Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Luận văn: Việt Nam trong quan hệ quốc tế thời kì 1954 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 124 trang )

LUN VĂN: VIT NAM TRONG QUAN H QUC T THI
K 1954 – 1975
LI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành cảm ơn phòng sau Đại học, Tổ
Lịch sử Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Lịch sử, các thầy cô giáo đã giúp đỡ em
trong quá trình học tập và làm luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đối với TS. Phạm Thị Tuyết,
người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành đề tài nghiên cứu của
mình.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ công tác tại thư viện Đại học sư
phạm Hà Nội, thư viện Quốc gia Việt Nam, Học viện ngoại giao Việt Nam, thư viện
Quân đội, Viện lịch sử quân sự đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình tìm
kiếm, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu phục vụ cho quá trình làm luận văn.
Cuối cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới những người thân trong gia
đình, bạn bè đã tạo điều kiện, khích lệ, động viên tác giả trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2015
Học viên
Nguyễn thị Hương
2
222
2
BẢNG CHỮ VIT TẮT
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
XHCN : Xã hội Chủ nghĩa
PTCS : Phong trào Cộng sản
CNQT : Công nhân quốc tế
NDT : Nhân dân tệ
CNTD : Chủ nghĩa thực dân
VNDCCH : Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
CHND : Cộng hòa Nhân dân


3
333
3
MỤC LỤC
4
444
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève về chấm
dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết và có hiệu lực. Tuy
nhiên, Hiệp định Genève ký chưa ráo mực, đế quốc Mỹ nhanh chóng tìm cách hất
cẳng Pháp, lập nên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam và thông
qua chính quyền đó để phá hoại sự nghiệp cách mạng, âm mưu chia cắt đất nước
Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của
Mỹ - tiền đồn để ngăn chặn CNXH lan tràn ở khu vực Đông Nam Á. Như vậy, vừa
kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã
phải bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng Lao động Việt
Nam thời kì 1954 – 1975 phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách
mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Nhân dân Việt Nam phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, với
những âm mưu nham hiểm và thủ đoạn hết sức tàn bạo. Cuộc chiến tranh kéo dài
qua năm đời tổng thống Mỹ với một tương quan lực lượng chênh lệch không có lợi
cho phía Việt Nam cả về tiềm lực kinh tế và quân sự. Chiến tranh Việt Nam trở
thành một bộ phận của chiến tranh lạnh, là nơi đọ sức điển hình và thu hút sự can
thiệp của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các cường quốc. Song bằng sự quyết
tâm, lòng dũng cảm, tinh thần chiến đấu anh dũng và trí tuệ con người Việt Nam,
nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và chiến thắng thật oanh liệt khiến cả thế giới phải
trầm trồ thán phục. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 –
1975) là thắng lợi không chỉ của riêng nhân dân Việt Nam mà là thắng lợi chung

của các lực lượng tiến bộ, hòa bình, dân tộc, dân chủ trên toàn thế giới, cổ vũ mạnh
mẽ tinh thần đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Thắng
lợi đó có một phần công lao rất lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN.
Song nguyên nhân trên hết là do sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đường lối
lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam. Việt Nam đã phát huy
truyền thống dân tộc, thực hiện đường lối độc lập tự chủ, tận dụng cơ hội, giải quyết
5
5
khéo léo mối quan hệ với các nước lớn, hạn chế những tác động xấu từ các mối
quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh mâu thuẫn Xô – Trung ngày càng lên
cao, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, của các lực lượng hòa bình, dân tộc,
dân chủ, tiến bộ trên thế giới, vượt qua trở lực của những mối quan hệ quốc tế phức
tạp, sự lệ thuộc, …chủ động phát huy những lợi thế, sức mạnh dân tộc để giành
thắng lợi. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam đã làm
đảo lộn cục diện quan hệ quốc tế, phá vỡ ý đồ, âm mưu câu kết, dàn xếp của các
nước lớn với những toan tính riêng trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam.
Thực chất những toan tính của các nước lớn là gì? Sự dàn xếp hay mâu thuẫu
giữa các nước lớn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam, đặc biệt là cuộc chiến
tranh Việt Nam thời kì 1954 – 1975 là gì? Mối quan hệ phức tạp giữa các nước lớn
đó có tác động như thế nào đến tình hình cách mạng Việt Nam? Đó là những vấn đề
đặt ra rất cần được nghiên cứu và giải quyết một cách thỏa đáng, tạo cơ sở lý luận
cho sự nhận thức đúng đắn về một số vấn đề của lịch sử cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954-1975) của Việt Nam và về lịch sử quan hệ quốc tế thời kì này.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế trong bối cảnh quan hệ quốc tế có nhiều diễn biến
phức tạp. Do đó, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề trên sẽ rút ra được những bài
học lớn trong công tác đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt với vai trò là một giáo viên Lịch sử ở phổ thông, cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của dân tộc là một nội dung rất quan trọng trong
chương trình lịch sử phổ thông nên việc nghiên cứu vấn đề này sẽ rất hữu ích cho

tác giả trong quá trình giảng dạy, góp phần nâng cao nhận thức về lịch sử cuộc
kháng chiến chống Mỹ và có thêm nhiều cơ sở tư liệu cung cấp cho bài giảng nhằm
nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề “Việt Nam
trong quan hệ quốc tế thời kì 1954 – 1975” để làm đề tài luận văn của mình.
6
6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy đây là vấn đề thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước. Đã có một số công trình nghiên
cứu của các học giả trong và ngoài nước ít nhiều đề cập đến vấn đề này ở những
khía cạnh và mức độ khác nhau.
Trước hết phải kể đến một số cuốn sách chuyên khảo về lịch sử ngoại giao
Việt Nam như: “Mặt trận ngoại giao thời kì chống Mỹ cứu nước 1965 – 1975” của
Nguyễn Duy Trinh (Nhà xuất bản Sự thật, 1979), “Năm mươi năm ngoại giao Việt
Nam Tập I” của Lưu Văn Lợi (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1996), “Ngoại giao
Việt Nam 1945 – 2000” của Đại sứ Nguyễn Đình Bin (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, 2002), và nhiều cuốn sách viết về đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời
kì kháng chiến chống Mỹ. Các cuốn sách này đã cho ta thấy cục diện quan hệ quốc
tế, đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn liên quan trực tiếp tới vấn đề Việt Nam và
nghệ thuật đấu tranh ngoại giao của Việt Nam trong thời kì 1954 – 1975.
Cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” của Bộ
Ngoại giao (Nhà xuất bản Sự thật, 1981) đã cho chúng ta hiểu sâu sắc về mối quan
hệ Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam trong con mắt của những nhà lãnh đạo
Trung Quốc và chiến lược toàn cầu của Trung Quốc.
Cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước” gồm chín tập của Viện Lịch
Sử Quân sự Việt Nam, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành lần lượt qua
các năm 1995, 1996, 1997, 1999, 2001, 2002, 2007, 2008, 2009 đã cho chúng ta cái
nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phần nào giúp chúng ta
hiểu cục diện quốc tế sau năm 1954 và đường lối kháng chiến của Đảng trong tình

