Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đề cương về Quản lý nhà nước.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.68 KB, 32 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ-XÃ HỘI
MỤC LỤC
MR AN.NOOD/3B
1
Câu 1: Khái niệm kinh tế thị trường? Các đặc trưng của nền kinh tế thị
trường?
• Khái niệm KTTT:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo.
Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân
người tiêu dùng và công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ các nguồn lực của nền
kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung - cầu. Trái với kinh tế thị trường là
kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
*) Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường:
Có 9 đặc trưng cơ bản là:
• Quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất và phi vật chất từ sản xuất
đến tiêu dùng phải được thực hiện bằng phương thức mua – bán.
•Người trao đổi hàng hóa phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi
trên thị trường ở 3 mặt sau đây:
+ Tự do lựa chọn nội dung trao đổi
+ Tự do lựa chọn đối tác trao đổi
+ Tự do thỏa thuận giá cả trao đổi, theo cách thuận mua vừa bán.
• Hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên ổn định; trên cơ sở
một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
• Các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích
của mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế.
•Cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy sự tiến
bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có lợi cho


người tiêu dùng.
• Sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt hành
vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Kinh tế thị trường hiện đại có 3 đặc trưng:
• Có sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với mục tiêu chính trị - xã hội,
nhân văn.
• Có sự quản lý của nhà nước.
• Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với
quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng
trở nên một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu
cơ với các bộ phận khác.
MR AN.NOOD/3B
2
Câu 2: Phân tích đặc trưng nền kinh tế thị trường? So sánh nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung với nền kinh tế thị trường?
BÀI LÀM
A, K hái niệm
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo.
Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân
người tiêu dùng và công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ các nguồn lực của nền
kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung - cầu. Trái với kinh tế thị trường là
kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
B, Phân tích cụ thể các đặc trưng của nền kinh tế thị trường:

 Một là, quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất, và phi vật chất từ
sản xuất đến tiêu dùng phải được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua - bán.
Bởi vì, có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công

chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, cho nên sản
phẩm trước khi trở thành hữu ích trong đời sống xã hội cần được gia công qua nhiều
khâu chuyển tiếp nhau. Bên cạnh đó, có những người, những doanh nghiệp, những
ngành, những vùng sản xuất dư thừa sản phẩm mà mình sản xuất nhưng lại thiếu
những sản phẩm khác, do đó giữa các chủ thể cần có sự trao đổi cho nhau.
Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường khi tổng lượng mua - bán
vượt quá nửa tổng lượng vật chất của xã hội .
Tuy nhiên, hiện nay phương thức đó gần như đã được thay thế bằng phương
thức mua – bán, việc trao đổi hàng đổi hàng hoặc việc phân phối hàng hóa của nhà
Nước không còn là phương thức chính nữa. Bởi lẽ, sự phân công chuyên môn hóa
trong việc sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, mỗi đơn vị chỉ sản xuất một hoặc
một số mặt hàng. Cá nhân hoặc đơn vị có nhu cầu về một mặt hàng nào đó, sẽ tiến
hành mua – bán với một cá nhân hoặc đơn vị khác và sẽ bán mặt hàng mà mình sản
xuất.
Thị trường mua – bán hiện nay ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, đủ mọi
mặt hàng thuộc tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống trong cuộc sống từ đơn giản đến
tinh xảo, mẫu mã và giá cả phù hợp với người tiêu dùng.
VD: Ở nước ta không trực tiếp sản xuất được dầu tinh mà thay vào đó nước ta
đem bán dầu thô cho các nước phát triển có khả năng sản suất chế biến dầu tinh và
sau đó lại mua lại dầu tinh của các nước này.
MR AN.NOOD/3B
Trước đây, khi chưa chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế tự cấp tự túc, mọi mặt hàng nằm trong tay Nhà nước, Nhà nước trực tiếp
quản lý và phân phối hầu hết mọi mặt hàng (vật liệu xây dựng, lương thực thực phẩm,
nhu yếu phẩm…), việc mua-bán diễn ra rất hạn chế, chỉ bao gồm một số mặt hàng
phục vụ cuộc sống hàng ngày.
 Liên hệ :
3
 Hai là, người trao đổi hàng hóa phải có quyền tự do nhất định khi tham
gia trao đổi trên thị trường ở 3 mặt :

