Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 150 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TẠ HỒNG VÂN




Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam




luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT














Hµ néi - 2005





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TẠ HỒNG VÂN



Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam


Mã số : 6.01.05



luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Đăng Huệ









Hµ néi - 2005




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử. Ngay
từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức
trao đổi hàng hoá thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng
trong việc điều tiết các quan hệ tài sản. Tuy nhiên, để tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi đồng thời đảm bảo về mặt pháp lý cho các chủ thể khi
tham gia ký kết hợp đồng thì cần thiết phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc
ký kết hợp đồng, đặc biệt là nguyên tắc tự do hợp đồng.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của nguyên tắc tự do hợp
đồng, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, học viên đã lựa chọn
đề tài: “Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận
văn thạc sỹ, với các lý do cơ bản sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc tự do hợp đồng là một trong những nguyên tắc
quan trọng nhất trong việc thiết lập các quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Có thể nói, nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì chế
định hợp đồng càng được coi trọng và càng được hoàn thiện hơn. Điều này

xuất phát từ việc pháp luật hiện đại thừa nhận quyền bình đẳng của con
người trước pháp luật và quyền tự do cá nhân. Ngày nay, nhất là trong nền
kinh tế hội nhập - nơi mà mọi dịch vụ, hàng hóa phải được tự do chuyển
dịch trong thị trường thì phần lớn các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh
bằng hợp đồng. Vai trò, vị trí của chế định hợp đồng và việc tuân thủ
nguyên tắc tự do hợp đồng vì thế ngày càng được khẳng định trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.


2
Thứ hai: Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện
nay còn nhiều khiếm khuyết, cản trở việc hình thành các giao lưu kinh tế -
thương mại.
Hoạt động kinh tế - thương mại là một trong những lĩnh vực không
thể thiếu của đời sống kinh tế - xã hội. Các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
hoạt động này là nền tảng của các quan hệ xã hội khác tồn tại trong xã hội.
Để duy trì và phát triển các quan hệ này thì Nhà nước phải tạo lập cho nó
khung pháp lý ổn định và hoàn thiện. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng nói
chung, nguyên tắc tự do hợp đồng nói riêng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
có những hạn chế nhất định. Do vậy, chúng ta cần thiết phải đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nguyên tắc này cho phù hợp với nền
kinh tế thị trường ở nước ta.
Như vậy, có thể khẳng định rằng việc nghiên cứu đề tài: “ Nguyên tắc tự
do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” có ý nghĩa to lớn, không chỉ về mặt
lý luận mà còn cả về thực tiễn áp dụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hợp đồng là một chế định quan trọng. Nó là “xương sống”
của pháp luật dân sự, pháp luật kinh doanh nên trong BLDS năm 1995 đã
có hẳn một phần (phần thứ 3 -nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự) để quy
định về vấn đề này. Thực tế, Pháp luật về hợp đồng đã được nhiều cơ quan,

tổ chức và các nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu, hầu như ở tất cả các khía cạnh liên quan đến hợp đồng, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế, như: Khái niệm, đặc điểm, trình tự, thủ tục ký kết
hợp đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu… Ngoài các sách chuyên khảo còn có
rất nhiều bài viết của các nhà luật học bàn về các vấn đề liên quan trong các
tài liệu, các báo và tạp chí chuyên ngành như: “Pháp luật về hợp đồng ở
Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của TS. Dương Đăng
Huệ; “Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay” của TS.Nguyễn


3
Am Hiểu; “Bàn thêm về hoàn thiện pháp luật kinh tế ở Việt Nam” của
TS.Lê Hồng Hạnh; “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân
sự” của TS. Đinh Văn Thanh…
Như vậy, có thể khẳng định rằng, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên
cứu tiếp cận vấn đề hợp đồng từ nhiều góc độ khác nhau nhưng hầu như
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về nguyên tắc tự
do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật
Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu là không trùng lặp và có ‎‎ý nghĩa cả
về mặt lý luận lẫn về thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích:
Thông qua việc tìm kiếm, phát hiện những điểm yếu kém của pháp luật
Việt Nam về tự do hợp đồng, trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc tự do hợp
đồng trên thế giới, Đề tài đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
nguyên tắc này với tư cách là nguyên tắc cơ bản nhất của pháp luật hợp
đồng ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận văn có nhiệm vụ:

 Phân tích nội dung và tầm quan trọng của nguyên tắc tự do hợp
đồng
 Nghiên cứu nguyên tắc tự do hợp đồng qua các thời kỳ khác nhau,
đánh giá thực trạng của nguyên tắc tự do hợp đồng ở Việt Nam
 Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện nguyên tắc tự
do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
3.3. Phạm vi
Chế định hợp đồng là một chế định pháp lý rất phức tạp, liên quan nhiều
vấn đề khác nhau như: chủ thể ký kết, căn cứ ký kết, các nguyên tắc ký kết,


4
nội dung và hình thức hợp đồng Tuy nhiên, Đề tài luận văn không có
tham vọng nghiên cứu toàn bộ chế định hợp đồng, toàn bộ các nguyên tắc
mà chỉ đi sâu nghiên cứu một nguyên tắc quan trọng, đó là nguyên tắc tự
do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Luận văn được nghiên
cứu trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng
dẫn, các tài liệu tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật và các sách tham khảo
có liên quan,
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp
như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn
 Luận văn đã phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của nguyên tắc
tự do hợp đồng.
 Luận văn xác định được vị trí then chốt của nguyên tắc tự do hợp
đồng trong mối quan hệ với các nguyên tắc khác (nguyên tắc bình đẳng,

hợp tác, thiện chí và trung thực).
 Luận văn trình bày nguyên tắc tự do hợp đồng qua các thời kỳ khác
nhau một cách khoa học và có hệ thống.
 Luận văn bám sát kịp thời Bộ luật dân sự mới năm 2005, qua đó phân
tích những điểm mới, tiến bộ và một số điểm hạn chế cần khắc phục khi
quy định về hợp đồng và nguyên tắc tự do hợp đồng.
 Luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định về
tự do hợp đồng ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn


