và quản lý làng xã.
Đối với hương ước cải lương, trước đây có nhiều cách nhìn phiến diện
vì đó là thời gian nhà nước thực dân phong kiến trực tiếp quản lý hương ước
của các làng xã, soạn thảo “Hương ước mẫu”, buộc các làng lấy đó làm căn
cứ để soạn thảo hương ước cho từng làng (nhất là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ)
với mục đích dùng hương ước để nắm quyền quản lý theo hướng có lợi cho
chính quyền thực dân. Tuy nhiên, khi tìm hiểu cụ thể, chúng ta thấy hương
ước cải lương mang lại nhiều yếu tố tích cực với nội dung là những điều răn
dạy về nếp ăn, nếp ở, về bảo vệ tính mệnh cũng như tài sản chung của làng
xã. Không những thế, hương ước còn là nguồn tư liệu phong phú để thế hệ
sau có thể nghiên cứu, tìm hiểu làng xã người Việt trước Cách mạng tháng
8/1945. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định hương ước là nguồn tư liệu cực kỳ
phong phú để nghiên cứu về sử học, dân tộc học và luật học.
2
Hiện nay, hương ước cải lương của huyện Thanh Liêm còn lại rất
nhiều, chủ yếu lưu giữ ở Thư viện của Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt
Nam - là những văn bản gốc viết tay. Thư viện tỉnh chỉ lưu giữ một số bản
hương ước xây dựng làng văn hoá mới. Hơn nữa, việc soạn thảo hương ước
và kế hoạch xây dựng làng văn hóa đang được đẩy mạnh, trở thành vấn đề
trọng tâm hiện nay của huyện Thanh Liêm.
Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Hương ước cải
lương huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam (1921 – 1942)” làm luận văn Thạc
sĩ, mong muốn làm phong phú hơn kho tư liệu lịch sử của tỉnh nhà cũng như
gìn giữ những giá trị tốt đẹp của người xưa.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giá trị thực tiễn và lý luận của hương ước cổ, hương ước cải lương đã
được minh chứng bằng các công trình nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các công trình nghiên cứu hương ước đã được tập hợp thành sách hoặc in rải
rác trên các báo, tạp chí nghiên cứu (Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Nhà
nước và Pháp luật). Hương ước còn được tìm hiểu ở nhiều góc độ: Các công
trình sưu tầm, giới thiệu và dịch hương ước như: “Hương ước Hà Tĩnh” (Sở
VHTT Hà Tĩnh, 1996); Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu
“Luật tục Ê-đê” (Nxb CTQG HN, 1996); “Hương ước Thái Bình” (Nxb
VHDT HN, 2000) do Nguyễn Thanh biên soạn; Ninh Viết Giao chủ biên
cuốn “Hương ước Nghệ An” (Nxb CTQG HN, 1998).
Các công trình nghiên cứu chuyên sâu của tác giả Bùi Xuân Đính như
“Lệ làng phép nước” (Nxb Pháp lý HN, 1985), “Hương ước và quản lý làng
xã” (Nxb KHXH, 1998); tác giả Lê Đức Tiết “Về hương ước lệ làng” (Nxb
CTQG HN, 1998). Một số học giả đã đặt hương ước làng Việt trong mối quan
hệ tương đồng và dị biệt với “hương qui” của Trung Quốc, “luật làng của Nhật
Bản” với cuốn “Hương ước làng xã Bắc Bộ Việt Nam với luật làng Kanto Nhật
Bản (thế kỷ XVII - XIX)”, (Viện Sử học, 2001) của tác giả Vũ Duy Mền (chủ
3
biên), hay “Hương ước và quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam
hiện nay” (Nxb CTQG HN, 2003) của tác giả Đào Trí Úc (chủ biên).
Một số bài đăng trên các báo, tạp chí: Tác giả Vũ Duy Mền có nhiều
bài in trên tạp chí NCLS, các số 4/1982, số 3 + 4/1989, số 1/1993 đã xác định
thuật ngữ “khoán ước”, “hương ước”, giới thiệu nội dung của nó, trình bày
nguồn gốc và điều kiện xuất hiện hương ước trong làng xã vùng đồng bằng và
trung du Bắc Bộ. Tạp chí NCLS số 3/1998 cũng có bài viết của Cao Văn Biền
với cách nhìn khá đầy đủ về hương ước cải lương ở Bắc Kì.
Tác giả Bùi Xuân Đính với công trình nghiên cứu: “Về một số hương
ước làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” (Luận án PTS. KHLS, Hà Nội, 1996) đã
làm rõ về vai trò, chỉ ra những tác động của hương ước trong việc quản lý
làng xã nói chung và làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Tác giả Nguyễn
Huy Tính với đề tài: “Hương ước mới - một phương tiện góp phần quản lý xã
hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh)” đã phân tích
sự biến đổi từ hương ước làng xã cổ truyền đến hương ước mới và đi đến
khẳng định hương ước mới là phương tiện tự quản, tự điều chỉnh hữu hiệu của
làng xã, có quan hệ biện chứng với pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu
lên những giải pháp cụ thể trong việc hoàn thiện và thực hiện hương ước mới.