hình quan hệ quốc tế có sự biến đổi.
Cuốn “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, tác động của
những nhân tố quốc tế” của Nguyễn Khắc Huỳnh do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia phát hành năm 2010 cũng đã cho chúng ta cái nhìn khái quát về quan hệ quốc tế
sau chiến tranh thế giới thứ hai, và mối quan hệ giữa các nước lớn về vấn đề chiến
7
7
tranh Việt Nam. Qua đó thấy được đường lối đối ngoại chủ động, linh hoạt, sáng tạo
của Việt Nam trước những mối quan hệ quốc tế phức tạp thời kì 1954 – 1975.
Cuốn “Các nước XHCN ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ” của
Nguyễn Thị Mai Hoa (Nxb Chính trị quốc gia, 2013) đã phần nào cho chúng ta biết
rõ hơn sự ủng hộ về tinh thần, vật chất và mặt trái của sự ủng hộ đó của các nước
XHCN, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của
nhân dân Việt Nam và tác động của nó tới tiến trình cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có một số các công trình khác dưới dạng luận văn, bài nghiên
cứu đăng trên các tạp chí đề cập tới một vài khía cạnh của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954-1975) nói chung và vấn đề mà đề tài nghiên cứu nói riêng đã
được công bố. Tiêu biểu như:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Hồng Chuyên về đề tài “Quan hệ Liên Xô
– Việt Nam trong thời kì 1950 – 1975” (Trường ĐHSP Hà Nội, 2004) đã đề cập
đến quan hệ Liên Xô - Việt Nam qua từng giai đoạn của thời kì 1950 – 1975 trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – giáo dục. Qua đó giúp chúng ta có
cái nhìn toàn diện hơn về quan hệ Xô – Việt trong thời kì kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975)
Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thiều Hoa với đề tài “Trung Quốc với
cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam giai đoạn 1965 – 1975”
(Trường ĐHSP Hà Nội, 2008) đề cập tới chiến lược toàn cầu của Trung Quốc ở khu
vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, qua đó thấy được những toan
tính của Trung Quốc trong việc giúp đỡ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ giai đoạn
1965-1975 và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trên các mặt chính trị, kinh tế, quân

sự, giáo dục – đào tạo thời kì này.
Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Thùy Dương với đề tài “Vai trò của các nước lớn
trong hội nghị Genève về Đông Dương 1954” (Trường ĐHSP Hà Nội, 2010) đã
làm sáng tỏ quan điểm của các nước lớn về vấn đề Đông Dương nói chung và Việt
Nam nói riêng, sự tính toán, dàn xếp của các nước lớn tại Hội nghị Genève về vấn
đề Việt Nam và Đông Dương.
8
8
Luận văn thạc sĩ của tác giả Khương Thị Hà với đề tài “Chính sách của Liên
Xô đối với Việt Nam (1950-1991)” (Trường ĐHSP Hà Nội, 2010) đã hệ thống các
chính sách của Liên Xô với Việt Nam qua từng giai đoạn trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, quân sự, văn hóa và lí giải tại sao Liên Xô lại đưa ra những chính sách
khác nhau ở từng giai đoạn của thời kì 1950-1991.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn với đề tài “Mâu thuẫn Xô –
Trung và đối sách của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”
(Học viện Ngoại giao, 2014) đã đề cập một cách ngắn gọn quan hệ Việt – Xô, Việt
– Trung qua từng giai đoạn của thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-
1975) và quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc về vấn đề chiến tranh Việt Nam
(1954 - 1975). Qua đó thấy được mâu thuẫn Xô – Trung về vấn đề Việt Nam thời
kì 1954 – 1975 và đối sách của Việt Nam trong bối cảnh mâu thuẫn Xô – Trung
ngày càng lên cao.
Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành như: “Âm mưu của Trung Quốc từ Điện Biên Phủ đến Genève” của Nguyễn
Anh Thái (tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 6, năm 1983), “Một số tư liệu về cuộc
kháng chiến chống Mỹ” của Lưu Văn Trác (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 2, năm
1985), “Bàn về quan hệ Việt – Trung” của Phan Doãn Nam (tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 18, năm 1997), “Đấu tranh ngoại giao góp phần giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước” của Vũ Dương Huân (tạp chí Nghiên cứu Quốc tế
số 32, năm 2000), “Mặt trận ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước” của Lương Viết Sang (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4, năm 2003), “Cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi vĩ đại của bản lĩnh trí tuệ Việt Nam” của
Võ Nguyên Giáp (tạp chí Cộng sản số 8, năm 2005, “Tác động của chiến tranh Việt
Nam đối với việc Mỹ triển khai hoạt động “ngoại giao tam giác” với Liên Xô và
Trung Quốc giai đoạn 1969 – 1972” của Phạm Thị Thu Hương (tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử số 2, năm 2011),…Các bài viết này giúp chúng ta nhận thức về cuộc kháng
chiến chống Mỹ, về hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời kì 1954 – 1975,
9
9
đặc biệt là mối quan hệ Việt Nam với Trung Quốc, qua đó thấy được bản chất, âm
mưu của Trung Quốc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam không chỉ
được các học giả trong nước quan tâm mà còn nhiều các học giả nước ngoài tìm
hiểu và nghiên cứu. Hầu hết họ đều muốn tìm ra câu trả lời: Tại sao Việt Nam lại có
sức hút mạnh mẽ như vậy đối với các nước lớn? Tại sao Việt Nam – một dân tộc
nhỏ bé nghèo nàn lại có thể đánh thắng một đế quốc sừng sỏ nhất thế giới lúc bấy
giờ là Mỹ? Tiêu biểu trong số đó có tác phẩm: “Trung Quốc và việc giải quyết
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất” (Nhà xuất bản Thông tin lý luận, 1981)
của Francois Joyaux do Viện nghiên cứu Lịch sử những vấn đề quan hệ Quốc tế
hiện đại dịch. Trên cơ sở tiếp cận nhiều tư liệu quý trong các cơ quan lưu trữ của
Pháp, tác giả đã phân tích rất tỉ mỉ về chiến lược, âm mưu, thủ đoạn của Trung
Quốc đối với Việt Nam và vai trò vị trí của Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của
Trung Quốc. Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu khác như “Giải phẫu một
cuộc chiến tranh” của Gbriel Konco do Nguyễn Tấn dịch ( Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, 2003). Dựa vào những tài liệu mới và sự quan sát thực tế ở Washington,
Paris và những chuyến thăm Việt Nam, Gbriel Konco đã phân tích chi tiết, sâu sắc
các đối tượng trong cuộc chiến tranh, đồng thời trình bày triển vọng của chiến lược
chiến tranh hạn chế của Mỹ trong thế kỉ XX và lập luận rằng mọi sự can thiệp của
Mỹ trong tương lai chắc chắn sẽ phải chịu kết quả tai hại như ở Việt Nam. “Xung
đột và mâu thuẫn của Trung Quốc – Liên Xô trong vấn đề viện trợ Việt Nam chống
Mỹ” của Lý Đan Tuệ do Nguyễn Hữu Tâm (Viện Sử học) dịch (tạp chí Nghiên cứu

