Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu chính sách tiền tệ trước Hội nhập kinh tế.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.55 KB, 17 trang )

Nguyễn Thị Kim Thanh - Hà Nội tháng 9-2008
1

Chính sách tiền tệ trớc yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Ts. Nguyễn Thị Kim Thanh
Phó Vụ trởng - Vụ Chính sách TT
Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam

Chính sách tiền tệ (CSTT) là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, trong thời
gian qua việc thực thi CSTT của NHNN đã đóng góp tích cực cho sự ổn định thị
trờng tài chính, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho tăng trởng kinh tế. Đồng thời,
CSTT cũng đã có những bớc đổi mới nhất định phù hợp với quá trình nền kinh tế
hội nhập kinh tế quốc tế. Việc quốc tế hoá thơng mại hàng hoá, đầu t và dịch vụ
khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập đã tạo điều kiện cho Việt Nam khuếch trơng
các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên toàn thế giới, qua đó tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của nền kinh tế, nâng cao vị thế Việt nam trên trờng quốc tế, thu
hút đầu t và chuyển giao công nghệ... Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập này,
nền kinh tế Việt Nam cũng phải đứng trớc nhiều thách thức về môi trờng pháp
luật, công nghệ, năng suất, hiệu quả và khả năng cạnh tranh, tệ nạn xã hội... Đối
với lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, quá trình hội nhập gắn liền với quá trình tự do hoá
thị trờng tài chính, đem lại nhiều cơ hội, nhng cũng không ít thách thức. Ngoài
những thách thức mà các TCTD phải khắc phục trong lĩnh vực cạnh tranh nắm giữ
và mở rộng thị phần, cũng đặt ra những thách thức lớn cho NHNN trong việc kiểm
soát luồng vốn, điều tiết tiền tệ, lãi suất, tỷ giá.. .,trớc những tác động nhạy cảm
của thị trờng tài chính quốc tế, cũng nh sự vận hành của cầu tiền ngày càng phức
tạp hơn do tính ngày càng đa dạng trong hoạt động của thị trờng tài chính trong
nớc.
Thực tế qua gần hai năm hội nhập cho thấy CSTT phải đối mặt với 3 vấn đến
lớn , đó là: (i) Kiểm soát tổng lợng tiền trong nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá trớc
sức ép lạm phát gia tăng; (ii) ngăn chặn những bất ổn định về tiền tệ và kinh tế vĩ
mô khi thực hiện tự do hoá các giao dịch vốn ; (iii) ảnh hởng của xu hớng thắt


chặt hay nới lỏng CSTT của các quốc gia trên thế giới.
(i) Kiểm soát tổng lợng tiền trong nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá
Trong một nền kinh tế đóng, các nhà lập chính sách có thể dễ dàng đa ra
những chính sách nhằm đạt đợc mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nhng trong một
nền kinh tế mở, hoạt động của nền kinh tế chịu tác động của môi trờng kinh tế đối
ngoại ngày càng nhiều. Đặc biệt toàn cầu hoá đang trở thành xu hớng tất yếu của
thời đại, quy mô của các giao dịch giữa một nền kinh tế với các nền kinh tế khác
ngày càng mở rộng. Nhờ quá trình tự do hoá thơng mại và đầu t do hội nhập
Nguyễn Thị Kim Thanh - Hà Nội tháng 9-2008
2
kinh tế mang lại mà qui mô thơng mại quốc tế của Việt Nam ngày càng gia tăng,
từ mức 55.261 triệu USD tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2004 lên
tới 111.243 triệu USD năm 2007 và 75.466 triệu USD 6 tháng đầu năm 2008. Bên
cạnh đó là đầu t trực tiếp, gián tiếp, chuyển tiền t nhân ngày càng gia tăng, một
lợng ngoại tệ lớn hiện đang có xu hớng gia tăng, Việt Nam ngày càng đợc tiếp
cận nhiều nguồn vốn khác nhau để bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng lai. Đầu t
trực tiếp nớc ngoài(FDI) tăng mạnh. Nhất là nguồn vốn đầu t gián tiếp nớc
ngoài tăng mạnh trong năm 2006, khoảng 1.300 triệu USD và hơn 6.240 triệu USD
năm 2007. Chính vì vậy, cán cân thanh toán tổng thể chủ yếu bội thu qua các năm,
tăng dự trữ ngoại tệ, giúp cho việc điều hành CSTT trong nền kinh tế đôla hoá của
Việt Nam có phần thuận lợi hơn. Song nhìn chung lợng ngoại tệ vào nhiều sẽ làm
tăng sức ép lên giá VND và việc kiểm soát M2 của NHNN sẽ gặp khó khăn. Bởi
trong cấu thành của M2 bao gồm cả tiền gửi ngoại tệ, nếu lợng ngoại tệ vào nhiều
,đặc biệt là qua đờng kiều hối sẽ làm tăng khối lợng tiền trong nền kinh tế ngoài
tầm kiểm soát của NHNN.
- Theo lý thuyết cũng nh trên thực tiễn, kết quả của cán cân thanh toán sẽ
làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng (NFA), mà sự thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng
sẽ làm thay đổi tổng phơng tiện thanh toán. Số liệu những năm qua (bảng 4) cho
thấy, tỷ trọng NFA trong tổng phơng tiện thanh toán có xu hớng giảm dần từ
mức trên 42% trong năm 2001 xuống 36% năm 2002 và 27,6% năm 2005, đến