Một số luận văn Thạc sĩ: của Hoàng Hoa Vinh với “Vai trò của hương
ước làng Nhất trong việc xây dựng làng văn hoá tỉnh Hà Nam” (ĐHVH HN,
2000); “Hương ước với việc xây dựng làng văn hoá ở huyện Quỳnh Phụ -
Thái Bình” (ĐHVH HN, 2004) của Dương Xuân Thoạn. “Bước đầu tìm hiểu
công cuộc bảo vệ tài nguyên môi trường của ông cha ta (qua nguồn tư liệu
hương ước người Việt trước cách mạng tháng Tám - năm 1945)” - khóa luận
tốt nghiệp của sinh viên Đào Thu Vân, khoa Lịch sử - ĐHSP HN. Đến năm
2005, SV Nguyễn Lan Dung, khoa Lịch sử - ĐHKHXH&NV HN đã tìm hiểu
“Sinh hoạt làng xã huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông trong cuộc cải lương
4
hương chính giai đoạn 1915 - 1945 (qua hương ước)”. Năm 2008 học viên Lê
Thị Luyến đã chọn đề tài “Hương ước cải lương huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh
Phúc (1922 – 1942)” (ĐHSP HN, 2008). Năm 2009, học viên Nguyễn Lan
Hương đã bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ Lịch sử với đề tài “Hương ước
cải lương huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang (1923 – 1942)”.
Ngoài ra, hương ước còn là nguồn tư liệu phong phú khi các tác giả
nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và quản lý làng xã như: Cuốn “Xã thôn Việt
Nam” (Nxb Văn - sử - địa, 1959) của Nguyễn Hồng Phong; tác giả Trần
Từ với cuốn “Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ” (Nxb KHXH
HN, 1984); các tác giả Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc với “Kinh
nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” (Nxb CTQG
HN, 1994); “Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội”
(Nxb CTQG HN, 2000) của tác giả Phan Đại Doãn.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trực tiếp về hương ước còn có
nhiều bài giới thiệu về mối quan hệ giữa hương ước với phong tục làng xã
như: Ngô Tất Tố với phóng sự “Việc làng” (Nxb Mai Lĩnh HN, 1937) và
“Tập án cái đình” (Nxb Văn học HN, tái bản năm 1997). Chúng tôi đã được
thừa hưởng nhiều công trình nghiên cứu của các thế hệ trước về hương ước
nói chung và hương ước cải lương nói riêng đồng thời hiểu thêm về làng xã
cổ truyền đồng bằng Bắc Bộ. Chúng tôi cho rằng, đến nay chưa có một công
trình nào viết riêng về hương ước cải lương của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà
Nam nên có mong muốn được góp phần tìm hiểu về vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu trên đây là nguồn tài liệu quan trọng, phong
phú, giúp chúng tôi kế thừa hoàn thành luận văn Thạc sĩ của mình.
3. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ của đề tài
- Trước hết, sưu tầm, tập hợp các bản hương ước cải lương huyện Thanh
Liêm – tỉnh Hà Nam từ năm 1921 đến 1942 làm tài liệu nghiên cứu đề tài
5
- Sau đó, nêu được thực trạng của các bản hương ước cải lương và
bước đầu nghiên cứu làm rõ giá trị lịch sử, văn hoá của nó trong bức tranh
sinh hoạt làng quê ở Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam nói riêng và Việt Nam trước
Cách mạng tháng 8/1945 nói chung.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các bản hương ước cải lương huyện Thanh
Liêm, tỉnh Hà Nam và tham khảo thêm một số bản hương ước về việc xây
dựng làng văn hóa mới trong giai đoạn hiện nay. Tìm hiểu thêm về hương ước
cải lương và hương ước mới của một số huyện khác trong và ngoài tỉnh Hà
Nam.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Về thời gian: từ năm 1921 đến năm 1942.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu tin cậy nhất là các văn bản gốc hương ước cải lương của
huyện Thanh Liêm từ 1921 đến 1942, lưu trữ tại Thư viện của Viện
TTKHXH (nay là Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam). Ngoài ra, còn
có nguồn tư liệu chúng tôi thu thập được trong quá trình đi tìm hiểu thực địa
tại địa phương. Chúng tôi còn tham khảo các công trình nghiên cứu trước đó
như các tạp chí NCLS, sách tham khảo, chuyên khảo về hương ước, về làng
Việt cổ truyền…
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Ngoài hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương
pháp lôgic, luận văn được hoàn thiện hơn với các phương pháp so sánh, thống
kê, tổng hợp, phương pháp liên ngành.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn sau khi hoàn thành sẽ có một số đóng góp sau:
- Nghiên cứu có hệ thống về hương ước cải lương ở huyện Thanh
Liêm, tỉnh Hà Nam góp phần phác họa rõ hơn về bức tranh sinh hoạt chốn
6
thôn quê đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời giúp mọi người có cách nhìn đúng đắn
hơn về hương ước cải lương từ những yếu tố tích cực mà nó mang lại.
- Làm sáng rõ giá trị của hương ước cải lương với tư cách là một di sản
văn hóa của địa phương.
- Là nguồn tài liệu tham khảo cho những người soạn thảo về hương ước
mới trong thời gian hiện nay cũng như việc biên soạn lịch sử và địa chí của
địa phương.
- Ngoài ra, đây còn là nguồn tài liệu tham khảo đối với giáo viên lịch
sử khi dạy các bài về lịch sử địa phương.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Sơ lược về huyện Thanh Liêm và tình hình quản lý làng xã
ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam trước khi Pháp xâm lược.
Chương 2: Công cuộc cải lương hương chính của thực dân Pháp ở Bắc
Kỳ và sự ra đời các văn bản hương ước cải lương vùng nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ.
Chương 3: Thực dân Pháp tiếp tục tiến hành cải lương hương chính và
sự ra đời các bản hương ước mới của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
7
Chương 1: SƠ LƯỢC VỀ HUYỆN THANH LIÊM VÀ TÌNH HÌNH
QUẢN LÝ LÀNG XÃ Ở HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
TRƯỚC KHI PHÁP XÂM
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Thanh Liêm là một huyện đồng bằng chiêm trũng, bán sơn địa, nằm ở
phía Tây Nam tỉnh Hà Nam, trên tọa độ địa lý 20
0
27' độ vĩ Bắc; 105
0
75' độ
kinh Đông. Phía Tây Bắc và Bắc giáp huyện Kim Bảng, thành phố Phủ Lý và
huyện Duy Tiên; phía Đông giáp huyện Bình Lục; phía Nam giáp huyện Ý
Yên (tỉnh Nam Định) và huyện Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình), phía Tây giáp
huyện Lạc Thủy (tỉnh Hòa Bình).