5
 Luận văn giải quyết những bức xúc trong việc tìm kiếm các quy định
mới về hợp đồng và nguyên tắc tự do hợp đồng trong Bộ luật dân sự mới
năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006).
 Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ những khiếm khuyết của
pháp luật Việt Nam khi quy định về nguyên tắc tự do hợp đồng và sự cần
thiết phải hoàn thiện nguyên tắc này trước yêu cầu của thực tiễn.
 Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong
việc nghiên cứu lý luận, làm đề tài tham khảo giảng dạy và học tập cho
giáo viên và sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được dự kiến với kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề l‎ý luận cơ bản về nguyên tắc tự do hợp đồng
Chương 2: Tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời
kỳ
Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc tự do hợp
đồng ở Việt Nam trong thời gian tới






















6
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ L‎Ý LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC
TỰ DO HỢP ĐỒNG

1.1. HỢP ĐỒNG - HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA QUAN HỆ HÀNG HOÁ - TIỀN
TỆ
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội có hai hình thức kinh
tế: Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Kinh tế tự nhiên là hình thức sản
xuất mà sản phẩm lao động chỉ dùng để thỏa mãn nhu cầu của con người

sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Đối lập với hình thức kinh tế này là
kinh tế hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là sản xuất xã hội trong đó mối quan
hệ kinh tế giữa người sản xuất biểu hiện qua thị trường, qua việc trao đổi
sản phẩm và dịch vụ.
Hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của con người
và thông qua việc trao đổi, con người có thể thỏa mãn những nhu cầu trên.
Quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã làm xuất
hiện tiền tệ. Tiền làm thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là một loại hàng
hóa đặc biệt có giá trị như các hàng hóa khác. Giá trị của mỗi hàng hóa
được biểu hiện bằng một số tiền nhất định là giá cả. Mặc dù giá cả của
hàng hóa thường thay đổi biến động nhưng tổng số gía cả thì luôn bằng
tổng số giá trị của hàng hóa. Do vậy, việc trao đổi hàng hóa và tiền tệ là
một bộ phận của nền sản xuất hàng hóa, một khâu quan trọng trong quá
trình tái sản xuất xã hội. Quá trình trao đổi đó sẽ làm phát sinh, chấm dứt
quyền tài sản của chủ thể hay nói cách khác quan hệ hàng hóa – tiền tệ
(quan hệ tài sản) là quan hệ giữa người với người gắn liền với một tài sản
nhất định. Quan hệ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
của xã hội loài người. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ
chức phải tham gia nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các


7
bên thiết lập với nhau những quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau các
lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng, đóng một vai
trò quan trọng và là một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc
chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình thành bởi tài
sản (vốn là hiện thân của các lợi ích vật chất) không thể tự tìm đến nhau để
thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những
hành vi có ý chí của các chủ thể. Trong bộ Tư bản, C.Mác viết: “Tự chúng,
hàng hóa không thể đi tới thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho

những vật đó quan hệ như những hàng hóa thì những người giữ hàng hóa
phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó…mối
quan hệ ý chí đó, mà hình thức của nó là bản giao kèo dù có được củng cố
thêm bằng pháp luật hay không cũng vậy - là mối quan hệ ý chí phản ảnh
mối quan hệ kinh tế”.
Như vậy, ngay từ thuở sơ khai trong lịch sử phát triển của mình, hợp
đồng đã được coi là “bản giao kèo” được thiết lập trên cơ sở tự do ý chí của
các chủ thể trong quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hóa. Sự hình thành nhà
nước đồng thời kéo theo sự xuất hiện của pháp luật. Khi được pháp luật
điều chỉnh, các quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật và “bản giao kèo”
trở thành hình thức pháp lý của nó. Về tên gọi, “bản giao kèo” được gọi là
khế ước hay hợp đồng. Có thể khẳng định rằng điều kiện ra đời của nền sản
xuất hàng hóa cũng chính là những điều kiện ra đời của hợp đồng hay nói
cách khác trao đổi sản phẩm hàng hóa dẫn đến sự ra đời của hợp đồng. Hợp
đồng là hình thức pháp lý của quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Ví dụ: Nhu cầu
trao đổi sản phẩm sẽ dẫn đến việc thiết lập hợp đồng mua bán; nhu cầu về
đất đai sẽ dẫn đến việc thiết lập các hợp đồng như hợp đồng chuyển
nhượng đất, hợp đồng thuê đất… Nếu việc giao kết hợp đồng không phát
sinh lợi nhuận, không hàm chứa lợi ích vật chất trong đó mà chỉ chứa đựng


8
lợi ích tinh thần thì các chủ thể có thể thiết lập hợp đồng cho mượn, hợp
đồng tặng cho tài sản…
Hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn
minh thì phần lớn các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng hợp đồng,
chính vì thế chế định Hợp đồng càng được tôn trọng và hoàn thiện hơn.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế của sự giao lưu năng động của hàng hóa -
dịch vụ giữa người sản xuất và tiêu dùng. Hình thức pháp l‎ý thích hợp và
có hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hóa, dịch vụ đó