năm 2006 lại có xu hớng tăng đến 31,2% và giảm xuống còn 29,5% năm 2007. Tuy
nhiên, mức độ tác động đến M2 rất thất thờng, từ mức tác động 54% năm 2000
xuống 0% năm 2002, sau đó lại tăng lên 41,749% năm 2006 và lại giảm xồng 28,8%
năm 2007 . Nh vậy, diễn biến cán cân thanh toán hay luồng ngoại tệ vào đã có tác
động đến sự thay đổi NFA và do đó là làm biến động tổng phơng tiện thanh toán
rất không ổn định.
Bảng 4: Diễn biến tổng phơng tiện thanh toán theo cơ cấu NFA và NDA
Đơn vị: tỷ đồng và %
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
%NFA/M2 42 36 32 27,11 27,65 31,20 29,5
Thay đổi NFA (NFA)
22.391 -197 13.983 14.436 45.244 96.848 122.489
% NFA/M2
39 0 17 11,64 29,29 41,74 28,8
%NDA/M2 58 64 68 72,89 72,33 68,79 70,5
Thay đổi NDA (NDA)
34.512 49.563 69.091 109.535 109.220135.172 303.082
%NDA/M2
61% 100 83 88.36 70,71 58,25 71,21
Nguyễn Thị Kim Thanh - Hà Nội tháng 9-2008
3
Thay đổi TPTTT (M2)
56.899 49.370 83.074 123.971 154.457232.020 425.571
Nguồn: NHNN và tính toán của tác giả.
Bên cạnh những ảnh hởng đến TPTTT và thay đổi vị thế CCTT, dòng vốn
đầu t nớc ngoài còn có tác động đến tỷ giá, lãi suất trên thị trờng tiền tệ. Trong
nền kinh tế đôla hoá nh Việt Nam, mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất đồng bản tệ và
lãi suất đồng ngoại tệ trong nớc có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu không
đảm bảo sự cân bằng về lợi tức giữa hai đồng tiền thông qua biến số tỷ giá, lãi suất
thì sẽ gây ra sự dịch chuyển giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ trên thị trờng trong