 Tự do lựa chọn nội dung trao đổi.
 Tự do lựa chọn đối tác trao đổi.
 Tự do lựa chọn giá cả trao đổi, theo cách thuận mua vừa bán.
Có nghĩa là cá nhân hoặc đơn vị tham gia trao đổi hàng hóa có quyền tự do lựa
chọn mua cái gì? Của ai? Và với giá bao nhiêu?
 Liên hệ:
Đây là đặc điểm khá riêng biệt để phân biệt kinh tế hàng hóa với những nền
kinh tế khác. Và nó càng được thể hiện rõ trong nền kinh tế Việt Nam.
VD: khi cá nhân muốn mua một chiếc áo ở chợ thì cá nhân đó có quyền chọn
mua áo kiểu mẫu như thế nào, của ai và có quyền trả giá cho chiếc áo đó bao nhiêu để
thuận mua - vừa bán.
Bên cạnh đó, ở nước ta, còn nhiều bất cập trong việc thực hiện cơ chế tự do
như trên, có thể lấy những ví dụ cụ thể như sau :
1, Trong việc tự do lựa chọn nội dung trao đổi, nếu Nhà Nước không quản lý
chặt chẽ và có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ dẫn tới tình trạng tự do quá mức, ảnh
hưởng không chỉ đến sự phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng tới thuần phong mĩ tục
và lợi ích người tiêu dùng. ( Ví dụ như hiện tượng mua thần bán thánh, việc cấp phép
cho doanh nghiệp nhập rùa tai đỏ - một trong 100 loài xâm hại nguy hiểm nhất thế
giới vào nước ta, vụ việc nhập đồ chơi nguy hại cho trẻ em và sữa nhiễm melamine từ
Trung Quốc…).
2, Đối với việc tự do lựa chọn đối tác trao đổi và tự do thỏa thuận giá cả, hiện
nay đối với một số mặt hàng chủ thể trao đổi không thể thực hiện được quyền này của
mình, đó là những mặt hàng như điện, xăng dầu…thuộc độc quyền của Nhà Nước.
 Ba là, hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên, ổn định, trên
cơ sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua - bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
Đây là đặc điểm của riêng nền kinh tế thị trường mà những nền kinh tế khác
không có được. Như vậy là đã có sự quan tâm tới điều kiện trao đổi trên thị trường,
nó chứng tỏ kinh tế đã thoát khỏi tình trạng trao đổi đơn thuần những sản phẩm dư
thừa nhằm thỏa mãn nhu cầu hàng ngày mà vấn đề lợi ích và lợi nhuận đã được quan
tâm.

 Liên hệ :
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nguồn đầu tư cho kinh
tế để hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên, ổn định, trên cơ sở một kết
cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn là tất yếu. Trong
đó có thể kể tới:
 Hệ thống chợ, siêu thị, đại lý…phân bố khắp cả nước.
 Hệ thống giao thông không ngừng được hoàn thiện, nâng cấp.
 Tiềm năng điện quốc gia khá dồi dào.
VD: siêu thị fivimart – một trong những hệ siêu thị lớn nhất tại Việt Nam, siêu
thị này đáp ứng đầy đủ nhu cầu thiết yếu của người dân trên địa bàn.
Song song với những thuận lợi trên, ta cũng phải kể đến những hạn chế về cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay:
• Nhiều nơi vẫn tồn tại chợ cóc, chợ tạm...gây cản trở giao thông.
• Nhiều dự án xây dựng chưa được hoàn thành, gây thiệt hại kinh phí lớn.
MR AN.NOOD/3B
4
 Bốn là, các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo
đuổi lợi ích của mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nhưng lợi ích
cá nhân không được xâm phạm đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.
 Liên hệ :
Đặc điểm này nếu phát huy tốt, được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật thì
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên quá chú ý tới lợi ích cá
nhân thì việc xâm hại tới lợi ích của chủ thể khác là điều tất yếu.
Điều này có thể thấy rõ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam ở ví dụ của
công ty Vedan, công ty này đã nhiều năm liền xả nước thải xuống sông Thị Vải gây ô
nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng nghìn hộ dân. Rõ ràng, đây là
hành động xâm phạm tới lợi ích cộng đồng đáng lên án.
Đây cũng chính là điểm thiếu sót trong quản lý kinh tế của nước ta trong công
tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế cần được khắc