chính là Hợp đồng. Thực tiễn của nền kinh tế thị truờng trên thế giới từ xưa
đến nay đều khẳng định vai trò của hợp đồng. Nó luôn giữ vai trò quan
trọng bởi lẽ khi mọi hàng hóa, dịch vụ được tự do chuyển dịch trên thị
trường thì sự tự do thể hiện ý chí của các bên cũng phải được tôn trọng trên
cơ sở các quy định của pháp luật. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hợp
đồng và ở mỗi nước, tùy theo độ tương hợp mà các khía cạnh của hợp đồng
sẽ được chú trọng tới ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả những
khái niệm cũng như nhận định về hợp đồng ở hầu hết các quốc gia đều
phản ánh một quan niệm thống nhất về bản chất của hợp đồng. Đó chính là
sự gắn kết chặt chẽ của hai yếu tố:
* Yếu tố thứ nhất: Sự thỏa thuận (Đây là yếu tố thể hiện sự thống
nhất trong việc bày tỏ ý chí của các bên, theo đó, nội dung và các vấn đề
khác của hợp đồng được hình thành)
* Yếu tố thứ hai: Mục đích của sự thỏa thuận (Mục đích của việc
thiết lập các quan hệ hợp đồng là nhằm làm phát sinh một hậu quả pháp lý
mà các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng hướng tới. Tất nhiên, hậu quả
pháp lý đó phải hợp pháp.
Với quan niệm này thì mọi quan hệ đảm bảo các yếu tố trên ‎về bản chất đã
được coi là quan hệ hợp đồng, không phụ thuộc vào chủ thể tham gia hay
hình thức thể hiện.


9
Tóm lại, Hợp đồng là một trong những sản phẩm lâu đời nhất liên
quan đến giao lưu dân sự. Ngay từ khi sự trao đổi hàng hóa xuất hiện trong
xã hội loài người thì hợp đồng đã đóng vai trò là chuẩn mực, định hướng
cách xử sự cho các bên tham gia quan hệ nhằm đảm bảo cho sự vận động
của quan hệ hàng hóa - tiền tệ diễn ra nhanh chóng và hiệu qủa.
1.2. VỊ TRÍ CỦA NGUYÊN TẮC TỰ DO HỢP ĐỒNG TRONG VIỆC THIẾT
LẬP CÁC QUAN HỆ HÀNG HÓA - TIỀN TỆ

1.2.1. Các nguyên tắc k‎ý kết hợp đồng và vị trí của nguyên tắc tự do
hợp đồng
1.2.1.1. Các nguyên tắc ký kết hợp đồng
Xét dưới góc độ ngôn ngữ học Việt Nam thì nguyên tắc được hiểu
là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc
làm”(Từ điển Tiếng Việt)
Xét dưới góc độ khoa học pháp lý thì nguyên tắc là những quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong hệ thống pháp luật thể hiện tập
trung những yêu cầu và đòi hỏi của Nhà nước trong việc điều chỉnh pháp
luật đối với nhóm quan hệ xã hội nào đó. Việc thực hiện các nguyên tắc
mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả mọi người, mọi cơ quan nhà
nước và các tổ chức xã hội có liên quan.
Có thể nói, Hợp đồng là một chế định quan trọng trong hệ thống
pháp luật của bất cứ Quốc gia nào. Tuy có nhiều điểm khác nhau về lịch sử
phát triển, về một số quy định cụ thể liên quan đến chủ thể tham gia hợp
đồng, cách phân loại, song về lý luận, chế định hợp đồng có rất nhiều điểm
tương đồng. Và, sự tương đồng đó bắt nguồn từ chính bản chất của hợp
đồng là một công cụ đảm bảo sự bình đẳng, tự nguyện của các chủ thể
tham gia quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Để hợp đồng thực hiện
được tốt vai trò của mình trong các quan hệ pháp luật thì đòi hỏi chúng ta
phải xây dựng, hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản cho nó.


10
Để các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại thực hiện có hiệu quả
trên thực tế thì đòi hỏi các chủ thể pháp luật phải thiết lập các quan hệ hợp
đồng (giao kết hợp đồng) theo những nguyên tắc và trình tự nhất định. Giao
kết hợp đồng là việc các chủ thể bày tỏ ý chí bằng cách trao đổi ý kiến với
nhau về những nội dung, điều kiện của hợp đồng để đi đến sự thỏa thuận
trong việc cùng nhau xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa

vụ qua lại của các bên trong quan hệ hợp đồng. Các hành vi giao dịch trong
giao kết hợp đồng bao gồm: Đề nghị giao kết hợp đồng (được quy định tại
điều 396-BLDS 1995 và điều 51-Luật thương mại 1997); Chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng (được quy định tại điều 403-BLDS 1995 và điều
51/2- Luật thương mại 1997); Thời điểm giao kết hợp đồng và hiệu lực của
hợp đồng (được quy định tại điều 403,404-BLDS 1995, điều 55 và 56-Luật
thương mại 1997, điều 11- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989).
Tóm lại, Khi tiến hành giao kết hợp đồng, các chủ thể pháp luật phải
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, bao gồm: nguyên tắc tự do, bình đẳng, hợp
tác, thiện chí và trung thực.
a. Nguyên tắc tự do
Thuyết tự do y chí trong giao kết hợp đồng xuất hiện từ thế kỷ thứ
XVIII và nằm trong hệ thống các quan điểm của nền triết học ánh sáng.
Một số người cho rằng quan điểm này là của Kant, nhà triết học người Đức
đưa ra.
Thuyết tự do ý chí trong giao kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm
cho rằng ý chí của con người là tối thượng và tự chủ. Chỉ các hành vi xuất
phát từ ý chí của một người mới có hiệu lực ràng buộc đối với người đó.
Một người chỉ bị ràng buộc khi người đó muốn như vậy và ràng buộc theo
cách mà người đó muốn. Tuy nhiên, mỗi bên tham gia hợp đồng nhằm thỏa
mãn những lợi ích riêng của mình trong phạm vi phù hợp với lợi ích chung.