Liên Xô – Trung Quốc đương đại số 3, năm 2000), “Liên bang Xô Viết và chiến
tranh Việt Nam” của I.V. Gaiduck do Trần Quý Thắng và Trần Văn Liên dịch ( Nhà
xuất bản Khoa học và kĩ thuật, năm 1998),…
Nhìn chung đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề vị thế
của Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của các nước lớn hay quan hệ giữa một số
cặp nước lớn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam tại Hội nghị Genève (1954) và
trong cả thời kì 1954 – 1975, hay tình hình cách mạng Việt Nam (1954 – 1975)
10
10
dưới tác động của quan hệ quốc tế thời kì này….Tuy nhiên cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về vị thế của Việt Nam trong mối
quan hệ tổng thể, đa chiều, phức tạp giữa các nước lớn trên thế giới thời kì 1954 –
1975 và ảnh hưởng của mối quan hệ đó đối với tình hình cách mạng Việt Nam cũng
như lập trường quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết các mối quan hệ đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Việt Nam trong ý đồ, chiến lược toàn cầu
của các nước lớn và mối quan hệ giữa các nước lớn trong việc giải quyết vấn đề
Việt Nam thời kì 1954 – 1975.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không có tham vọng đề cập đến quan hệ quốc tế
của tất cả các nước, các tổ chức quốc tế thời kì 1954 – 1975 liên quan đến vấn đề
Việt Nam mà chủ yếu tập trung đi sâu nghiên cứu về vị thế của Việt Nam trong
quan hệ quốc tế chủ yếu là quan hệ giữa các nước lớn, quan điểm, thái độ và quan
hệ giữa năm nước lớn (Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc) trong việc giải quyết
vấn đề Việt Nam, và tác động của quan hệ quốc tế này tới cách mạng Việt Nam
trong khoảng thời gian từ sau khi Hiệp định Genève được kí kết (21/7/1954) đến
ngày miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975).
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu: Thông qua nghiên cứu đề tài này, luận văn góp phần làm rõ bản
chất của quan hệ quốc tế (chủ yếu là quan hệ giữa các nước lớn) thời kì 1954 –
1975 trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam chính là việc giải quyết các mối quan

hệ xung đột, mâu thuẫn, hòa hoãn, phức tạp giữa các nước lớn, làm rõ những toan
tính mang tính chiến lược của các nước lớn xung quanh việc giải quyết vấn đề Việt
Nam. Đồng thời qua đó, luận văn cũng góp phần làm rõ quan điểm, lập trường và
chính sách của Việt Nam trong việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn thời kì này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn sẽ
tập trung giải quyết những vấn đề khoa học sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trong
quan hệ quốc tế thời kì 1954 – 1975.
11
11
Thứ hai, quan điểm, thái độ và quan hệ của các nước lớn trong việc giải quyết
vấn đề Việt Nam thời kì 1954 – 1975.
Thứ ba, đặc điểm của quan hệ quốc tế thời kì này và tác động của nó tới cách
mạng Việt Nam.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu
Để giải quyết các nhiệm vụ, mục tiêu đề tài đặt ra, luận văn đã khai thác, sử
dụng các nguồn tài liệu sau đây:
- Các sách chuyên khảo về lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử ngoại giao Việt
Nam, về chiến tranh Việt Nam của các học giả trong và ngoài nước.
- Các sách tham khảo, giáo trình về lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử thế giới, và
lịch sử Việt Nam hiện đại.
- Các công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn, luận án, các bài viết đăng trên
các báo, tạp chí như: Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu Đông Nam Á, Lý luận
Chính trị, Châu Mỹ ngày nay, Thông tin tham khảo Quan hệ Quốc tế, Thông tin
Khoa học xã hội, Cộng sản, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Quốc tế, Tài liệu tham
khảo đặc biệt các vấn đề Quốc tế của Thông tấn xã Việt Nam…Ngoài ra, luận văn
còn tham khảo một số tài liệu trên các trang web: ,

* Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả lấy quan điểm biện chứng và quan
điểm lịch sử chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp
luận, đồng thời vận dụng chủ yếu hai phương pháp chuyên ngành là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh để giải quyết những vấn đề khoa học của đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống và tương đối toàn diện
về vị thế, lập trường của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, các mối quan hệ phức tạp
giữa các nước lớn thời kì 1954 – 1975 trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam.
12
12
Luận văn phần nào làm rõ những toan tính, ý đồ chiến lược của các nước lớn
trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam thời kì 1954 – 1975 và chủ trương, đối sách
của Việt Nam trong việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn thời kì này.
Luận văn bước đầu rút ra những đặc điểm của quan hệ quốc tế thời kì 1954-
1975 và đánh giá tác động ảnh hưởng của những mối quan hệ phức tạp này tới tiến
t„nh cách mạng Việt Nam thời kì 1954 – 1975 và những năm sau đó.
Luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác nghiên cứu và
giảng dạy về lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử Việt Nam hiện đại nói chung và lịch sử
cuộc kháng chiến chống Mỹ nói riêng cũng như thực tiễn công tác đối ngoại của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Các yếu tố ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc
tế thời kì 1954 – 1975. Chương này dài 29 trang, nội dung đề cập đến các yếu tố
ảnh hưởng tới vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế thời kì 1954 – 1975 như:
vị trí địa chính trị, địa kinh tế, yếu tố dân cư, truyền thống lịch sử của dân tộc Việt
Nam và quan điểm của năm nước lớn (Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Liên Xô) về
việc giải quyết vấn đề Việt Nam trước năm 1954.
Chương 2: Quan hệ giữa các nước lớn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam

thời kì 1954 – 1975. Chương này dài 28 trang, nội dung trình bày mối quan hệ giữa
các nước lớn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam thời kì 1954 – 1975. Cụ thể là
quan hệ: Mỹ - Anh – Pháp, Mỹ - Xô, Mỹ - Trung, Xô – Trung, Mỹ - Xô – Trung.
Chương 3: Đặc điểm của quan hệ quốc tế thời kì 1954 – 1975 và tác động của
quan hệ đó đối với tình hình cách mạng Việt Nam. Chương này dài 28 trang, với
chương 3, tác giả đã rút ra những đặc điểm của quan hệ giữa các nước lớn trong
việc giải quyết vấn đề Việt Nam thời kì 1975, qua đó phân tích tác động của những
mối quan hệ này tới công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, tới cuộc kháng chiến
chống Mỹ của miền Nam và tới tiến trình cách mạng Việt Nam sau năm 1975.
13
13
CHƯƠNG 1: CÁC YU T ẢNH HƯỞNG ĐN VỊ TH CỦA VIT NAM
TRONG QUAN H QUC T
1.1. Vị trí chiến lược của Việt Nam
1.1.1. Vị trí địa chính trị
Trong suốt chiều dài lịch sử từ xa xưa cho đến tận những năm 70 của thế kỉ XX,
Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc
khỏi các thế lực bành trướng xâm lược từ phương Bắc, phương Nam và phương Tây.
Nếu như trước thế kỉ XIX, các thế lực ngoại xâm tiến hành các cuộc xâm lược chủ
yếu nhằm khuất phục Việt Nam để biến Việt Nam thành một nước phụ thuộc (nước
chư hầu) hoặc đơn giản hơn là để chiếm đất mở rộng lãnh thổ thì ở thế kỉ XIX, XX,
mục đích xâm lược Việt Nam của các thế lực ngoại bang đã có nhiều thay đổi.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nổ ra vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã
làm thay đổi căn bản lực lượng sản xuất, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang một giai đoạn mới – giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Điều này quy
định mục tiêu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc vì lúc này các nước đế quốc đều có
nhu cầu lớn về thuộc địa. Đối với chủ nghĩa đế quốc, thuộc địa là thị trường tiêu thụ
hàng hóa, cung cấp nguồn nguyên liệu phục vụ nền công nghiệp chính quốc, nguồn
nhân lực rẻ mạt trong các cơ sở đầu tư tại chỗ và nguồn của cải vơ vét qua thuế
khóa, cướp bóc. Hơn nữa, thuộc địa còn là cơ sở để nâng cao vị thế của đế quốc trên

trường quốc tế. Vì vậy các nước đế quốc đẩy mạnh quá trình xâm chiếm thuộc địa.
Bên cạnh mục tiêu khai thác bóc lột tài nguyên thiên nhiên, sức người sức của ở
những thuộc địa, còn có mục tiêu khác quan trọng hơn là giành lấy những vùng đất
có vị trí chiến lược quan trọng ở những châu lục, những khu vực và mục tiêu này
ngày càng chiếm vị trí chủ đạo vào nửa sau của thế kỉ XX, đồng thời có ảnh hưởng
rất lớn đến tư tưởng chính trị của giới cầm quyền ở các cường quốc.
Người Pháp khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam cuối thế kỉ
XIX ngoài mục đích khai thác, bóc lột tài nguyên thiên nhiên, sức người sức của
phục vụ cho nền công nghiệp chính quốc còn có mục đích khác cũng rất quan trọng
14
14
là tìm được một bàn đạp để tiến vào Trung Hoa lục địa. Người Mỹ khi động viên
một lực lượng quân sự khổng lồ vào miền Nam Việt Nam cũng đưa ra lý do là
nhằm “ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản”, không cho phong trào
cách mạng “đe dọa thế giới tự do”, trước hết ở Đông Nam Á, sau là toàn bộ khu
vực châu Á. Không phải ngẫu nhiên các nước đế quốc lại chọn Việt Nam là khu vực
để thực hiện mục tiêu chính trị, quân sự của mình mà do Việt Nam thực sự có một
vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Thông thường, các yếu tố địa chiến lược bao
gồm vị trí địa lí và diện tích, dân cư, sức mạnh kinh tế, xã hội. Trước hết xét đến
yếu tố địa chính trị.
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ở vị trí gần như
trung tâm của khu vực Đông Nam Á, giữa Trung Quốc ở phía Bắc và tiểu lục địa
Ấn Độ bên phía Tây, nằm ngay ven biển Thái Bình Dương và không xa lối thông
sang Ấn Độ Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp
giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Cam-pu-chia ở phía Tây; phía Đông
giáp biển Đông. Trên bản đồ, dải đất liền Việt Nam mang hình chữ S, kéo dài từ vĩ
độ 23
o
23’ Bắc đến 8
o