Toàn huyện hiện có một thị trấn và 19 xã. Năm 2003, diện tích tự nhiên
của huyện khoảng 175km
2
, dân số khoảng 135.686 người. Thanh Liêm đứng
vị trí thứ 2 trong tỉnh về diện tích và dân số, có nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế.
Vị trí địa lý và diện tích đất đai khá rộng, là cửa ngõ phía Nam của thủ
đô Hà Nội, nằm trọn trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ… đã tạo lợi thế
cho Thanh Liêm trong giao lưu kinh tế, văn hóa, du lịch và đẩy mạnh các hoạt
động trao đổi hàng hóa, thương mại, dịch vụ với thành phố Phủ Lý và các
huyện trong tỉnh cũng như với các vùng lân cận. Thanh Liêm được coi là có
vị trí chiến lược về chính trị, an ninh, quốc phòng cũng như trong xây dựng,
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Về địa hình: Huyện Thanh Liêm có địa hình đa dạng bởi những cuộc
vận động kiến tạo địa chất phức tạp cách đây hàng chục triệu năm, với sự
tương phản giữa địa hình đồng bằng và đồi núi. Đất đai ở đây được chia thành
hai vùng rõ rệt:
8
+ Phía Đông là miền đồng bằng ô trũng (do phù sa sông Đáy và sông
Châu bồi đắp) chiếm phần lớn diện tích của huyện.
+ Phía Tây huyện là dãy núi đá vôi, như bức tường thành làm ranh giới
giữa Thanh Liêm và huyện Lạc Thủy (tỉnh Hòa Bình).
Sông Đáy chạy dọc huyện từ Bắc xuống Nam, ở đoạn thuộc xã Thanh
Hải giáp tỉnh Ninh Bình, dòng sông kẹp chặt giữa núi đá vôi hẹp tạo ra cảnh
quan khá đẹp, có tên gọi là Kẽm Trống, đã đi vào thơ ca như: Hồ Xuân
Hương (Quỳnh Lưu – Nghệ An) thế kỷ XVIII đã có thơ vịnh:
“Hai bên thì núi giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng”.
Bên cạnh đó, với đặc thù là một huyện đồng bằng chiêm trũng, Thanh
Liêm có nhiều ao, hồ, đầm và các thùng đấu lớn, là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống thủy văn, lưu trữ khối lượng nước khá lớn đáp ứng nhu cầu trong
đời sống và sản xuất. Đây cũng là yếu tố thuận lợi để Thanh Liêm phát triển
ngành thủy sản và một số ngành nghề khác trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Về đất đai: Phần lớn diện tích của huyện Thanh Liêm nằm trong tiểu
vùng sông Đáy, diện tích lúa chiếm tới 80 – 90% tổng diện tích canh tác. Do
đặc trưng là vùng đồng bằng chiêm trũng, nhiều nơi có địa hình lòng chảo, ít
được phù sa bồi đắp nên trước đây khu vực này thường xuyên bị ngập úng,
đất chua, mỗi năm chỉ canh tác được một vụ.
9
Địa hình đồi núi hình thành do quá trình phong hóa trên các loại đá, có
đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất đỏ vàng trên đá phiến sét, đất đỏ nâu trên đá
vôi, thành phần NP có tỉ lệ mùn thấp, độ chua cao, khác biệt theo độ cao và
độ dốc. Một số xã thuộc khu vực tả ngạn sông Đáy có nhiều vùng đất phù sa
màu mỡ, có cốt đất cao và tương đối bằng phẳng, thích hợp cho việc trồng các
loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và các loại hoa màu.
Đất lâm nghiệp của Thanh Liêm chiếm khoảng 213 ha, bằng 1/3 diện
tích của huyện và bằng 53% đất rừng núi toàn tỉnh, nằm trong 8 xã miền núi.
Về khí hậu, thủy văn: Thanh Liêm nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa,
nắng và mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 23
0
C, độ ẩm tương đối là 88%. Tổng
số giờ nắng trung bình trong năm khoảng 1.000 – 1.200 giờ.
Lượng mưa nhiều nhưng phân bố không đều, tập trung tới 70% vào
mùa hạ; mùa đông khô lạnh, giá rét kéo dài, lượng mưa ít. Về mùa mưa,
Thanh Liêm thường xuyên bị lũ lụt, lũ sông Đáy nhiều năm dâng cao làm sạt
lở, vỡ đê, gây ngập úng trên diện rộng. Để hạn chế sự phá hoại của thiên
nhiên, huyện Thanh Liêm đã quy hoạch vùng phân lũ ở bên hữu ngạn sông,
giáp dãy núi đá vôi.
Những đặc điểm về khí hậu, thủy văn nói trên cũng chỉ mang tính chất
tương đối vì sự bất ổn qua các năm, sự giao động qua các mùa. Nguyên nhân
chủ yếu là do các nhiễu động bên trong của chế độ gió mùa thường xuyên
diễn ra ở khu vực Bắc Bộ khiến cho mùa đông ở đây vẫn có nắng xen lẫn
những ngày nồm ẩm, mùa hè có ngày rất oi nóng nhưng lại có nhiều ngày thời
tiết dịu mát.