11
Khi bàn về vấn đề tự do ý chí, C.Mac đã chỉ ra rằng: Không thể bàn về lý
luận, đạo đức và pháp quyền mà lại không đề cặp đến tự do ý chí, đến quan
hệ giữa tất yếu và tự do.
Để tạo cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật
chất cũng như tinh thần, pháp luật cho phép mọi chủ thể được quyền “ tự
do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có

đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng
nào, nếu họ muốn, mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng y chí tự do của
mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng đã được pháp luật quy
định cụ thể cũng như những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy
định. Tự do ý chí của chủ thể trong việc xác lập quan hệ hợp đồng bao gồm
các yếu tố: Tự do đề nghị giao kết, tự do chấp nhận hay không chấp nhận
đề nghị của phía bên kia, tự do thỏa thuận các điều khoản cơ bản của hợp
đồng như đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán,…
Ngay từ thời kỳ La Mã cổ đại, hợp đồng đã là một trong những nội
dung quan trọng nhất của pháp luật về nghĩa vụ. Và, “nó đã trở thành cơ
sở nền tảng cho sựphát triển của khoa học pháp lý trong nhiều hệ thống
luật sau này” [41, tr.8] . Trong pháp luật La Mã, hợp đồng được coi là hình
thức thể hiện của các giao dịch song phương mà việc xác lập chúng có thể
trực tiếp làm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Như
vậy,“với tư cách như là một cơ sở làm phát sinh nghĩa vụ, hợp đồng chỉ có
thể có nếu các bên ký hợp đồng có chủ ý xác lập” [28, tr.77]
Xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng, pháp luật La Mã ghi
nhận ý chí đã thỏa thuận (convention) của các bên là một trong các điều
kiện để một hợp đồng có hiệu lực. Có thể thấy rằng, trong lịch sử lập pháp,
khái niệm về hợp đồng đã được hình thành từ rất sớm và dường như đã
khái quát được toàn bộ bản chất của hợp đồng cho đến nay (sự thỏa thuận
và thống nhất ‎ý chí của chủ thể khi tham gia giao dịch). Các hệ thống pháp


12
luật hiện đại sau này cũng có nhiều khái niệm khác nhau về hợp đồng song
tựu trung lại vẫn khó xa rời khái niệm nguyên gốc về hợp đồng từ thời La
Mã cổ đại.
Bộ luật Napoleon của Pháp là một trong những Bộ luật lớn và được
coi là Bộ luật kinh điển nhất về dân luật. Cho đến nay, hầu hết các Bộ luật

dân sự của các nước trong hệ thống luật Romanh – Giecmanh đều chịu ảnh
hưởng hoặc tham chiếu đến Bộ luật này. Khái niệm về hợp đồng trong Bộ
luật Napoleon được quy định tại điều 1101, theo đó: “ Hợp đồng là sự thỏa
thuận của hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không
làm một công việc nào đó”.
Theo quy định của Bộ luật dân sự Nhật Bản, hợp đồng được hiểu là:
“Một loại giao dịch dân sự thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay
nhiều bên. Mục đích của hợp đồng thông thường làm phát sinh nghĩa vụ”
(Bình luận khoa học BLDS Nhật Bản - Bộ tư pháp - Viện NCKHPL).
Qua đây, chúng ta có thể thấy pháp luật Nhật Bản cũng coi tự do ý
chí là một nguyên tắc trong giao kết hợp đồng. Tự do giao kết ở đây bao
gồm tự do đề nghị và chấp nhận giao kết; tự do xác định nội dung của hợp
đồng và tự do hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, muốn cho các quan hệ
về nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng thì các nghĩa vụ đó phải hợp
pháp, không trái đạo đức xã hội, trật tự công cộng và điều cấm của pháp
luật.
Với bản chất nguyên thủy của hợp đồng, vấn đề tự do y chí đã được
đề cao trong Bộ luật dân sự Philipin. Theo quy định tại Điều 1305 - Bộ luật
dân sự Philipin thì hợp đồng được hiểu là “sự thống nhất ý chí giữa hai
bên, theo đó, mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ sở tôn trọng bên kia để
đưa một cái gì đó hoặc trả cho một dịch vụ nào đó”. Có thể thấy, “sự ưng
thuận giữa các bên”- tự do ý chí của chủ thể (Điều 1318-Bộ luật dân sự
Philipin) là yếu tố quan trọng, không thể thiếu khi giao kết hợp đồng. Nó là


13
một trong ba điều kiện cơ bản để xác định hợp đồng đó có hiệu lực hay
không.
Tại Điều 1378- Bộ luật dân sự của Quy- bec cũng định nghĩa hợp đồng
là:“một thỏa thuận của ý chí bởi một hoặc nhiều người để ràng buộc nghĩa

vụ với một hoặc nhiều người khác nhằm thực hiện một công việc”.
Theo quy định của pháp luật Quy- bec thì ý chí của các bên trong
hợp đồng rất được đề cao, cùng với nguyên nhân và mục đích của hợp
đồng, các yếu tố này được coi là bản chất vốn có của một hợp đồng. Theo
đó, sự “ưng thuận giữa những người có năng lực tham gia giao kết là căn
cứ duy nhất để một hợp đồng được hình thành trừ trường hợp pháp luật
hoặc các bên trong hợp đồng yêu cầu hợp đồng cần phải đáp ứng những
điều kiện nhất định theo mẫu của một thỏa thuận nghiêm túc” (Điều 1385 -
Bộ luật dân sự Quy- bec).
Hợp đồng dân sự theo quy định của BLDS Việt Nam được hiểu là
“sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 394 - BLDS 1995) và tiếp tục được khẳng
định tại Điều 388 của Bộ luật dân sự năm 2005.
Trên cơ sở các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy vấn đề tự do hợp
đồng đã được khẳng định khá rõ nét trong các quan niệm, khái niệm về hợp
đồng ở hệ thống pháp luật các quốc gia khác nhau trên thế giới, từ thời xa
xưa cho đến hiện đại. Căn cứ để xác lập hợp đồng chính là sự tự do ý chí
(sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên khi tham gia giao dịch).
Như vậy, ý muốn cũng thuộc chủ quan của chủ thể, là động lực bên trong
thúc đẩy các chủ thể xác lập giao dịch, do đó thể hiện ý chí là biểu lộ cái
bên trong đó ra bên ngoài, làm thấy rõ nội dung của ‎ý chí dưới hình thức cụ
thể là các hợp đồng (khả năng biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài).
Và, người ta có thể nhận biết ý chí đó qua nhiều phương diện khác nhau,