27’ Bắc, dài 1.650 km theo hướng Bắc Nam, phần rộng nhất
trên đất liền khoảng 500 km; nơi hẹp nhất gần 50 km [92;tr.10]
Đối với toàn vùng Đông Nam Á, Việt Nam chiếm một vị trí đặc biệt. Việt
Nam nằm giữa một khu vực địa lý gọi là “Ấn Trung” bao gồm cả vùng rộng lớn
Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, bán đảo Mã Lai và dẫy quần
đảo hợp thành các nước Philippin, Indonesia. Ở vị trí đó, Việt Nam có ưu thế rõ rệt
là cái cầu nối liền Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, cũng là nơi mà
các dòng sông và các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam từ trung tâm
lục địa đổ ra và chấm dứt trên biển cả. Từ thời cổ đại, ở khu vực này được các nhà
hàng hải, các thương nhân mô tả là một vùng đất cực kì giàu có. Nhà văn và nhà
khoa học cổ La Mã Plinius đã viết rằng “đất ở đấy là đất vàng đất bạc” còn
Ptolemeus – nhà địa lí thành Alexandria – đã phác họa đồ Đông Nam Á như là một
bán đảo rộng lớn thuộc “Ấn Độ ngoại sông Hằng” và đặt tên là “ Lục địa đảo vàng”
[92;tr.10]. Do đó khu vực này là cái đích hướng tới của các thương nhân trên thế
15
15
giới và Việt Nam là vị trí quan trọng. Những di chỉ khảo cổ học ở Óc Eo đã chỉ rõ
điều đó. Các thuyền buôn từ nước Trung Hoa cổ đại, từ Java (Indonesia), Mã Lai và
sau này là các thương nhân phương Tây đều tìm đến vùng đất này. Việt Nam vì vậy
từ xa xưa đã là nơi giao lưu của các dân tộc, là trạm trung chuyển của các thuyền
buôn tới Việt Nam rồi từ Việt nam tỏa đi khắp các nước, các vùng khác trong khu
vực Đông Nam Á và đi theo đó là các nền văn hóa.
Với vị trí ven biển, ba mặt Đông, Nam và Tây – Nam trông ra biển, Việt Nam
trở thành cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho các nước Lào, Đông Bắc Thái Lan,
Campuchia và khu vực Tây Nam Trung Quốc. Cũng với vị trí ven biển, Việt Nam
án ngữ một phần quan trọng con đường thông thương chiến lược hàng hải từ Đông
Bắc Á xuống Đông Nam Á, từ Tây Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương và đường
hàng không trực tiếp giữa Thái Bình Dương và Nam Á. Ngay từ thế kỉ XVI, XVII,
XVIII…nhiều thương thuyền và hạm đội của Trung Quốc, Nga, Hà Lan, Anh, Bồ
Đào Nha, Pháp…đã từng ra vào trú chân ở một số hải cảng Việt Nam.

Vị trí địa chiến lược của Việt Nam còn tăng thêm tầm quan trọng do sở hữu
một đường bờ biển dài trên 3200 km ở biển Đông, trên bờ có nhiều hải cảng nước
sâu, trước hết là cảng Cam Ranh thuận lợi cho việc di chuyển, cập bến của các loại
tàu bè có diện tích và trọng lượng lớn. Trong thời đại mà các cường quốc đua nhau
tranh giành ảnh hưởng trong khu vực Thái Bình Dương, cảng này đã và đang là mối
quan tâm của nhiều nước, đặc biệt là các nước lớn.
Thiên nhiên phong phú và vị trí xung yếu của Việt Nam đã luôn luôn làm cho
các đế quốc thèm muốn. Lịch sử của dân tộc Việt Nam vì thế luôn gắn liền với lịch
sử chống ngoại xâm.
Tháng 10 năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa được thành lập, hệ thống XHCN được nối liền từ Âu sang Á. Điều
này khiến Mỹ lo sợ chủ nghĩa Cộng sản sẽ lan tràn từ Trung Quốc sang Việt Nam
và các nước Đông Dương tràn sang khu vực Đông Nam Á và toàn bộ châu Á. Theo
giới cầm quyền Mỹ, nếu coi Đông Nam Á là cái ổ khóa để mở cửa đi vào lục địa
châu Á từ phía Nam thì Việt Nam và Đông Dương là cái chìa khóa mở cửa vào gần
16
16
nhất. Vì vậy, vị trí của Việt Nam càng trở nên quan trọng và trở thành tâm điểm
trong các vấn đề quốc tế lúc bấy giờ.
Vì vậy, Mỹ ra sức trợ giúp, chia sẻ trách nhiệm với Pháp trong việc bảo vệ Việt
Nam và Đông Dương trước nguy cơ của chủ nghĩa Cộng sản, biến cuộc chiến tranh
Đông Dương của Pháp thành bộ phận của chiến tranh lạnh. Chiến tranh Triều Tiên nổ
ra, Trung Quốc đưa quân chí nguyện sang tham chiến để chống lại Mỹ. Ngay lập tức,
Mỹ xác định vấn đề Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương liên quan mật thiết với
nhau, tác động đến an ninh của Mỹ ở vùng Đông Á – Tây Thái Bình Dương. Mỹ xem
Trung Quốc là nguồn gốc đe dọa của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á. Thuyết
Domino đã xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng do tác động của Trung Quốc, bất
kì nước nào ở Đông Nam Á rơi vào kiểm soát của cộng sản sẽ dẫn tới nước đó đổ và
đi theo chủ nghĩa Cộng sản. Trong chiến lược của Mỹ, chiến tranh Đông Dương đã
trở thành một bộ phận của chiến tranh lạnh và Việt Nam trở thành tiêu điểm của

chiến tranh lạnh, là nơi đối đầu của hai khối Đông – Tây thời kì 1954-1975.
1.1.2. Vị trí địa kinh tế
Về mặt vị trí địa lý,Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có
nhiệt độ cao và độ ẩm lớn. Phía Bắc chịu ảnh hưởng của lục địa Trung Hoa nên ít
nhiều mang tính khí hậu lục địa. Biển Đông ảnh hưởng sâu sắc đến tính chất nhiệt
đới gió mùa ẩm của đất liền. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm không thuần nhất trên
toàn lãnh thổ Việt Nam, hình thành nên các miền và vùng khí hậu khác nhau rõ rệt.
Khí hậu Việt Nam thay đổi theo mùa và theo vùng từ thấp lên cao, từ Bắc vào Nam
và từ Đông sang Tây. Do chịu sự tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt
độ trung bình ở Việt Nam thấp hơn nhiệt độ trung bình nhiều nước khác cùng vĩ độ
ở Châu Á.
Việt Nam có thể được chia ra làm hai đới khí hậu lớn: (1) Miền Bắc (từ đèo
Hải Vân trở ra) là khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt (xuân-hạ-thu-đông),
chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc (từ lục địa châu Á tới) và gió mùa Đông
Nam, có độ ẩm cao. (2) Miền Nam (từ đèo Hải Vân trở vào) do ít chịu ảnh hưởng
17
17
của gió mùa nên khí hậu nhiệt đới khá điều hòa, nóng quanh năm và chia thành hai
mùa rõ rệt (mùa khô và mùa mưa) [92;tr.74]
Bên cạnh đó, do cấu tạo của địa hình, Việt Nam còn có những vùng tiểu khí
hậu. Có nơi có khí hậu ôn đới như tại Sa Pa, Đà Lạt; có nơi thuộc khí hậu lục địa
như Lai Châu, Sơn La.
Địa hình Việt Nam đa dạng: đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa, phản
ánh lịch sử phát triển địa chất, địa hình lâu dài trong môi trường gió mùa, nóng ẩm,
phong hóa mạnh mẽ. Địa hình thấp dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, được thể
hiện rõ qua hướng chảy của các dòng sông lớn.
Đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh thổ nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Địa
hình thấp dưới 1.000 m chiếm tới 85% lãnh thổ. Núi cao trên 2.000 m chỉ chiếm
1%. Đồi núi Việt Nam tạo thành một cánh cung lớn hướng ra Biển Đông, chạy dài
1400 km, từ Tây Bắc tới Đông Nam Bộ. Những dãy núi đồ sộ nhất đều nằm ở phía