phục, nếu không tầm nguy hại sẽ không chỉ dừng lại ở một thế hệ, mà các thế hệ sau
cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Trong nền kinh tế mà người tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn nội dung
trao đổi, nếu không cạnh tranh, chủ thể sẽ không thể bán được sản phẩm, tất yếu sẽ
dẫn tới thất thu, thậm chí phá sản.Để có thể cạnh tranh thì tất yếu sản phẩm phải đem
lại nhiều giá trị sử dụng hơn những sản phẩm khác, để sản phẩm đem lại nhiều giá trị
sử dụng hơn tất yếu phải có đầu tư về khoa học kĩ thuật, đội ngũ lao động có tay
nghề, đầu vào tốt…từ đó sẽ thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
VD: Hai công ty mạng viettel và vinaphone để thu hút khách hàng sử dụng
sản phẩm của công ty mình thì mỗi công ty đưa ra các chương trình khuyến mãi nhân
đôi thẻ cào cho thuê bao trả trước và miễn phí 10p đầu nội mạng cho thuê bao trả sau.
 Song, bên cạnh những nét tích cực trên, nếu quản lý không tốt tất yếu sẽ
xảy ra cạnh tranh không công bằng giữa các chủ thể. Vì vậy, việc cạnh tranh phải
được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và sự quản lý của Nhà nước.
 Sáu là, sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt
hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
MR AN.NOOD/3B
 Năm là, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường, là động lực
thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, việc cạnh tranh phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nà
sự quản lý của Nhà nước.
 Liên hệ:
 Ở nước ta hiện nay, sự cạnh tranh xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong đó
nổi bật nhất là trong lĩnh vực kinh tế.
VD: Ta có thể thấy rõ trong một ví dụ cụ thể: trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
viễn thông ở Việt Nam, giữa các nhà mạng có sự chạy đua cạnh tranh, kết quả là các
cột phát sóng được lắp đặt nhiều hơn trên toàn quốc, chất lượng dịch vụ tăng lên,
việc du nhập và phát triển mạng 3G, công cuộc quảng bá được đẩy mạnh tới gần hơn
với mọi người, các chương trình khuyến mãi, ưu đãi tri ân khách hàng được tiến hành

thường xuyên…đem lại lợi ích lớn hơn cho người tiêu dùng.
5
Các quy luật khách quan của thị trường có thể kể tới như quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị… những quy luật điều tiết thị trường thông qua
việc dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Các quy luật khách quan của thị trường có thể kể tới như quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị… những quy luật điều tiết thị trường thông qua
việc dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
VD: Trong thời gian gần đây, giá vàng liên tục tăng do nhu cầu trong nước
chưa đáp ứng, cầu vượt cung, giá vàng tăng từng giờ (hiện tại xấp xỉ ngưỡng 3,8 triệu
đồng/chỉ vàng), thêm vào đó do tâm lý người dân đổ xô đi mua vàng khiến thị trường
vàng trong nước sôi động hơn bao giờ hết. Trước tình hình đó Nhà nước đã cho phép
các doanh nghiệp tiếp tục nhập khẩu vàng nhằm làm giảm cơn sốt vàng trong nước.
 Đơn cử theo quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường, khi cung vượt
cầu lập tức các nhà cung cấp sẽ hạ giá thành sản phẩm, tiếp tục cải tiến nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, áp dụng các chương trình khuyến mãi, còn khi cầu vượt
cung các nhà sản xuất sẽ tìm cách tăng giá sản phẩm, người tiêu dùng sẽ đổ xô đi
mua sản phẩm, dễ xảy ra tình trạng đầu cơ trên thị trường tiêu dùng.
VD: Vào dịp ngày lễ tình nhân thì nhu cầu về các mặt hàng như socola, hoa
tươi tăng cao vì vậy các doanh nghiệp cũng tăng lượng cung trên thị trường.
 Bảy là, sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị
- xã hội nhân văn.
Kinh tế, chính trị, xã hội là ba phạm trù cơ bản trong xã hội, chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau, sự biến đổi của một trong ba
yếu tố tất yếu dẫn tới sự thay đổi của hai yếu tố còn lại.
Kinh tế có sự tác động lớn đến chính trị, xã hội, nếu mục tiêu kinh tế không
thống nhất với mục tiêu chính trị, xã hội nhân văn, tất yếu sẽ xảy ra mâu thuẫn trong
xã hội ( ta có thể thấy rõ trong hậu quả của việc đô thị hóa phiến diện ở Trung Quốc
khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt trong xã hội, an sinh xã hội không
đươc đảm bảo.).