14
mà cơ bản là nhận biết qua: (i) nội dung và mục đích của giao dịch; (ii)
tính tự nguyện của chủ thể
(i) Sự biểu hiện ‎ ý chí qua nội dung và mục đích của giao dịch
Mục đích của giao dịch là yếu tố không thể thiếu được trong giao

dịch. Mục đích đó có thể là những lợi ích vật chất hoặc những lợi ích tinh
thần - điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng cũng như
mong muốn của các chủ thể. Tuy nhiên, sự mong muốn của chủ thể sẽ mãi
mãi chỉ tồn tại ở suy nghĩ bên trong của chủ thể nếu như không được bày
tỏ, biểu lộ “ý chí” bên trong đó ra ngoài dưới một hình thức nhất định. Do
vậy, để đạt được mục đích của mình, các bên phải có những cam kết, thỏa
thuận với nhau về những nội dung cụ thể. Việc xác lập nội dung cụ thể của
giao dịch (hay quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên) xuất phát từ chính
các lợi ích, mong muốn bên trong mà chủ thể đang hướng tới. Vấn đề này
được các chủ thể thực hiện khi hướng các hoạt động của mình, hành vi của
mình vào việc cùng nhau tiến hành trên thực tế những cam kết, thỏa thuận,
thống nhất với nhau về nội dung của giao dịch trên cơ sở nhận thức được
những tác động của điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Tóm lại, mục
đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thể hiện
ý chí của chủ thể, vì thông qua các cam kết, thỏa thuận sẽ cho ta thấy rõ
được nội dung của ý chí, đó là: Mục đích của mỗi bên chủ thể hướng tới là
gì? họ sẽ có quyền và nghĩa vụ gì đối với nhau và sẽ sử dụng phương thức
nào để đạt được y muốn đó?
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng
tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này, các bên phải thỏa
thuận được với nhau về nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều
khoản như đối tượng (vật bán), giá cả, thời hạn, phương thức thực hiện hợp
đồng… Sự thỏa thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là
quyền sở hữu tài sản. Từ đó có thể khẳng định rằng không thể có hành vi


15
mang tính ý chí khi các chủ thể tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao
dịch lại không nhằm vào một mục đích nhất định. Có nghĩa là khi tham gia
vào các quan hệ trong phạm vi, giới hạn mà pháp luật quy định, chủ thể có

năng lực hành vi hoàn toàn có khả năng tự xác định mục đích cho hành
động của mình dù là hành vi tuyên bố đơn phương hay hành vi xác lập hợp
đồng dân sự.
Pháp luật tôn trọng và bảo đảm quyền tự do cam kết thỏa thuận của
các bên tham gia giao kết hợp đồng, tôn trọng và bảo vệ những lợi ích mà
các bên mong muốn đạt được nhưng không phải không có những giới hạn
(hạn chế) nhất định, không thể có tự do ‎ý chí tuyệt đối được. Chủ thể khi
tham gia quan hệ hợp đồng không thể “bất chấp tất cả” để thỏa mãn nhu
cầu của mình. Sự tồn tại đa dạng lợi ích trong xã hội hay xu hướng lấn át
của chúng đòi hỏi pháp luật phải tạo ra được một giới hạn phát triển hợp l‎ý
cho các lợi ích đó, tạo ra một sự hài hòa cho các lợi ích đang cùng tồn tại
trong một mối liên hệ chung. Sự đấu tranh và thống nhất giữa các lợi ích
chính là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều này đòi hỏi phải
tạo ra phạm vi giới hạn cho quyền tự do phù hợp với yêu cầu xã hội, đòi
hỏi của pháp luật. Vấn đề này có nghĩa là y chí của chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng phải phù hợp với ý
chí của Nhà nước được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật (ý chi
của giai cấp thống trị). Bởi vậy trong quan hệ hợp đồng, ý chí của các chủ
thể và ý chí của Nhà nước phải được kết hợp lại, ý chí của cá nhân phụ
thuộc vào ý chí của Nhà nước. Cho nên một trong những điều kiện để hợp
đồng có hiệu lực là “mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp
luật và đạo đức xã hội” - (khoản 2, điều 131, BLDS Việt Nam năm 1995).
Mục đích và nội dung của giao dịch thể hiện ý chí của chủ thể tham gia
giao dịch, còn pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước quy định khung pháp
l‎ý, tạo hành lang pháp lý. Trong giới hạn hành lang pháp l‎ý đó, các bên


16
tham gia vào hợp đồng được tự do thể hiện ý chí của mình. Việc thiết lập
giới hạn của tự do cá nhân trước tiên nhằm bảo vệ quyền lợi của Nhà nước,