Tây và Tây Bắc với đỉnh Phan-xi-phăng cao nhất bán đảo Đông Dương (3.143m).
Càng ra phía đông, các dãy núi thấp dần và thường kết thúc bằng một dải đất thấp
ven biển. Từ đèo Hải Vân vào Nam, địa hình đơn giản hơn. Ở đây không có những
dãy núi đá vôi dài mà có những khối đá hoa cương rộng lớn, thỉnh thoảng nhô lên
thành đỉnh cao; còn lại là những cao nguyên liên tiếp hợp thành Tây Nguyên, rìa
phía Đông được nâng lên thành dãy Trường Sơn.
Đồng bằng chỉ chiếm ¼ diện tích trên đất liền và bị đồi núi ngăn cách thành
nhiều khu vực. Ở hai đầu đất nước có hai đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu là đồng bằng
Bắc Bộ (lưu vực sông Hồng, rộng 16.700 km
2
) và đồng bằng Nam Bộ (lưu vực sông
Mê Kông, rộng 40.000 km
2
). Nằm giữa hai châu thổ lớn đó là một chuỗi đồng bằng
nhỏ hẹp, phân bố dọc theo duyên hải miền Trung, từ đồng bằng thuộc lưu vực sông
Mã (Thanh Hóa) đến Phan Thiết với tổng diện tích 15.000 km
2
[92;tr.35]
Sông ngòi: Với khí hậu nhiệt đới mưa nhiều, Việt Nam có một mạng lưới sông
ngòi dày đặc (2.360 con sông dài trên 10 km), chảy theo hai hướng chính là Tây Bắc-
Đông Nam và vòng cung. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Cửu Long tạo nên
hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm được bổ
18
18
sung tới 310 tỷ m3 nước. Chế độ nước của sông ngòi chia thành mùa lũ và mùa cạn.
Mùa lũ chiếm tới 70-80% lượng nước cả năm và thường gây ra lũ lụt [92;tr.76]
Đất đai, thực vật, động vật:
Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có tầng dày lớn, có độ phì cao, rất thuận lợi cho
phát triển nông, lâm nghiệp. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng đủ, mưa nhiều
cộng với địa hình đa dạng như trên đã làm cho Việt Nam có hệ thực vật phong phú,

các sản phẩm về nông, lâm, ngư nghiệp cũng hết sức đa dạng, đáp ứng được nhiều
nhu cầu của con người (khoảng 14 600 loài thực vật). Lãnh thổ Việt Nam lại ở giữa
ngã ba hội tụ của các hoàn lưu khí quyển, được nhiều hạt giống đưa từ Bắc xuống,
Tây sang, Nam lên nên có nhiều loại thực vật, trong đó nhiều loại gỗ quý như lim,
lát hoa, mun gụ, trai, cẩm lai, giáng hương…Sản phẩm phụ của rừng cũng rất phong
phú, có nhiều loại làm thực phẩm (măng, củ mài, nấm hương, mộc nhĩ); nhiều loại
làm nguyên liệu cho công nghiệp (cọ, móc, song, mây, màng tang, tram) và nhất là
có nhiều loại dược liệu làm thuốc quý…
Nếu thảm thực vật đa dạng phong phú bao nhiêu thì quần thể động vật cũng đa
dạng bấy nhiêu. Trong đó có nhiều loài thú quý hiếm được ghi vào Sách Đỏ của thế
giới. Hiện nay, đã liệt kê được 275 loài thú có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80
loài lưỡng thể, 2.400 loài cá, 5.000 loài sâu bọ. (Các rừng rậm, rừng núi đá vôi,
rừng nhiều tầng lá là nơi cư trú của nhiều loài khỉ, voọc, vượn, mèo rừng. Các loài
voọc đặc hữu của Việt Nam là voọc đầu trắng, voọc quần đùi trắng, voọc đen. Chim
cũng có nhiều loài chim quý như trĩ cổ khoang, trĩ sao. Núi cao miền Bắc có nhiều
thú lông dày như gấu ngựa, gấu chó, cáo, cầy ) [92;76]
Về khoáng sản và các tài nguyên trong lòng đất, dưới đáy biển, Việt Nam
cũng là một nước giàu có vô cùng. Không kể dầu mỏ và khí tự nhiên được xếp vào
loại nước có trữ lượng trung bình và đang được các nước khu vực và trên thế giới
chú ý tới, các khoáng sản trong lòng đất cũng khá phong phú. Việt Nam có đủ loại
khoáng sản, trong đó có một số mỏ có trữ lượng lớn như than, quặng, sắt, bôxít
v.v…[92;tr.50-51]. Cần phải chú ý rằng, đây là những khoáng sản rất cần thiết đối
19
19
với ngành công nghiệp đang phát triển như vũ bão ở các nước trên thế giới từ thập
niên 50 của thế kỉ XX trở đi, đặc biệt là các nước đế quốc lớn.
Bên cạnh đó, Việt Nam nằm bên bờ Biển Đông, có vùng biển rộng trên 1 triệu
km
2
. Bờ biển Việt Nam dài trên 3.260 km ở cả 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam,