nớc, điều đó đặt ra cho thực thi CSTT ngày càng khó khăn hơn. Trong năm 2007
và 8 tháng đầu năm 2008 lợng ngoại tệ vào nhiều gây sức ép tăng giá VND, lạm
phát gia tăng mạnh cùng với cơ chế tỷ giá cha linh hoạt đã xuất hiện tình trạng
bộ ba bất khả thi, đặt CSTT vào tình thế rất khó khăn trong điều hành. Thực tế
này là một minh chứng cho thấy những với khuôn khổ CSTT hiện tại việc thực thi
CSTT trong bối cảnh hội nhập là khó có hiệu qủa mong muốn.
(ii) Ngăn chặn những bất ổn định về tiền tệ và kinh tế vĩ mô khi thực hiện tự
do hoá các giao dịch vốn.
Trong quá trình mở cửa thị trờng tài chính, tự do hoá các giao dịch vốn là
một xu thế tất yếu, thực chất của quá trình này là xoá bỏ các hạn chế trong việc
chuyển dịch vốn (ra- vào Việt Nam) của các nhà đầu t nớc ngoài, nhất là các
khoản đầu t gián tiếp. Chính việc xoá bỏ các rào cản nh vậy, theo kinh nghiệm
của các nớc có thể xảy ra những bất ổn từ việc các nhà đầu t nớc ngoài rút
vốn( hoặc đầu t) đột ngột với qui mô lớn khi nền kinh tế xuất hiện những mất cân
bằng vĩ mô, các chính sách quản lý vĩ mô thiếu nhất quán và hớng tới những mục
tiêu mâu thuẫn nhau, nhất là chính sách tỷ giá và CSTT không tạo đợc lòng tin
cho thị trờng. Ngoài ra, tự do hoá dòng vốn còn có thể làm gia tăng việc đầu t bất
cẩn từ dòng vốn nớc ngoài dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả, có thể
kèm theo tình trạng bất ổn giá tài sản và đầu t quá nóng vào một số lĩnh vực của
nền kinh tế làm giảm giá trị tài sản của hệ thống tài chính, qua đó mà tốc độ tăng
trởng kinh tế sẽ giảm thấp. Thực tế ở Việt Nam trong những tháng đầu năm 2008,
nền kinh tế xuất hiện những dấu hiệu mất cân đối vĩ mô, nh lạm phát giá tăng,
thâm hụt cán cân thơng mại lớn, cùng với sự non trẻ của thị trờng tài chính trớc
những thông tin thất thiệt trên thị trờng, nên thị trờng đã xuất hiện dầu hiệu rút
vốn của một số nhà đầu t nớc ngoài trên thị trờng trái phiếu, hiện tợng đầu cơ
ngoại tệ...đã gây ra những cú sốc tỷ giá trên thị trờng ngoại hối. Nhờ chính sách
đúng hớng của NHNN nên cú sốc chỉ trong thời gian ngắn đã đợc ngăn chặn và
thị trờng đi vào ổn định.
Nguyễn Thị Kim Thanh - Hà Nội tháng 9-2008
4

Về mặt nào đó, hiệu quả của CSTT sẽ đợc tăng cờng để ngăn chặt nguy cơ
bất ổn nếu tỷ giá hối đoái đợc định hớng theo nguyên tắc thị trờng, theo đó các
giao dịch của tài khoản vốn không ảnh hởng trực tiếp tới các điều kiện tiền tệ.
Trong trờng hợp tự do hoá các giao dịch vốn, nếu vẫn duy trì một chế độ tỷ giá cố
định hoặc thiếu linh hoạt, NHTW sẽ không thể sử dụng CSTT để duy trì sự ổn định
giá trong nớc, vì khi đó cung tiền phải mở rộng để ổn định tỷ giá khiến lạm phát
trong nớc có thể gia tăng. Từ đó cân đối vĩ mô có thể bị phá vỡ.
Nhìn chung việc lựa chọn một cơ chế tỷ giá có ảnh hởng lớn đến môi trờng di
chuyển vốn của một quốc gia. Một cơ chế tỷ giá không đợc các chính sách kinh tế
và khu vực tài chính cùng hỗ trợ sẽ dẫn đến các rủi ro liên quan đến dòng vốn đổ
vào trong nớc, cụ thể làm tăng giá trị đồng tiền trong nớc, gây khó khăn cho điều
hành CSTT, gây ảnh hởng đối với sự ổn định kinh tế và tính cạnh tranh của hàng
xuất khẩu. Một cơ chế tỷ giá đợc các nhà đầu t quốc tế coi là không ổn định và
thiếu độ tin cậy sẽ làm tăng thêm rủi ro đầu cơ tiền tệ và dòng vốn đổ ra nớc ngoài
lớn sẽ xẩy ra bất ổn thị trờng tài chính. Do vậy, một nền kinh tế muốn có lợi ích từ
việc tiếp cận nguồn vốn nớc ngoài qua tự do hoá các giao dịch vốn và giảm thiểu
rủi ro liên quan, thì điều quan trọng nền kinh tế đó phải lựa chọn một cơ chế tỷ giá
tin cậy, phù hợp với các chính sách tiền tệ, tài chính và chính sách kinh tế nói
chung.
(iii) ảnh hởng của xu hớng thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ của
các quốc gia trên thế giới
Hội nhập kinh tế quốc tế thì tác động của các nền kinh tế bên ngoài đến nền
kinh tế Việt Nam là khó tránh khỏi nh các nớc có nền kinh tế nhỏ, mở cửa. Một
nghiên cứu của IFM về mức độ ảnh hởng của các nền kinh tế lớn đến nớc nhỏ
(các nớc Nam Mỹ và Hoa kỳ). Kết quả mô hình cho thấy cái giá phải trả của sự
chậm trễ trong việc thi hành CSTT của ccs nớc nhỏ khi điều kiện bên ngoài thay
đổi ( lạm phát của các nớc phát triển gia tăng) là kỳ vọng lạm phát tăng cao, tỷ giá
ngoại tệ xuống thấp hơn, làm cho lạm phát chung tăng cao. Mô hình cũng chỉ ra
trong trờng hợp các phản ứng chậm hơn 3 tháng sẽ làm cho lãi suất phải tăng cao
hơn để đa lạm phát trở về vị trí ban đầu. Sự chậm trễ trong thay đổi chính sách