của xã hội nhưng cũng là bảo đảm an toàn pháp l‎ý cho các chủ thể trong
quan hệ hợp đồng. Tính không trái pháp luật phải được hiểu theo nghĩa
rộng, nghĩa là không chỉ trong phạm vi các điều cấm của pháp luật mà còn
không trái với các nguyên tắc chung của pháp luật nói chung và pháp luật
hợp đồng nói riêng. Ngoài ra, mục đích và nội dung của giao dịch còn
không được trái với đạo đức xã hội (không trái với thuần phong mỹ tục của
dân tộc, không trái với những phong tục tập quán). Do vậy, pháp luật và
đạo đức xã hội thể hiện ý chí của Nhà nước đã hạn chế tự do ý chí của chủ
thể trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng.
Nghĩa là, nếu vi phạm điều cấm, vi phạm đạo đức xã hội thì hợp
đồng sẽ bị coi là vô hiệu, tài sản trong giao dịch sẽ bị sung công quỹ nhà
nước. Ví dụ: các giao dịch mua bán hàng bị cấm đưa vào lưu thông dân sự
như thuốc phiện, chất nổ, vũ khí… Những hạn chế này chính là giới hạn
đối với quyền của các chủ thể nhằm mục đích bảo đảm lợi ích chung của
cộng đồng xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia và quốc phòng toàn dân.
(ii) Sự biểu hiện của ý chí trong tính tự nguyện của chủ thể
Một trong những điều kiện có hiệu lực của một giao dịch là: Những
người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện. Điều kiện quan trọng
trên đây đã được ghi nhận tại Điều 7 (tự do tự nguyện cam kết, thỏa thuận)
và tại Khoản 1, điều 395 (nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng) của BLDS
Việt Nam năm 1995. Theo đó, khi xác lập các quan hệ hợp đồng, các chủ
thể có quyền: Tự do đề nghị giao kết, tự do chấp nhận hay không chấp
nhận đề nghị của phía bên kia, tự do thỏa thuận các điều khoản căn bản của
hợp đồng như đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán,…
Có thể khẳng định, bản chất của hợp đồng chính là sự thống nhất ý
chí và bày tỏ ‎ý chí của các bên, cho nên tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai


17
mặt của tự nguyện. Tự nguyện phải có tự do ý chí và bày tỏ y chi và phải

thống nhất với nhau như là hai mặt của một vấn đề. Điều này được hiểu
như sau:
‎ Ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng
hoạt động của mình, khắc phục khó khăn nhằm đạt được mục đích đó tức là
chủ thể có khả năng nhận thức được những quy luật tất yếu khách quan
(gồm cả quy luật tự nhiên và xã hội) và vận động những quy luật tất yếu
vào hành động vì lợi ích của mình. Biểu hiện cụ thể của tự do ý chí là chủ
thể đó tự nguyện, hoàn toàn có khả năng lựa chọn một tình huống nhất định
khi có nhiều tình huống khác nhau và quyết định theo ý chí của mình. Do
đó đối với những người không có tự do ý chí, không có khả năng cân nhắc,
phán đoán, lựa chọn và quyết định một cách tự do về cách xử sự của mình,
không nhận thức được tính tất yếu và tự do như bị điên, tâm thần, mất
trí…hoặc bị đe dọa, lừa dối thì những hợp đồng mà họ giao kết sẽ không có
hiệu lực và bị coi là vô hiệu (theo các quy định từ điều 140 đến điều 143
của BLDS Việt Nam năm 1995).
Mặt khác, hợp đồng chỉ được hình thành trên thực tế khi ý muốn bên
trong của chủ thể phải được biểu lộ ra bên ngoài dưới một hình thức nhất
định. Song, sự biểu lộ ý chí ra bên ngoài phải phản ánh được thực chất nội
dung của ý chí bên trong, tức là sự bày tỏ ý chí phải được phản ánh đúng
nguyện vọng của chủ thể giao kết. Như vậy, sự thể hiện ý chí chính là
phương thức, là cầu nối trong việc tiến hành xác lập hợp đồng sao cho phù
hợp với mong muốn, với lợi ích của bản thân các chủ thể tham gia giao
dịch. Đây chính là biểu hiện của sự thống nhất giữa cái bên trong (ý chí)
với những biểu hiện cụ thể ra bên ngoài (bày tỏ ý chí) – tính tự nguyện của
chủ thể. Khác với hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự thống nhất ý chi
của một bên, bản chất thỏa thuận của hợp đồng lại luôn cần sự thống nhất ý
chí của các bên tham gia quan hệ. Sự thống nhất ý chí này có thể đạt được


18

ngay sau khi các bên biết được ý chí của nhau, song cũng có thể phải trải
qua một quá trình và cần một khoảng thời gian nhất định. Các bên sẽ phải
bàn bạc, trao đổi nhằm làm rõ ý chí của nhau và cùng nhau giải quyết các
mâu thuẫn phát sinh về vấn đề lợi ích, quan điểm,…Chủ thể bên này sẽ
xem xét ‎ý kiến của bên kia trên quan điểm, lợi ích của mình. Thông
thường, sự thống nhất ý chí của các bên sẽ đạt được khi các bên dung hòa
được lợi ích khi tham gia hợp đồng.
Tuy nhiên, do giới hạn của những điều kiện khách quan và chủ quan,
không phải mọi ý muốn đều có khả năng thực hiện và không phải mọi
phương thức mà chủ thể lựa chọn để đạt được ý muốn đều có tính khả thi.
Do vậy, tự do ý chí của chủ thể phải trên cơ sở nhận thức được các điều
kiện chủ quan và khách quan. Điều đó đồng nghĩa với quy luật: tự do chỉ có
khi con người nhận thức được cái tất yếu.
Trên thực tế, không phải hợp đồng nào cũng được giao kết xuất phát
từ sự tự nguyện của các bên chủ thể mà họ có thể bị ép buộc, đe doạ, lừa
dối hay bị nhầm lẫn. Chính vì vậy, hợp đồng được thiết lập trong khi bị đe
dọa là hoàn toàn không có tính tự nguyện, vi phạm nghiêm trọng nguyên
tắc cơ bản “ tự do hợp đồng”. Tại Điều 3.9 - Nguyên tắc hợp đồng thương
mại quốc tế (Principles 0f International Commercial Contracts, viết tắt theo
Tiếng Anh là PICC) của Viện thống nhất tư pháp quốc tế ((Insitut
Internationl pour l
,
Unification des Droits Prive
,
,viết tắt theo Tiếng Pháp là
UNIDROIT) có quy định: “ Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu
hợp đồng, nếu bên đó giao kết hợp đồng là do bị bên kia đe dọa không
chính đáng, trong trường hợp nghiêm trọng và tức thời đến nỗi họ không
còn cách nào khác hơn là buộc phải giao kết hợp đồng. Cụ thể, sự đe dọa
là không chính đáng khi hành vi hoặc bất tác vi với một bên trong hợp

đồng bị đe dọa là bất hợp pháp, hoặc khi mục đích sử dụng nó là bất hợp
pháp nhằm đạt được giao kết hợp đồng”.