Nhìn chung, các yếu tố về nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm không khí, sự
bốc hơi nước, ánh sáng đều thích hợp với đời sống và sản xuất nông nghiệp
của nhân dân trong huyện.
10
Về tài nguyên khoáng sản và du lịch: Tài nguyên khoáng sản của
huyện vào loại phong phú, có mỏ đá vôi ở Kiện Khê (trữ lượng 2,2 triệu tấn),
đá vôi Đồng Ao (12,4 triệu tấn), đá vôi Thanh Tân (5,3 triệu tấn) để sản xuất
xi măng, vôi, đá xây dựng, rải đường, làm hóa chất. Mỏ sét làm gạch ngói, sét
làm xi măng ở các xã Thanh Tân, Thanh Tâm, Liêm Sơn và Đồng Ao (xã
Thanh Thủy). Thanh Liêm còn có các loại đá quý hiếm như đá vân hồng tím
nhạt, đá vân mây, đá da báo… xẻ làm vật liệu ốp lát các công trình xây dựng.
Với nguồn khoáng sản phong phú, trữ lượng lớn, nhiều cơ sở công nghiệp
quan trọng của Trung ương và của địa phương đã và đang được xây dựng tại
Thanh Liêm.
Địa hình đồi núi tạo ra nhiều cảnh quan đẹp như: núi Hàm Rồng,
Thung Ngàn, hang Gióng Lở (xã Thanh Nghị), núi Chiềng, núi Son, núi Vẻ
Vang (xã Thanh Tân), núi Thờ, núi Bùi (thị trấn Kiện Khê)…. Đặc biệt, đoạn
sông Đáy thuộc xã Thanh Hải (giáp tỉnh Ninh Bình) được kẹp chặt giữa
núi đá vôi tạo thành dòng chảy hẹp nhưng rất sâu, có tên gọi là Kẽm
Trống – thắng cảnh du lịch nổi tiếng được nhân dân trong và ngoài tỉnh
biết đến và thường xuyên lui tới tham quan. Những yếu tố tự nhiên được
kết hợp với văn hóa và lợi thế về hạ tầng cơ sở, trình độ dân trí sẽ tạo nên
một thế mạnh trong phát triển du lịch của Thanh Liêm nói riêng và của Hà
Nam nói chung.
Về giao thông thủy bộ: Thanh Liêm có điều kiện thuận lợi cả về
đường bộ, đường thủy và đường sắt. Trên địa bàn huyện có hai trục đường
quốc lộ huyết mạch chạy qua: Quốc lộ 1A dài 16,5km chạy dọc giữa huyện từ
Bắc xuống Nam như sợi chỉ đỏ nối các xã trong huyện thành một hệ thống
liên hoàn trong phát triển kinh tế - xã hội, nối liền Thanh Liêm với thành phố
Phủ Lý và các huyện trong tỉnh, đồng thời tạo cho Thanh Liêm trở thành vị trí
trung chuyển trên tuyến đường trục Bắc – Nam của đất nước; Quốc lộ 21
11
chạy song song với đường sắt Bắc – Nam, chéo ngang phía Đông Bắc của
huyện nối liền thành phố Phủ Lý với tỉnh Nam Định, tạo điều kiện thuận lợi
trong vận chuyển, trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh phía Nam đồng bằng sông
Hồng.
Huyện còn có hệ thống sông ngòi khá dày đặc tạo điều kiện thuận lợi
cho giao thông đường thủy sớm phát triển. Từ sông Đáy có thể theo sông
Châu ra sông Hồng để lên Hà Nội và đi các tỉnh lân cận.
1.2. Dân cư và truyền thống văn hóa
Trong suốt thời kỳ dài quần tụ dân cư hình thành các làng xã ở Thanh
Liêm, cho đến ngày nay, người Việt (người Kinh) chiếm tỉ lệ gần như tuyệt
đối. Mọi người dân trên địa bàn huyện đã và đang cùng chung sống hòa hợp
trong các xóm làng được lập nên từ lâu đời. Sách “Hoàng Việt Thống Dư Địa
Chí” có chép về huyện Thanh Liêm và tỉnh Hà Nam (trước kia nằm trong phủ
Lý Nhân) như sau: “Phong tục: học trò dốc sức học hành, dân chăm lo cày
cấy, phong tục chuộng sự xa xỉ, cúng tế ma chay thì làm rất to lớn. Thổ sản:
lụa trơn, lụa mỏng, lụa màu, nhãn, vải, vỏ gai, đường cát, cá giếc, cá rô, dây
đánh bằng tơ, nón lá” [11, 446]. Với ngành kinh tế chủ đạo là nông nghiệp
trồng lúa nước, trong quá trình khai thác vùng đồng bằng châu thổ để lập
làng, các thế hệ cư dân Thanh Liêm đã hình thành phương thức thâm canh ở
vùng đồng bằng. Ngoài cây lúa, các loại cây lương thực khác, cây ăn quả, cây
công nghiệp ngắn ngày cũng được đưa vào trồng rộng khắp. Chăn nuôi gia
súc, gia cầm và đánh bắt thủy sản là nghề phụ nhưng là hoạt động kinh tế có
từ lâu đời của người dân nơi đây.
Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở
huyện Thanh Liêm phát triển từ rất sớm, với nhiều loại hình đa dạng. Nhiều
làng nghề và sản phẩm thủ công nghiệp của huyện nổi tiếng như nghề thêu
ren ở các thôn An Hòa, Hòa Ngãi (Thanh Hà), nghề làm nón ở các thôn
12
Khoái, Quán (Liêm Sơn) và Phố Bói, Bói Hạ (Thanh Phong); nghề làm bún ở
Kim Lũ (Thanh Nguyên); nghề đan thuyền ở thôn Hạ Trang (xã Liêm Phong),
… Có những ngành nghề đã nổi tiếng cả nước như nghề nghiền đá, chạm đá,
nung vôi (Sở Kiện). Hiện nay, nhiều làng nghề truyền thống ở Thanh Liêm
vẫn được duy trì và mở rộng.