Sự thống nhất giữa chúng là luôn luôn cần thiết, nhất là trong nền kinh tế thị
trường.
 Liên hệ:
Có được thành tựu như vậy, một phần không nhỏ là sự kết hợp thống nhất giữa
những mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội (Mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế-
MR AN.NOOD/3B
 Liên hệ:
 Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy ngoài sự vận động của những quy
luật khách quan thì hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường còn bị
điều chỉnh thông qua sự quản lý của Nhà Nước.
Nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp,
việc thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội nhân văn là vấn
đề cần thiết nhằm tạo động lực cho đất nước phát triển.
Tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền
kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến
phức tạp; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện; chính trị, xã hội tiếp tục ổn định.
6
xã hội năm 2010 là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao
hơn năm 2009; tăng cường tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng
trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng đảm bảo an sinh xã hội; chủ
động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu hoàn
thành cao nhất các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 2006-2010 ).
Đồng thời, FED (Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ ) đã quyết định cắt giảm
thêm 0,5% lãi suất các khoản cho vay ngắn hạn từ 3,5% xuống còn 3% giữa các ngân
hàng thương mại. Đây là quyết định cắt giảm lãi suất thứ hai liên tiếp của FED chỉ
trong vòng 8 ngày để giúp nền kinh tế Mỹ tránh rơi vào suy thoái.
 Liên hệ:

Với những công cụ quản lý vĩ mô như hiến pháp, luật, chính sách từng giai
đoạn, từng năm…Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình trên mọi kĩnh vực thuộc
kinh tế và bên cạnh những hạn chế thì đã đạt được những thành tựu to lớn. cụ thể nhà
nước đã ban hành các luật như luật thương mại, luật môi trường, luật doanh nghiệp,
luật lao động…
Ví dụ, năm 2009, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng tâm hiệp lực của cả hệ
thống chính trị và của các tầng lớp nhân dân, đất nước ta đã vượt qua khó khăn, thách
thức gay gắt trong bối cảnh suy thoái, khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên phạm vi
toàn cầu.
Trong đó, gói kích cầu của Chính phủ đã góp phần thực hiện được mục tiêu
ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô; các cân đối thu chi ngân sách Nhà
nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế… được đảm bảo; lạm phát được kiềm chế ở
mức thấp nhất; tốc độ tăng trưởng được duy trì hợp lý và bền vững.
Tuy nhiên nếu khắc phục được những hạn chế sau thì sẽ tạo nên sự toàn vẹn
trong quản lý kinh tế của nhà nước : tăng trưởng được dẫn dắt bởi đầu tư đã khiến
bội chi và thâm hụt ngân sách tăng cao. Thêm vào đó, mức tăng cung tiền lớn có thể
đẩy rủi ro lạm phát sang năm tới.
 Chín là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn
ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày
MR AN.NOOD/3B
 Tám là, có sự quản lí của Nhà nước. Đặc trưng này được hình
thành ở các nền kinh tế thị trường trong vài thập kỉ gần đây, do nhu cầu không chỉ
củaNhà nước là người đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, mà còn là nhu cầu
của chính những người tham gia kinh tế thị trường.
Cụ thể, trong mỗi quốc gia, Nhà nước với vai trò lãnh đạo và quản lí trên mọi
lĩnh vực cuộc sống trong mỗi, trong đó có kinh tế, hơn thế, những chủ thể tham gia
kinh tế cần có một chủ thể “ trung gian “ là nhà nước để quản lý, điều hòa khi cần
thiết. Vì vậy, sự quản lí của nhà nước là vô cùng cần thiết nhằm tạo ra môi trường
kinh doanh ổn định, công bằng, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, nhất là đối với
nền kinh tế thị trường.