19
Giả sử trong trường hợp một người đe dọa tố cáo tội phạm khiến
người kia phải xác lập giao dịch với mình. Trong trường hợp này thì hành
vi tố cáo tội phạm là đúng pháp luật nhưng việc sử dụng phương thức này
để đe dọa buộc đối phương phải giao kết hợp đồng nhằm thực hiện mục
đích của mình thì pháp luật không bảo vệ.
Ngoài ra, trong nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế cũng có
quy định: “ Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu hợp đồng, nếu bên
đó giao kết hợp đồng do bị phía bên kia lừa dối về sự việc, kể cả trong
ngôn ngữ hoặc hành vi, hoặc do bên kia (bên lừa dối) không cung cấp
thông tin về các yếu tố, mà theo những tiêu chuẩn thông thường về công
bằng và hợp l‎ý trong thương mại, họ phải được thông báo” (Điều 3.8 -
PICC). Có thể nói, quy định trên đã thể hiện và đảm bảo nguyên tắc tự do
hợp đồng.
Như vậy, không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí hoặc phá vỡ sự thống nhất
này sẽ không có sự tự nguyện.
Tóm lại, Ở các quốc gia khác nhau, tại mỗi thời điểm khác nhau thì
ít nhiều cũng có sự khác nhau về khái niệm. Nhưng, về bản chất là thống
nhất, không thay đổi, đó chính là sự tự do ‎ý chí trong giao kết hợp đồng
“Khi xã hội đã đạt tới một trình độ nhất định thì tất cả những học thuyết
về quyền tự do của con người đều thừa nhận tự do hợp đồng là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm và tôn trọng các hình thức hợp đồng là một
nét đặc trưng quan trọng của cuộc sống văn minh” [43, tr. 109].
Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất
định. Bên cạnh việc chú ‎ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng
tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn

xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải “không trái pháp luật, đạo đức
xã hội”. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một
chủ thể vừa có quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng


20
pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng
pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi
một chủ thể trong việc giao kết hợp đồng.
b/ Nguyên tắc bình đẳng
Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi
phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy l‎ý do khác biệt về thành
phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, sự lệ thuộc, hoàn cảnh khó khăn về
kinh tế và nhu cầu cấp bách của phía bên kia, hoặc lợi dụng sự thiếu suy
nghĩ, bất cẩn, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu kỹ năng thương lượng hợp
đồng … để làm biến dạng các quan hệ hợp đồng. Chỉ khi nào các bên bình
đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự
nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc
trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự
nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Như vậy, tất cả các
hợp đồng được giao kết do bị đe dọa và là kết quả của bạo lực hoặc giao
kết trên cơ sở thiếu bình đẳng đều là những hợp đồng không đáp ứng được
nguyên tắc bình đẳng khi giao kết. Do vậy, tất cả các hợp đồng được ký kết
không dựa trên nguyên tắc bình đẳng thì sẽ không được pháp luật bảo vệ.
Muốn nguyên tắc này được bảo đảm trên thực tế thì trước hết pháp
luật phải tạo ra sự bình đẳng về địa vị pháp l‎ý cho các thành phần kinh tế,
theo đó cần thiết phải quan tâm tới vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất. Sự bình
đẳng ở đây phải được hiểu một cách khách quan và toàn diện chứ không
phải là hình thức. Pháp luật phải ghi nhận, thừa nhận và đưa ra các hình thức
áp dụng thực tế để bảo đảm nguyên tắc này trong các quan hệ hợp đồng.

Ví dụ: K nợ H một số tiền là hơn 1 (một) tỷ để kinh doanh. Sau một
thời gian do chơi đề thua lỗ nên K đã bán hết tài sản trừ ngôi nhà đang ở
mà vẫn không trả được hết nợ cho H. Để đòi nợ, H đã gạ gẫm K ký hợp


21
đồng bán ngôi nhà mà K đang ở cho H để trừ nợ. Vì túng quẫn, lại bị H
thúc ép hàng ngày nên K đã ký hợp đồng mua bán nhà trên.
Như vậy, trong trường hợp này, H đã lợi dụng sự lệ thuộc, hoàn
cảnh khó khăn kinh tế của K để k‎ý hợp đồng. Rõ ràng khi tiến hành ký kết
hợp đồng mua bán nhà trên, giữa K và H đều ở vị trí không bình đẳng.
Trừờng hợp này đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ hợp đồng.
c/ Nguyên tắc hợp tác
Hợp tác là một trong những nguyên tắc không thể thiếu trong các
quan hệ hợp đồng, theo đó, mỗi bên sẽ hợp tác với bên kia, khi sự hợp tác
này có thể được mong đợi một cách khách quan nhằm thực hiện những
nghĩa vụ của cả hai bên.
Như vậy, một hợp đồng không chỉ là một điểm dung hòa các mâu
thuẫn về quyền lợi của các bên trong hợp đồng, mà trong một chừng mực
nhất định nó còn được xem như là một “dự án chung”, trong đó mỗi bên có
nghĩa vụ phải hợp tác cùng thực hiện. Dĩ nhiên, trách nhiệm của việc hợp
tác phải được giữ trong một giới hạn nhất định (đề cập đến những yêu cầu
hợp lý), vì thế, không được phép đảo ngược việc phân chia trách nhiệm
trong việc thực hiện hợp đồng. Yêu cầu chủ yếu và tối thiểu của việc hợp
tác là nghĩa vụ không cản trở việc thực hiện của bên kia, đôi khi nghĩa vụ
này cũng yêu cầu sự hợp tác tích cực hơn giữa các bên.
Ví dụ : Công ty A sau khi k‎ý hợp đồng với Công ty B về việc giao
hàng ngay (hàng giày da của hãng X), đã chỉ thị nhân viên của mình mua
vét toàn bộ số hàng của hãng đó có trên thị trường từ các nguồn khác nhau.
Việc làm như vậy sẽ làm cản trở Công ty B trong việc thực hiện nghĩa vụ

của họ, là trái ngược với nghĩa vụ hợp tác.
d/ Nguyên tắc thiện chí và trung thực
Nguyên tắc thiện chí và trung thực là một trong những nguyên tắc
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các giao dịch.