trung bình khoảng 100 km
2
đất liền có 1 km bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này của thế
giới), không một nơi nào trên đất nước ta lại cách xa biển hơn 500 km. Ven bờ có
khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ các loại, chủ yếu nằm ở Vịnh Bắc Bộ, với diện tích
khoảng 1.700 km2, trong đó, có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km2, 23 đảo có diện
tích lớn hơn 10 km2, 82 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2 và khoảng trên 1.400 đảo
chưa có tên. Vì vậy, biển đã gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường.
Biển Đông được bao bọc bởi 10 nước và vùng lãnh thổ là Việt Nam, Trung
Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây, Malaixia, Singapo, Thái Lan, Campuchia và
Đài Loan. Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của
khoảng 300 triệu dân của các nước. Biển Đông được coi là con đường chiến lược về
giao lưu và thương mại quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, ở cả bốn
phía đều có đường thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua các eo biển.
Hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có các hoạt động
thương mại hàng hải rất mạnh trên Biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển
lớn nhất trên thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến
Biển Đông. Biển Đông (trong đó có vùng biển Việt Nam) có vị trí địa kinh tế và
chính trị quan trọng như vậy, nên từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong chiến
lược phát triển không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số
cường quốc hàng hải khác trên thế giới. Đó cũng là lý do quan trọng dẫn đến những
tranh chấp ở vùng biển này. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các
tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và
các nước trong khu vực. Biển Đông đóng vai trò là chiếc “cầu nối” cực kỳ quan
trọng, là điều kiện rất thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa các
20
20
nước trên thế giới với nhau, đặc biệt là với các nước trong khu vực châu Á - Thái

Bình Dương. Nắm được vị trí Việt Nam sẽ tạo cơ hội lớn để phát triển ngành kinh
tế biển – một ngành mang lại những lợi nhuận khổng lồ.
Do vị trí địa lý và nguồn tài nguyên phong phú, trên bình diện chính trị, quân
sự và kinh tế, từ lâu Việt Nam ở vào một vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu ở
Đông Nam Á và trở thành mục tiêu trong chiến lược toàn cầu của các thế lực xâm
lược bên ngoài.
1.2. Dân cư và truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam
1.2.1. Dân cư
Việt Nam là một đất nước có diện tích nhỏ ở khu vực Đông Nam Á nhưng lại
là nước có dân số đông và ngày càng tăng nhanh qua các năm. Năm 1945 có
khoảng 23 triệu người, năm 1960: trên 30 triệu người, năm 1965 gần 40 triệu người
[92;tr.109]. Dân số Việt Nam vào loại trẻ và có sự biến đổi nhanh chóng về cơ cấu
dân số theo nhóm tuổi. Số người trong độ tuổi lao động từ 15 – 59 tuổi chiếm tỉ lệ
cao (khoảng trên 50% tổng số dân) [92;tr.110]. Dân số đông cùng với cơ cấu dân số
trẻ tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Việt Nam trở thành nước có
nguồn lao động dồi dào và thị trường tiêu thụ lý tưởng. Cuối thế kỉ XIX đầu XX
cách mạng khoa học kĩ thuật nở rộ làm cho chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển.
Nhu cầu về thị trường tiêu thụ và nguồn nhân công rẻ mạt ngày càng lớn và đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, Việt
Nam trở thành mục tiêu xâm chiếm của các nước đế quốc.
Đặc biệt, do điều kiện tự nhiên đa dạng cũng đã quy định tính cách của con
người Việt Nam. Người Việt Nam có sức chịu đựng tốt, cần cù, chịu khó, lao động
khéo tay, ham học hỏi, tiếp thu nhanh. Những đặc tính này đáp ứng được nhu cầu
khai thác, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc.
Việt Nam là một đất nước có nhiều dân tộc (54 dân tộc) trong đó dân tộc Kinh
chiếm tỉ lệ lớn nhất (khoảng 84 % tổng dân số) [92;tr.104]. Phân bố dân cư không
đồng đều giữa các vùng miền, tập trung chủ yếu ở đồng bằng và châu thổ, ở miền
núi tập trung chủ yếu là các dân tộc thiểu số ít người [92;tr.112]. Sự phân bố dân cư
21
21

không đồng đều tạo ra sự phát triển không đồng đều về trình độ kinh tế, văn hóa,
mức sống chênh lệch lớn giữa các vùng miền. Cùng với đó, sự kết hợp của nhiều
thành phần dân tộc trong một quốc gia gây ra những khó khăn trong việc củng cố sự
thống nhất, an ninh, chính trị. Thêm vào đó, trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu
XX, trình độ dân trí của Việt Nam còn thấp (hơn 90% dân số mù chữ), dễ bị kích
động, bị lợi dụng về chính trị. Các nước có ý đồ xâm chiếm Việt Nam luôn lợi dụng
những yếu tố này để thực hiện âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam, dễ
bề xâm lược, cai trị và bóc lột.
1.2.2. Truyền thống lịch sử
Lịch sử dân tộc Việt Nam trong quá khứ đầy những biến động, thăng trầm,
gặp biết bao phong ba bão tố gắn liền với các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Con
người Việt Nam đã được thử thách qua nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
luôn có tinh thần chiến đấu anh dũng, sẵn sàng hi sinh vì đất nước, vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giành độc lập tự do.
Chỉ tính từ khi có sử liệu ghi chép rõ ràng thì từ cuộc kháng chiến chống quân
Tần xâm lược đến nay - 22 thế kỷ, dân tộcViệt Nam đã phải trực tiếp kháng chiến
suốt 13 thế kỷ, trong đó có khoảng 100 cuộc khởi nghĩa quy mô lớn và hơn 10 cuộc
kháng chiến để giữ nước. Trong thời cổ và trung đại, tất cả các triều đại phong kiến
thống trị ở phương Bắc (Tần, Hán, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh) Các
đế chế hùng mạnh lúc bấy giờ đều luôn tìm cách xâm lược và thống trị Việt Nam.
Khi không trực tiếp gây chiến tranh xâm lược thì họ cũng thường xuyên nhòm ngó,
khiêu khích, lấn chiếm, gây mất ổn định đối với Việt Nam. Song không một thời kì
nào nhân dân Việt Nam không vùng dậy đấu tranh để giành lấy độc lập tự do. Từ
đó, hình thành nên nét văn hóa giữ nước trong từng người dân Việt, với suy nghĩ
“nước mất thì nhà tan” và hình thành quyết tâm đánh giặc giữ nước của mọi tầng
lớp nhân dân, bất kể già, trẻ, gái, trai. Sang đến thời cận hiện đại sau này, truyền
thống đó tiếp tục được hun đúc, thể hiện rất rõ trong phong trào cách mạng 1930 –
1945 dẫn tới sự ra đời của nhà nước VNDCCH, cuộc kháng chiến chống Pháp 1945
– 1954 với thắng lợi Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, mở đầu quá trình sụp đổ
22