cũng làm cho lòng tin bị phá vỡ nhiều hơn và kinh tế bị thiệt hại nhiều hơn. Thời
gian đúng để phản ứng cũng nh cờng độ phản ứng phụ thuộc vào mỗi nớc,
trong đó phụ thuộc vào thành công của CSTT đợc thực hiện trớc đó, trạng thái
của cán cân thanh toán, trạng thái phụ thuộc tài chính quốc tế. Đối với các nớc có
kỳ vọng lạm phát dài hạn đợc phản ánh tốt, lòng tin vào CSTT đúng đắn của nhân
dân, ảnh hởng lên tỷ giá không lớn và lãi suất có thể phải tăng không quá mức ở
Nguyễn Thị Kim Thanh - Hà Nội tháng 9-2008
5
tại Hoa kỳ. Trong trờng hợp CSTT cha có tiền sử dài và tốt, phụ thuộc nhiều
vào tài chính quốc tế, đòi hỏi phải tăng lãi suất một cách đáng kể để ngăn ngừa tụt
giá đồng tiền, phá vỡ lòng tin, cũng nh các hiệu ứng vòng hai của lạm phát.
Kết luận trên của kết quả nghiên cứu giữa nền kinh tế Mỹ và các nớc Nam
Mỹ, cũng chính là một bức tranh và là bài học của nền kinh tế Việt Nam trong hội
nhập kinh tế mà CSTT phải đối mặt.
Thực tế điều hành CSTT hiện nay của NHNN cho thấy, năng lực điều hành
CSTT và lãi suất của NHNN còn hạn chế, qui mô và hiệu quả của các công cụ gián
tiếp của CSTT còn hạn chế (tổng giao dịch của các công cụ tái cấp vốn gián tiếp còn
thấp xa so với tổng khối lợng tiền tệ, hoạt động của thị trờng liên ngân hàng cha
phát triển, cha thực sự trở thành công cụ hữu hiệu trong việc trao đổi, hỗ trợ lẫn
nhau giữa các TCTD...). Chính sách tiền tệ hiện nay của NHNN hiện còn phải theo
đuổi nhiều mục tiêu, không chỉ theo đuổi mục tiêu ổn định tiền tệ, kiềm chế sự gia
tăng về giá cả và lạm phát mà còn phục vụ và theo đuổi mục tiêu tăng trởng kinh
tế ngắn hạn của chính phủ. Cơ chế lãi suất của NHNN tuy đã ngày càng đợc hoàn
thiện, chuyển dần sang cơ chế lãi suất cơ bản nhng cha thực sự theo sát và phản
ánh cung cầu thị trờng, cha hình thành lãi suất chủ đạo để thông qua đó NHNN
có khả năng tác động và định hớng lãi suất thị trờng.... Những hạn chế này đặt
ra thách thức rất lớn cho NHNN trong điều hành CSTT trong bối cảnh hội nhập,
mở cửa thị trờng tài chính với 3 vấn đề lớn phải đối mặt nêu trên.
Thực trạng trên đặt ra những đòi hỏi cấp thiết đối với NHNN trong việc đổi
mới mạnh mẽ khuôn khổ và trong điều hành CSTT. Kinh nghiệm của một số nớc