22
Viện thống nhất tư pháp quốc tế (UNIDROIT) - một tổ chức quốc tế liên
chính phủ thành lập tại Roma, Italia, đã tập trung nghiên cứu tìm kiếm các
quy định chung để điều chỉnh hợp đồng, sao cho có thể thích hợp trong
nhiều hệ thống pháp luật của những nước khác nhau. Năm 1994,
UNDROIT đã cho ra đời cuốn sách “Nguyên tắc hợp đồng thương mại
quốc tế” (PICC). Theo đó, thiện chí và trung thực có thể được xem là một
trong những ý tưởng chính của PICC, bằng việc xác định rõ trong các quy
định chung rằng mỗi bên trong hợp đồng đều phải tiến hành giao dịch trên
tinh thần thiện chí và trung thực, thậm chí không có những quy định trực
tiếp điều chỉnh hành vi của các bên, họ vẫn phải tuân theo nguyên tắc này
trong suốt thời hạn hợp đồng, kể cả giai đoạn đàm phán.
Ví dụ1: B cho C một thời hạn là 48 giờ để chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng. Khi C quyết định chấp nhận chỉ ít lâu trước khi hết hạn,
nhưng không thể liên lạc được với bên B vì là ngày cuối tuần, máy Fax
trong văn phòng công ty B không hoạt động và cũng không có một máy trả
lời điện thoại tự động nào. Đến thứ hai tuần sau, B từ chối lời chấp nhận
của C. Điều này được xem như là đi ngược lại với thiện chí và trung thực,
vì đã ra thời hạn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thì bên B phải đảm
bảo mọi thông điệp đều có thể đến được văn phòng công ty B trong vòng
48 tiếng đồng hồ.
Ví dụ 2: Khách hàng A và ngân hàng JC ràng buộc với nhau bởi một
hợp đồng tín dụng nhằm hỗ trợ nguồn vốn lưu động cho bên A trong sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bên ngân hàng JC bất ngờ từ chối cho bên A

vay tiền tiếp mà không hề giải thích và thực hiện bất kỳ thông báo nào. Kết
quả là việc kinh doanh của bên A bị thiệt hại nặng do lỡ cơ hội k‎y hợp
đồng với các đối tác vì không có vốn để tiếp tục kinh doanh. Cho dù hợp
đồng tín dụng có điều khoản cho phép bên Ngân hàng được từ chối cho vay
“bất cứ lúc nào” nhưng việc Ngân hàng từ chối cho vay và đòi khách hàng


23
phải trả nợ ngay mà không hề thông báo trước và không giải thích – là vi
phạm nguyên tắc thiện chí.
Có thể nói, nghĩa vụ giao dịch theo nguyên tắc thiện chí và trung
thực của các bên là một đặc tính bắt buộc mà các bên không được loại bỏ
hoặc hạn chế sử dụng nó trong hợp đồng. Điều 3.19 –PICC quy định rằng
“Các điều khoản trong chương này mang tính bắt buộc, trừ trường hợp chỉ
liên quan đến tính ràng buộc của sự thỏa thuận giữa hai bên, việc không
thể thực hiện được từ đầu của Hợp đồng hoặc Hợp đồng được giao kết khi
nhầm lẫn”. Việc quy định này có nghĩa là, những điều khoản trong chương
này liên quan đến lừa dối, đe dọa và được lợi lớn đều có tính bắt buộc đối
với các bên trong hợp đồng.Việc các bên loại trừ hoặc sửa đổi những điều
khoản này khi giao kết hợp đồng là trái với nguyên tắc thiện chí và trung
thực. Tuy nhiên, không có gì ngăn cản các bên từ bỏ quyền vô hiệu hợp
đồng khi biết được sự thật và tự định đoạt xem liệu có nên vô hiệu hợp
đồng hay không. Mặt khác, những điều khoản của chương này liên quan
đến tính ràng buộc của một hợp đồng, hoặc việc hợp đồng không thể thực
hiện được, hoặc việc hợp đồng được giao kết khi nhầm lẫn thì không có
tính bắt buộc. Do vậy, các bên có thể quy định lại nếu luật áp dụng trong
nước cho phép, ví dụ như thêm các yêu cầu về nguyên nhân hoặc mục đích
của hợp đồng để một hợp đồng có hiệu lực, họ cũng có thể thỏa thuận hợp
đồng sẽ bị vô hiệu khi hợp đồng không thể thực hiện được ngay từ đầu,
hoặc quy định rằng sự nhầm lẫn của một trong hai bên sẽ không được coi

là nguyên nhân làm vô hiệu hợp đồng.
Ngoài ra, điều 7.1.6 – PICC (điều khoản miễn trừ) cũng được soạn
thảo nhằm mục đích cho phép tòa án được quyền uốn nắn hợp đồng dựa
trên nguyên tắc thiện chí và trung thực. Các điều khoản quy định về hậu
quả của việc không thực hiện trên cơ bản có hiệu lực, nhưng tòa án có thể
loại bỏ các điều khoản bất bình đẳng thái quá.

×