Bên cạnh đó, có nhiều ngành nghề mới hình thành và phát triển năng
động ở các làng xã. Các sản phẩm thủ công nghiệp ở Thanh Liêm ngày càng
đa dạng, phong phú, có mặt ở nhiều thị trường trong và ngoài nước. Nghề
thêu ren ở Thanh Hà là một điển hình. Xã Thanh Hà gồm 7 thôn nằm cạnh
quốc lộ 1A, trong đó tập trung chủ yếu ở hai thôn An Hòa và Hòa Ngãi. Nghề
thêu ren Thanh Hà tương truyền đã có vài trăm năm, trước đây còn ở quy mô
nhỏ với những sản phẩm đơn giản, việc truyền nghề thường kiêng kị đối với
người ngoại tộc. Sau khi miền Bắc được giải phóng, làng nghề được mở rộng
về quy mô và được truyền dạy rộng rãi, sản xuất không ngừng phát triển, sản
phẩm đa dạng, tinh xảo, đã xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Nghề thủ
công ở Thanh Liêm có từ lâu đời, được truyền dạy từ đời này sang đời khác
và ngày càng được phát huy. Học nghề và học chữ là hai nghiệp luôn đòi hỏi
phải có những bậc thầy giỏi giang, mẫu mực, đồng thời cũng đòi hỏi phải có
những lớp học trò thông minh, chăm chỉ và nhất là bền chí khổ luyện. Cả hai
yếu tố đó đều hội tụ trong người dân Thanh Liêm.
Nghề buôn bán ở Thanh Liêm khá thịnh đạt. Là địa bàn trung chuyển
quan trọng giữa các huyện trong tỉnh và giữa tỉnh Hà Nam với các địa phương
khác, lại có hệ thống giao thông thủy bộ thuận lợi nên hoạt động thương nghiệp
ở đây phát triển từ rất sớm. Trong thời kì phong kiến, các hoạt động thương
nghiệp chủ yếu diễn ra dưới hình thức mua bán, trao đổi ở phạm vi hẹp, ít có
điều kiện mở rộng. Hiện nay, trên địa bàn huyện có 22 chợ, đáp ứng nhu cầu
trao đổi hàng hóa ngày càng gia tăng và đời sống sinh hoạt của nhân dân.
13
Thanh Liêm có truyền thống hiếu học và khoa cử từ nhiều đời nay.
Trong suy nghĩ, ý thức và quan niệm của người dân Thanh Liêm, “kẻ sĩ” rất
được coi trọng. Điều này được thể hiện trong bản hương ước của các làng,
trong gia phả, gia phong của các dòng tộc. Lâu dần, trải từ đời này đến đời
khác, việc học hành đã trở thành nếp nhà, thành gia phong và hình thành
truyền thống hiếu học của con em trong huyện.
Là vùng đất khoa cử, Thanh Liêm đã sản sinh ra nhiều nhà nho học
rộng, tài cao, giúp vua trị nước. Tiêu biểu cho truyền thống hiếu học và đỗ đạt
của huyện là tấm gương Dương Bang Bản (người làng An Cừ - nay là
thôn Chảy, xã Liêm Thuận). Năm 33 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ
(Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) dưới
triều vua Lê Thánh Tông. Suốt chặng đường 30 năm làm quan, ông đã
đem tài đức phục vụ đất nước trên nhiều lĩnh vực: sử học, ngoại giao,
kinh tế, giáo dục… Do hết lòng đem tài đức phụng sự triều đình nên ông
được nhà vua ban Quốc tính, đặt tên là Tung.
Ngoài ra, đời sống văn hóa tinh thần của người dân Thanh Liêm rất
phong phú. Những lễ hội được tổ chức xen kẽ quanh năm ở hầu khắp các
thôn, xã trong huyện. Lễ hội nào cũng tổ chức rước kiệu và có những trò vui,
trò diễn, các cuộc thi sôi động, hấp dẫn như: hát trống quân ở hội đình làng
Gừa, làng Sông, làng Chảy (Liêm Thuận); hội đua thuyền bơi chải mùa xuân
(Thanh Thủy); hát chèo (Liêm Sơn, Kiện Khê)…. Đặc biệt, hình thức hát
trống quân trên thuyền là một nét văn hóa độc đáo, một “đặc sản tinh thần”
của vùng văn hóa Liễu Đôi. Văn hóa Liễu Đôi (Liêm Túc) được coi là biểu
tượng, là niềm tự hào của người dân Thanh Liêm mà nội dung chủ yếu của nó
là tinh thần thượng võ và yêu nước.
Tinh thần thượng võ, chí khí anh hùng trong chống giặc ngoại xâm của
người dân Thanh Liêm còn in sâu trong những câu chuyện cổ, truyện ngụ
ngôn, qua những bài ca dao, dân ca, hò, vè được nhân dân truyền tụng. Tình
yêu – lòng yêu nước – chí khí anh hùng đã quyện chặt, hài hòa và thống nhất
14
trong tâm hồn, suy nghĩ và hành động của người dân Thanh Liêm, làm nên vẻ
đẹp nhân văn cao cả.
Do có vị trí chiến lược về chính trị, quân sự, quốc phòng, an ninh mà
trong lịch sử Thanh Liêm luôn là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.