VD: Chính sách của Nhà nước Hoa Kỳ trong việc kéo nền kinh tế tránh khỏi
suy thoái:
Đầu năm 2008, khi những dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế ngày càng rõ rệt,
ngay lập tức Nhà Trắng có khoản tiêm kích cầu trị giá 1% GDP vào nền kinh tế.
7
càng trở nên một chỉnh thể thống nhất trong mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu
cơ với các bộ phận khác.
Tuy nhiên để tiếp tục hội nhập và phát triển Việt nam cũng cần khắc phục
những thiếu sót : hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đang trong quá trình hoàn thiện,
chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với các
nước phát triển.
C, so sánh nền KTKHHTT và nền KTTT
KTKHHTT KTTT
GIỐNG NHAU
- Là những nền kinh tế cơ bản của nền kinh tế nói chung.
- Đều có những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế như: được
thực hiện bằng phương thức mua-bán, có đối tác hoạt động,…
- Vận động theo những quy luật nhất định của nền kinh tế
KHÁC
NHAU
Thời gian Diễn ra trước nền KTTT Diễn ra sau nền KTKHHTT
Thành phần
sở hữu về tư
liệu sản xuất
Chỉ có 2 thành phần: sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể
đươc thể hiện dưới dạng xí
nghiệp quốc doanh và hợp tác

Có nhiều thành phần sở hữu

TLSX: sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở
hữu tư nhân,…
Cơ chế quản
lý của nhà
nước
Thông qua kế hoạch hóa là
khâu trung tâm
Thông qua các kế hoạch,
hoạch định trong từng thời
gian và thay đổi linh hoạt cho
phù hợp với hoàn cảnh
Động lực cơ
bản của sự
vận động
kinh tế
Sự giác ngộ cách mạng của
cán bộ,công nhân viên và kỷ
luật hành chính, được tạo ra
bởi công tác chính tri,công
tác tưởng, công tác động viên
tinh thần
Sự tự giác và cạnh tranh giữa
các chủ thể kinh tế với nhau
Vai trò của
nhà nước
Đóng vai trò chủ đạo, quyết
định mọi vấn đề
Đóng vai trò điều chỉnh, điều
hành hoạt động kinh tế

MR AN.NOOD/3B
Liên hệ:
Trong khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, vượt ra khỏi biên giới quốc
gia thì việc hội nhập kinh tế là một tất yếu, không một quốc gia hay vùng lãnh thổ
nào lại có thể đứng ngoài quá trình này, trong đó có Việt Nam.
Trong những năm qua, với những chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam đang
cố gắng hết mình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và đã đạt được những kết quả khả
quan như là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới : ASEAN,
APEC, ASEM… và nổi bật hơn cả là sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của tổ chức kinh tế thế giới WTO ngày 1/1/2007.
8
Câu 3: Phân tích nội dung QLNN về kinh tế? Liên hệ trong quản lý kinh tế hiện
nay?
A, Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế

*) Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta:
- Khẳng định trước hết bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân
và vì nhân dân. Để quản lý kinh tế, Nhà nước đóng vai trò chủ thể quản lý, làm cho
nền kinh tế tăng trưởng, đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo điều kiện để
nhân dân sống và làm ăn theo pháp luật;
- Về mặt Nhà nước, thì Nhà nước là cơ quan thực thi quyền lực của nhân dân,
bảo vệ lợi ích của quốc gia, chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu; vận hành nền
kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN;
Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, cho nên vai trò của Nhà nước rất
nặng nề và quan trọng:
+ Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ra đời phù hợp với xu hướng
thời đại, đồng thời phải điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định & phát triển.
+ Nhà nước phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh
hướng: phân hóa giàu nghèo quá mức và tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà
chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức… đồng thời hạn chế và khắc phục khuyết điểm, yếu

kém của bộ máy Nhà nước.
+ Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định hướng
XHCN phù hợp với bản chất của Nhà nước ta.
Tóm lại:
Nhà nước tạo lập đồng bộ các loại thị trường, quản lý, điều tiết nhịp nhàng, có
hiệu lực làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.

*) Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế:
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, được vận hành bằng cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với các nội dung cơ bản như sau:

- Thứ nhất, Nhà nước phải tạo được môi trường và điều kiện cho hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội cho sự phát triển của nền kinh tế. Duy trì pháp luật trật tự an toàn
xã hội, thi hành nhất quán các chính sách & thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường.
Tạo môi trường tâm lý, trong quá trình nhận thức của cán bộ đảng viên và nhân
dân phải hiểu cơ chế thị trường, nhận thức được tính hai mặt của cơ chế.

- Thứ hai, phải dẫn dắt & hỗ trợ những nổ lực phát triển thông qua chiến lược,
kế hoạch, các chính sách kinh tế, sử dụng có trọng điểm các nguồn lực kinh tế quốc
doanh, tạo nguồn lực để phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành, những lĩnh
vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng,
BHXH, những cơ sở sản xuất và thương mại dịch vụ quan trọng, một số doanh
MR AN.NOOD/3B
9
nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng – an ninh, khai thông
các quan hệ kinh tế.


- Thứ ba, Nhà nước phải hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội. Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ngay trong từng bước và
trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở khâu phân phối tư
liệu sản xuất lẫn ở khâu kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có
cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.

Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo; thu
hẹp khoảng cách và trình độ phát triển về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân
cư, giải quyết việc làm cho người lao động.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn,
đáp nghĩa”, nhân hậu. vv…
-Thư tư, Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động trong nền
kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia, bảo vệ môi trường, trật tự
kỹ cương của nền kinh tế.

Nhà nước ta vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị
trường - hội nhập kinh tế quốc tế, mọi hoạt động diễn ra rất đa dạng, phức tạp, các
thành phần kinh tế vừa hỗ trợ hợp tác, vừa đấu tranh, mâu thuẩn lẫn nhau trong quan
hệ kinh tế thị trường thường xuyên xảy ra. Hoạt động sản xuất kinh doanh trên các
ngành nghề có thể làm ô nhiễm môi trường, có thể có tác hại đến nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nạn gian lận thương mại… đều có thể xảy ra. Vì vậy Nhà nước không thể
buông lỏng sự quản lý của Nhà nước trên tất cả các hoạt động của nền kinh tế phát
triển theo định hướng chứ không thể để nó tự phát được.

*) Nhà nước cần hoàn thiện công cụ quản lý vĩ mô:

Nội dung quản lý vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ
thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Do đó, quá trình đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế phải gắn với quá trình đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô quan
trọng:

- Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội để định hướng
cho sự vận động của nền kinh tế thị trường.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xem như là sự lựa chọn có căn cứ
khoa học của các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
gắn với chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt được mục tiêu đó.
Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế và
định hướng cho sự vận động của nền kinh tế.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vì hệ thống pháp luật là cơ sở
pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong cơ chế thị trường, duy trì trật tự, kỹ
cương kinh tế, điều chỉnh hành vi. Do đó cần phải đổi mới việc xây dựng ban hành,
thực thi luật pháp theo đúng yêu cầu của việc tổ chức quản lý kinh tế - xã hội trong
MR AN.NOOD/3B
10
cơ chế thị trường, đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, phù hợp với luật pháp và thông lệ
quốc tế, tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Sử dụng các công cụ tài chính - tiền tệ - giá cả là những công cụ chủ yếu của
quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất
là kinh tế tiền tệ. Vì vậy Nhà nước cần nắm các công cụ này, sử dụng linh hoạt các
hình thức, biện pháp tài chính, giá cả phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN.

- Tiếp tực cải cách và xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ thành công cụ điều
tiết vĩ mô nhạy bén và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Trong nền kinh tế thị
trường, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ mô trên mọi
lĩnh vực: điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, chống lạm phát, định hướng phát triển
sản xuất, hoạt động đầu tư.

- Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa bảo đảm nguổn thu ngân
sách nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh và thúc đẩy thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng để tăng tích lũy.
Chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia, có liên
quan đến nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội và đời sống của nhiều tầng lớp dân cư.
Đối với hoạt động quả lý của Nhà nước, thuế không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ
yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực của Nhà
nước, mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô.
Kiên quyết thực hiện đạt yêu cầu các luật thuế mới hiện hành, đơn giản hóa hệ
thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế. Bổ sung thuế và phí sử dụng
tài nguyên không tái tạo. Xây dựng quy chế đảm bảo chi ngân sách tiết kiệm và có
hiệu quả, nâng dần tỷ lệ chi đầu tư và phát triển, kềm chế bội chi ngân sách.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ điều tiết
áp lực cạnh tranh, bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và
thực hiện chính sách kinh tế mở cửa.
- Chính sách giá cả (bao gồm giá cả hàng hóa và giá cả đồng tiền). Trong kinh
tế thị trường, là cơ sở để bố trí tài nguyên và kinh doanh sản xuất nó nẩy sinh thông
qua thị trường và phản ảnh nhanh nhạy cung – cầu của nền kinh tế. Sự giao động kinh
tế của nền kinh tế quốc dân, trước tiên biểu hiện ở sự giao động về giá cả, cho nên
quản lý giá cả bằng chính sách giá chính là một trong những nội dung chủ yếu về sự
can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường như: điều tiết quan hệ cung –
cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, điều tiết
quan hệ cạnh tranh, môi trường kinh tế để chống đột biến xấu từ lạm phát, bảo hộ các
hoạt động sản xuất kinh doanh.

*) Ba nội dung cơ bản của chính sách giá cả là:

+ Nhà nước trực tiếp đối với một số ít sản phẩm cơ bản có tính chất chiến lược
phục vụ cho xã hội như: Than, dầu mỏ, điện, hàng không, bưu điện… Tuy nhiên,
từng bước thu hẹp tỷ trọng Nhà nước định giá và mở rộng tỷ trọng giá Nhà nước chỉ
đạo và giá thị trường điều tiết.
MR AN.NOOD/3B

11
+Nhà nước chỉ đạo mức giá, quản lý gián tiếp là hình thức quản lý giá thông qua
việc xác định khung mức giá trong giá cả hàng hóa. Hình thức này, đòi hỏi phải điều
chỉnh thường xuyên giá cả để làm cho nó tiếp cận với giá thị trường.
+Khống chế từng mức giá cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức
giá cả & biện pháp khống chế từng mức giá cả là hệ thống các biện pháp như: biện
pháp hành chính, biện pháp tài chính, biện pháp tiền tệ, biện pháp khống chế lương &
hối suất…

- Chính sách tiền tệ: Ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” được
Nhà nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông xác lập môi trường tài chính
lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế kinh tế và là công cụ để
thực hiện chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Vai trò đó được thực hiện thông qua
việc tổ chức hoạt động ngân hàng 2 cấp trong nền kinh tế thị trường, đó là Ngân hang
nhà nước và Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền.
Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện
các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Công cụ cơ bản để sử dụng trong hệ thống ngân
hàng là hệ thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiếc khấu, hệ thống thị trường tài
chính, tiền tệ.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng giữ được vai trò là trung tâm tín dụng, trung
tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm soát, điều chỉnh
hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Do đó, trong điều kiện kinh tế thị trường, Ngân
hàng giữ vai trò công cụ vĩ mô của Nhà nước.

Tóm lại:
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường sẽ tồn
tại lâu dài – suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Các thành phần hoạt động sản
xuất kinh doanh đan xen nhau, vừa hỗ trợ thúc đẩy, lại vừa cạnh tranh mâu thuẩn đối

lập thường xuyên xảy ra. Mặt trái của cơ chế thị trường mâu thuẩn với bản chất của
XHCN, đó là xu hướng phân hóa giàu nghèo quá mức, tâm lý sùng bái đồng tiền và
vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con người. Vì vậy, quản lý Nhà
nước về kinh tế là một yêu cầu cần thiết - khách quan, nhằm quản lý các thành phần
kinh tế và thị trường hoạt động theo định hướng XHCN, theo quan điểm: tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Bằng những công cụ của mình, Nhà nước ta thực hiện được các chức năng quản
lý Nhà nước về kinh tế, đưa nề kinh tế xã hội phát triển, thực hiện mục tiêu làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh – vững bước tiến lên Chủ
nghĩa xã hội – con đường mà Đảng – Bác Hồ và Nhân dân ta hằng mong ước./.
MR AN.NOOD/3B
12

×