cho thấy để đạt đợc một CSTT hiệu quả trong điều kiện hội nhập cần phải lựa
chọn thực thi một khuôn khổ chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở thị trờng, theo đó
NHNN cần :
(i) Phải từng bớc thiết lập những điều kiện cần thiết để chuyển điều hành
CSTT đa mục tiêu thành CSTT theo đuổi một mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả;
xác định rõ cơ chế truyền tải CSTT trong từng giai đoạn phát triển.
(ii) Chuyển điều tiết khối lợng sang điều tiết giá cả, đồng thời xây dựng những
điều cần thiết để thực thi khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu và tiến tới thực
hiện khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu khi các điều kiện cho phép.
(iii) Từng bớc thực hiện tự do hoá tỷ giá với những lộ trình phù hợp với mức
độ phát triển cảu thị trờng ngoại hối, mức độ tự do hoá thị trờng tài chính và
khuôn khổ CSTT lựa chọn. Tự do hoá tỷ giá là một trong những điều kiện quan
trọng để đảm bảo khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu thực thi có hiệu quả.
Nguyễn Thị Kim Thanh - Hà Nội tháng 9-2008
6
(iv) Một chiến lợc kiềng ba chân cần đợc áp dụng để tạo thuận lợi cho quá
trình này đó là: nâng cao tính minh bạch; phát triển hệ thống thanh toán; và thúc
đẩy việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các qui định về an toàn.
Giải pháp cụ thể cho vấn đề này:
Một là, NHNN cần xác định rõ các mục tiêu và khuôn khổ điều hành CSTT
cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển: Với thực trạng hiện nay thị trờng tiền
tệ đang trong quá trình phát triển, một số hoạt động tiền tệ còn ngoài tầm kiểm
soát của NHNN. Vì vậyảytong thời gian hiện nay NHNN cần tăng cờng hơn nữa
năng lực kiểm soát tiền tệ theo thông lệ quốc tế và vẫn thực hiện khuôn khổ điều
hành CSTT hiện nay là đa mục tiêu, tập trung kiểm soát khối lợng tiền trong nền
kinh tế, tập trung các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, thực hiện khuôn khổ
chính sách tiền tệ kiểm soát khối lợng. Đồng thời, ngay từ bây giờ xây dựng các
điều kiện cần thiết để đến 2012, thực hiện khuôn khổ CSTT kiểm soát lãi suất,
theo đó hệ thống mục tiêu CSTT điều tiết bằng lãi suất, tức là phải tạo dựng đợc
hệ thống lãi suất chủ đạo và mục tiêu trung gian là lãi suất thị trờng. Từ sau năm

2015, khi thị trờng tiền tệ phát triển và xu thế tự do hoá tài chính gia tăng mạnh
mẽ, NHNN cần chuyển sang thực hiện khuôn khổ CSTT theo mục tiêu lạm phát để
nâng cao hiệu quả, tính minh bạch trong điều hành CSTT, đáp ứng yêu cầu hội
nhập. Trớc khi chuyển sang khuôn khổ CSTT MTLP, NHNN cần tiến hành đánh
giá những điều kiện tiên quyết để áp dụng thành công CSTT MTLP.
Hai là, Nâng cao năng lực điều hành CSTTcủa ngân hàng Nhà nớc : Điều
hành CSTT vừa là nghệ thuật vừa là khoa học, do vậy đòi hỏi những nhà hoạch
định và thực thi CSTT phải có kiến thức và kỹ năng nhất định. Chính vì vậy, để
nâng cao năng lực điều hành CSTT của NHNN trớc hết, cần phải tăng cờng đào
tạo và đào tạo lại cán bộ các kiến thức kinh tế vĩ mô cơ bản của nền kinh tế thị
trờng; trích lập quỹ đào tạo cán bộ ở lĩnh vực phân tích dự báo các chỉ số kinh tế
vĩ mô có trình độ thạc sỹ tiền sỹ tại nớc ngoài; xây dựng chính sách thu hút nhân
tài có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ đợc đào tạo ở nớc ngoài vào các lĩnh vực đòi hỏi kỹ
năng cao trong quá trình hoạch định và thực thi CSTT;
Thứ nữa, là NHNN phải chốt đợc kỳ vọng lạm phát của thị trờng trên cơ sở
tăng cờng tính minh bạch về các cơ chế chính sách, thông tin rõ ràng về các định
hớng chính sách đối với thị trờng; đồng thời NHNN phải nâng cao tính tự chịu
trách nhiệm về các quyết sách của mình trớc các quyết sách của mình, theo đó
NHNN cần xây dựng quy định về trách nhiệm của NHNN trong điều hành CSTT,
đảm bảo công khai, minh bạch các thông tin về điều hành CSTT ; Quy định về hình
thức, cơ chế công bố thông tin về lạm phát để tăng cờng sự hiểu biết của công

×