Trong bất kì giai đoạn lịch sử nào của dân tộc, khi họa xâm lăng đe dọa đất
nước, quê hương, nhân dân Thanh Liêm đều nhiệt tình và hăng hái tham gia
hoặc tự mình tổ chức đấu tranh. Chẳng hạn, ngay từ thời Hai Bà Trưng, ở
làng Thạch Tổ (xã Thanh Hà) có bà Cao Thị Liên đã cùng với người em họ là
Hoàng Nghệ xây dựng căn cứ địa tại Thạch Tổ, tập hợp nhân dân chống giặc
Đông Hán giành được thắng lợi lớn. Còn có vị anh hùng Lê Hoàn nổi tiếng
phá Tống, bình Chiêm cuối thế kỷ X vốn quê ở Liêm Cần. Trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ nhất (năm 1258) có
danh tướng Trần Bình Trọng (tương tuyền quê ở Liêm Cần), lúc sinh thời
ông đã lập nên nhiều chiến công hiển hách. Khi bị giặc bắt và chúng định
mua chuộc nhưng ông đã khẳng khái mà nói: “Ta thà làm quỷ nước Nam
chứ không thèm làm vương đất Bắc”.
Thời nhà Hồ, đất Thanh Liêm được chọn làm nơi luyện tập binh mã,
xây dựng phòng tuyến chống giặc phương Bắc. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, những người con ưu tú của Thanh Liêm đã nô
nức gia nhập nghĩa quân, chiến đấu giải phóng dân tộc. Đến thời kỳ đầu
chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Thanh Liêm đã tham gia vào nhiều
cuộc khởi nghĩa lớn, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Đinh Công
Tráng lãnh đạo.
Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm được coi là nét nổi bật
trong truyền thống lịch sử văn hóa của người dân Thanh Liêm. Nó đã in sâu
trong tâm thức và trong tính cách của người dân nơi đây. Vì vậy, trải qua bao
thế kỷ đấu tranh để tồn tại và phát triển với truyền thống đoàn kết, tương thân
15
tương ái, tự lực tự cường, dũng cảm bất khuất trước mọi thử thách của thiên
nhiên và sự tàn bạo của chiến tranh, nhân dân Thanh Liêm đã cùng nhân dân
cả nước viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt quá trình dựng nước và
giữ nước. Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
truyền thống quý báu ấy vẫn tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trở thành điểm
tựa tinh thần cho người dân Thanh Liêm phấn đấu vươn lên trong xây dựng
và sản xuất.
1.3. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội
Địa danh Thanh Liêm có từ thời Trần. Thời nhà Nguyễn trong giai
đoạn (1831 – 1890), huyện Thanh Liêm nằm trong phủ Lý Nhân thuộc tỉnh
Hà Nội. Tỉnh Hà Nam được thành lập năm 1890, khi đó huyện Thanh Liêm
nằm trọn trong tỉnh Hà Nam. Những năm 20 của thế kỷ XX, huyện Thanh
Liêm có 8 tổng và 66 xã. Đến năm 1928, Thanh Liêm chia tách thành 9 tổng
và 69 xã.
Về chính trị: Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Thanh
Liêm nằm dưới sự cai trị của chính quyền thực dân phong kiến. Do đó, để tập
trung quyền lực vào tay giai cấp thống trị, thực dân Pháp ra sức củng cố bộ
máy hành chính từ huyện đến xã. Đứng đầu là tri huyện kiêm trách mọi việc
hành chính, tư pháp trong huyện. Cấp tổng có chánh tổng, phó tổng đứng đầu
và là cấp trung gian giữa huyện với xã. Bộ máy chính quyền ở cấp xã dưới
thời thực dân phong kiến gồm hai bộ phận: Hội đồng kỳ mục (gồm Tiên chỉ,
Thứ chỉ và các kỳ mục nắm quyền phán quyết mọi việc trong làng xã) và
chức dịch hay lý dịch (gồm Lý trưởng, Phó lý và các dịch mục có nhiệm vụ
thực hiện quyết định và ứng xử với chính quyền cấp trên. Bên cạnh bộ
máy cai trị, chính quyền thực dân còn xây dựng hệ thống đồn bốt (mỗi
đồn từ 15 đến 25 lính), nhà giam, cùng đội quân tay sai gồm lính cơ, lính
dõng, lính lệ (ở huyện) và trương tuần, tuần đinh (ở xã) thẳng tay đàn áp,
khủng bố những hành động phản kháng, yêu nước của nhân dân.
16
Về xã hội: Chính quyền thực dân phong kiến triệt để thực thi chính
sách “ngu dân”. Chúng chỉ mở một số trường học để đào tạo đội ngũ quan lại
và những người giúp việc. Do đó, “đến cuối năm 1930, toàn huyện mới chỉ có
một trường kiêm bị dạy hết lớp 4 (tại Trà Châu). Đến năm 1940, một số xã
mở trường hương sư (dạy hết lớp 3). Nhưng học sinh ở các trường này
thường là con em địa chủ, cường hào, quan lại… còn nhân dân lao động hầu
hết là không được đi học” [9, 35].
Các vấn đề phúc lợi xã hội không được quan tâm. Cả huyện không có
một cơ sở y tế nào. Dịch bệnh thường xuyên xảy ra đe dọa tính mạng và làm
cho cuộc sống của người nông dân ngày càng khốn khó bởi bệnh tật, đói
nghèo. Thực dân phong kiến còn đầu độc nhân dân bằng rượu cồn, thuốc
phiện, nạn cờ bạc ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, bọn thống trị còn dung túng
cho những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan phát triển dẫn đến tình trạng mất ổn
định trong các xóm làng vốn rất yên bình trước kia.
Tất cả những thủ đoạn trên đều nhằm mục đích đầu độc tinh thần và
hủy hoại thể chất của nhân dân, nô dịch, ru ngủ nhân dân. Nhìn chung
trong các vấn đề về xã hội, chính quyền bảo hộ xây dựng thì ít, chủ yếu là
vơ vét, bóc lột và đàn áp nhân dân.
Về kinh tế: Kinh tế của huyện Thanh Liêm trong thời kỳ thuộc địa
phát triển rất chậm, mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Đất trồng trọt phần
lớn là đồng chiêm trũng, úng hạn thường xuyên. Dưới thời thực dân phong
kiến, hàng năm đồng ruộng ngập lụt, hạn hán, nạn vỡ đê, mất mùa thường
xuyên xảy ra. Do cách thức canh tác lạc hậu và đặc biệt là sự bóc lột của
thực dân phong kiến nên sản xuất nông nghiệp của Thanh Liêm luôn trong
tình trạng phân tán, độc canh, trì trệ, bấp bênh, khiến đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn.
Cùng với việc tước đoạt ruộng đất để xây dựng đường sá, thực dân
Pháp còn dùng mọi thủ đoạn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để lập các
17
đồn điền. “Ngay từ năm 1883, anh em nhà Guyôm (Guill Aume), Bôren
(Borel) đã vào vùng Kẻ Sở (Thanh Liêm), Quyển Sơn (Kim Bảng) khai thác
đá, thăm dò lập đồn điền” [9, 34]. Bên cạnh đó, còn có hàng trăm địa chủ vừa
và nhỏ ở các làng xã chiếm hàng ngàn mẫu ruộng đẩy người nông dân vào
cảnh bần cùng hóa do họ bị tước hết tư liệu sản xuất.
Không những thế, người nông dân Thanh Liêm còn bị bóc lột tàn bạo
bởi chính sách sưu thuế. Cũng như nhiều nơi khác, cứ đến kỳ khảo thuế lại
diễn ra bao cảnh đau lòng. Tỉnh chỉ đưa lệnh bài về huyện, huyện giao cho Lý
trưởng, Lý trưởng cho họp để bổ thuế. Ai không nộp sẽ bị Chánh Phó lý bắt
ra đình tra tấn kiểu ngũ trảo (kẹp 5 ngón tay). Từ khi phát xít Nhật vào
xâm lược nước ta, nhân dân phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” nên người
nông dân càng bị bóc lột nặng nề hơn: bị bắt đi phu, đi lính, phải nhổ lúa
và hoa màu để trồng đay, bán thóc gạo với giá rẻ mạt cho chúng. “Đến
năm 1943, mức thu thóc tạ của Nhật tăng lên 7 lần so với năm 1942; năm
1944 tăng 10 lần nhưng giá lúc này chỉ bằng 1/8 so với trước”[17, 19].
Chính sách vơ vét này đã gây ra nạn đói khủng khiếp vào năm 1945 trong
đó có huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Tuy nhiên, những âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù cả về chính
trị, kinh tế, xã hội vẫn không thể làm phai nhạt tinh thần yêu nước nồng nàn
và ý chí quyết tâm đấu tranh của nhân dân Thanh Liêm.
1.4. Việc quản lý làng xã ở huyện Thanh Liêm trước khi Pháp xâm lược
Đến những năm trước khi thực dân Pháp xâm lược, làng xã Việt Nam
vẫn theo chế độ tự quản với tính tự chủ khá cao so với sự can thiệp trực tiếp
hay gián tiếp của nhà nước phong kiến. Chế độ tự quản cho phép các làng xã
tự đứng ra điều hành mọi công việc nội bộ của làng xã mình bên cạnh việc
đáp ứng những nhu cầu của Nhà nước về thuế khóa, sưu thuế hay binh dịch…
Chế độ “tự quản” trong các làng xã được thể hiện thông qua hương ước. Do
đó, hương ước giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống làng xã. Chúng
18
được coi là công cụ để tự điều hành và quản lý làng xã. Nội dung của hương
ước đều tập trung vào các mặt chính của đời sống xã hội: tổ chức quản lý, bảo
vệ an ninh làng xã, đảm bảo đời sống tâm linh trong cộng đồng và đảm bảo
các nghĩa vụ đối với Nhà nước… đi liền với các hình thức khen thưởng và xử
phạt. Có thể thấy việc quản lý làng xã đều gắn liền với những điều quy định
trong hương ước. Tác giả Nguyễn Huy Tính quan niệm: “Hương ước là phần
lệ làng đã được văn bản hóa thành “bộ luật” riêng của mỗi làng Việt, dùng
để điều chỉnh các mối quan hệ phổ biến trong phạm vi làng xã dưới chế độ
phong kiến từ nhiều thế kỷ trước đây. Hương ước là một bộ phận của văn hóa
làng; đồng thời là di sản văn hóa dân tộc có tính chất pháp lý khá độc đáo
của làng xã cổ truyền Việt Nam” [65, 9]. Hương ước là công cụ để điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội phức tạp chốn thôn quê.
Với tư cách là công cụ để quản lý làng xã, ngay từ khi ra đời hầu hết các
điều khoản của hương ước đã quy định rõ trách nhiệm và chế độ thưởng phạt
đối với người dân trong làng về các công việc của cộng đồng. “Hương ước
trực tiếp kiểm soát thái độ ứng xử của từng thành viên, không phân biệt già trẻ,
nam nữ thuộc bất cứ hình thức tổ chức và giai tầng xã hội nào, có địa vị hoặc
tài sản ra sao. Từ ăn mặc, đi lại, nói năng, thăm hỏi, họp hành cho đến những
nghĩa vụ đối với gia đình, họ mạc, làng xóm, trong các việc ma chay, cưới xin,
khao vọng, việc biện lễ, tế lễ, việc canh gác tuần phòng… đều được quy định
chặt chẽ, tỉ mỷ trong hương ước, không ai được vi phạm” [12, 84].
Đối với bộ máy tổ chức quản lý làng xã nói chung và bộ máy quản lý
làng xã huyện Thanh Liêm nói riêng, hương ước đóng vai trò quan trọng
trong đời sống làng xã. Chúng là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội trong cộng đồng, là công cụ để tự điều khiển và quản lý làng xã. Nói một
cách khác, trước đây, các làng Việt được quản lý chủ yếu bằng hương ước –
lệ làng. Hình thức quản lý làng xã bằng hương ước dựa trên các đặc điểm sau:
19
1. Thiết chế làng xã với nhiều hình thức tổ chức và mối quan hệ đan
xen chồng chéo.
2. Tục lệ dựa trên các nguyên tắc đạo đức và các quan niệm tín ngưỡng
truyền thống, được hình thành từ rất sớm cùng với quá trình ra đời và phát
triển của các làng xã, sau đó được văn bản hóa (hương ước) gồm các điều
khoản liên quan đến quyền lợi thiết thân của cộng đồng và của các thành viên.
3. Do hương ước tập trung vào các điều khoản về nếp sống, trong đó là
các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ, về khen thưởng và xử phạt, cả khuyến
cáo và răn đe, trực tiếp tác động đến quyền lợi của mỗi cá nhân nên hiệu lực
thực tế rất cao.
4. Áp dụng chế độ xử phạt trực tiếp đối với cá nhân vi phạm.
5. Thực thi hương ước kết hợp với quản lý cá nhân bằng tổ chức và sức
ép dư luận, với cả pháp luật nhà nước phong kiến, do vậy đó là kiểu quản lý
rất chặt chẽ.
6. Tác dụng rất nhanh gọn, không cần tòa án, viện kiểm sát chỉ bằng
văn bản hương ước với vài chức viên hào lý cùng sức ép dư luận là có thể
nhanh chóng xử lý xong một vụ vi phạm.
Với những đặc điểm của mình, hương ước đã giúp cho bộ máy quản lý
làng xã hoạt động một cách có hiệu quả, hài hòa và chặt chẽ. Với các điều
khoản được dân làng thông qua hương ước giúp bộ máy quản lý làng xã nắm
được các tổ chức cấu thành guồng máy làng xã, “xâu” chúng lại với nhau
thành những quy định trong một thế phân công chung, chặt chẽ. Từ chỗ là quy
ước về lối sống cho từng thành viên, hương ước đóng vai trò là “Cương lĩnh
tinh thần” điều chỉnh các hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân trong làng xã.
Ngay từ đầu, bộ máy quản lý làng xã được hình thành bằng hai cách: một là,
do được bổ nhiệm; hai là, do dân bầu ra. Trong nội dung Hương ước cổ thì
phần đầu nêu lên những quy phạm về tổ chức bộ máy quản lý làng xã, phạm
20
vi chức năng, nhiệm vụ của toàn thể bộ máy cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ,
quyền lợi của từng người trong tổ chức đó.
Theo đó, ở mỗi làng xã dưới chế độ quân chủ thường có 3 đẳng cấp
chính: “Hạng quan viên: là đẳng cấp có thế lực và quyền hành trong làng xã
được hưởng nhiều ưu đãi, được miễn các nghĩa vụ đối với Nhà nước (thuế
đinh, lao dịch), có quyền quyết định mọi việc trong làng. Hạng dân nội tịch:
là những người quê gốc tại các làng xã, có tên trong sổ hộ khẩu của làng.
Trên thực tế, họ chủ yếu là những người dân đinh nộp thuế cho Nhà nước và
họ không được xếp vào hạng quan viên. Hạng dân ngụ cư, dân ngoại tịch: Về
nguyên tắc đẳng cấp này không được xem là dân làng, mặc dù trong thực tế
họ vẫn thường xuyên cư trú và sinh sống ở đó. Trên danh nghĩa họ không
được pháp luật che chở, không có tên trong hộ khẩu của làng, không được
hưởng quyền lợi chính thức nào, vì vậy họ là đẳng cấp nghèo khổ nhất trong
làng xã” [35, 36-37].
Bộ máy quản lý cấp xã trước khi Pháp xâm lược gồm ba thiết chế
chính, hay là ba tổ lồng vào nhau với chức năng như sau:
1. Dân hàng xã: gồm toàn bộ cư dân nam giới từ 18 tuổi trở lên, tức
toàn thể những người đã đóng sưu thuế cho chính quyền quân chủ trung
ương và được Nhà nước công nhận là có quyền bầu cử cấp xã, cũng như bàn
bạc việc làng nước trong các tổ chức ở cấp xã.
2. Hội đồng kỳ mục: trên danh nghĩa là do dân làng xã cử lên từ nội bộ
của mình, nhưng thực ra gồm những người có điền sản, vừa có chức vụ hay
phẩm hàm, nghĩa là “lớp kem” của làng xã, mà chức trách được công nhận là
đề ra những chủ trương và biện pháp để làm tròn việc làng việc nước.
3. Những “lý dịch”, tức chức viên ở cấp xã, của chính quyền quân chủ
trung ương, đứng đầu là Xã trưởng (Lý trưởng) do dân xã bầu ra, có nhiệm vụ
là cùng với các chức viên đồng sự thực hiện những chủ trương của Hội đồng kỳ
mục và chịu trách nhiệm về việc làng việc nước trước chính quyền quân chủ
trung ương (được đại diện bởi các cấp quan liêu trung gian). [56, 65-66].
21