22
của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mĩ Latinh, góp phần
làm suy yếu lực lượng chủ nghĩa đế quốc.
Trong lịch sử đấu tranh chống xâm lược của dân tộc Việt Nam, các triều đại
phong kiến ở Việt Nam đã rất khéo léo trong việc xử lý mối quan hệ ngoại giao với
các nước láng giềng, ngay cả thời bình và thời chiến, đặc biệt là đối với Trung Quốc.
Do đối tượng đấu tranh của Việt Nam là một nước phong kiến lớn, nên muốn đạt
thắng lợi, không chỉ cần sự cứng rắn mà còn cần phải có sách lược khôn khéo, mềm
dẻo, hòa hảo. Do đó, hai mặt “cương” và “nhu” phải đi liền với nhau. Vì vậy, các
triều đại phong kiến Việt Nam tuy “nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng ở
trong thì xưng đế, mà đối với ngoài thì xưng vương”,bề ngoài tỏ ra “thần phục”, chịu
nộp cống, “phong hiệu” đều nhằm không để cho phong kiến phương Bắc kiếm cớ
xâm lược. Nhất là sau khi thua trận, do muốn gỡ thể diện của nước lớn, phong kiến
Trung Quốc thường gây lại chiến tranh để phục thù. Cho nên, sau mỗi lần chiến
thắng, các vị vua Việt Nam liền cử sứ sang cầu phong, xin nộp cống hoặc nêu vấn đề
trả tù binh…cốt xoa dịu sự căm tức, xấu hổ vì bại trận, mở đường thoát danh dự cho
vua Trung Quốc. Đây là nghệ thuật ngoại giao, lấy chính nghĩa lên hàng đầu để thu
phục nhân tâm, làm quân địch tâm phục, khẩu phục đúng như lời Nguyễn Trãi kết ra:
“ Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Những hành động ngoại giao của các nhà vua phong kiến Việt Nam lúc bấy
giờ không hề làm tổn hại các quyền lợi tối cao của dân tộc, trái lại còn tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân Việt Nam xây dựng lại đất nước, ổn định cuộc sống, tránh
được nạn binh lửa liên miên, khôi phục quan hệ hòa hiếu giữa hai nước. Đây là
truyền thống ngoại giao hòa hảo của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay, nhằm giữ
yên bờ cõi, nền độc lập tự chủ, chăm lo đời sống của nhân dân, tránh nạn binh đao,
khói lửa. Truyền thống này tiếp tục được phát huy ở những thế kỉ sau đó và cho đến
tận ngày nay. Điều này được biểu hiện rõ trong quá trình đấu tranh ngoại giao trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thời kì hiện đại.

23
23
1.3. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kì 1954-1975
Việt Nam là cầu nối giữa hệ thống XHCN với vùng Đông Nam Á đang sôi sục
cách mạng. Sau khi đánh thắng thực dân Pháp, Việt Nam là ngọn cờ cổ vũ mạnh mẽ
phong trào giải phóng dân tộc trên khắp các lục địa Á, Phi, Mĩ Latinh.
Trong lúc đó, cuộc Chiến tranh Lạnh đang lan rộng ra khắp châu Á, cuộc tranh
giành ảnh hưởng giữa hai phe XHCN và TBCN diễn ra gay go, ác liệt. Các nước đế
quốc thì lo sợ phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh sẽ ảnh hưởng đến
phong trào cách mạng ở châu Á và thế giới. Còn các nước Liên Xô, Trung Quốc thì
muốn thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát triển để cổ vũ phong trào cách
mạng thế giới, tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc, mở rộng phạm vi của hệ thống XHCN.
Như vậy Việt Nam trở thành nơi đọ sức giữa các cường quốc lớn. Vấn đề Việt Nam
không còn của riêng nhân dân Việt Nam mà trở thành một vấn đề trung tâm trên
bàn cờ chính trị thế giới. Điều này càng trở nên quan trọng do Việt Nam có một vị
trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á.
Từ cách nhìn trên đây, ngay sau khi Hiệp định Genève được kí kết và đi vào
thực thi, Mỹ đã thay chân Pháp, nhảy vào miền Nam Việt Nam, dựng lên chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng
được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam, thôn tính miền
Nam, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của Mỹ, lập một phòng tuyến ngăn chặn CNXH lan xuống Đông
Nam châu Á, đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn
của hệ thống XHCN ở Đông Nam Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi CNXH ở vùng này,
bao vây và uy hiếp các nước XHCN. Năm đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau đã theo
đuổi âm mưu ấy bằng các chiến lược thực dân kiểu mới (1954-1960) và chiến lược
chiến tranh thực dân kiểu mới với các chiến lược (chiến tranh đặc biệt, chiến tranh
cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh), đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền
Bắc làm dán đoạn và ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc Việt
Nam (1961-1975). Chiến tranh Việt Nam lúc này trở thành tâm điểm của thế giới,

của các quan hệ quốc tế, là nơi đọ sức điển hình của các lực lượng cách mạng và
24
24
phản cách mạng, là vấn đề thu hút quan tâm của toàn thể nhân loại, đặc biệt là các
nước lớn. Mỗi bước phát triển của cách mạng Việt Nam đều ảnh hưởng đến cục
diện quốc tế, đến phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Vì vậy, việc giải quyết
vấn đề Việt Nam được nhiều quốc gia chú ý tới, đặc biệt là các nước lớn và giữa hai
phe XHCN và TBCN. Các phe phái, các nước lớn đều muốn dùng Việt Nam làm
con bài để phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc mình. Song dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, độc lập, tự chủ của Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã vượt qua
mọi khó khăn, ứng phó linh hoạt, sáng tạo trước những quan hệ phức tạp để đi đến
thắng lợi cuối cùng, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước trong năm 1975.
1.4. Quan điểm của các nước lớn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam
trước năm 1954
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, so sánh tương quan lực lượng trên thế
giới thay đổi, phá vỡ mối quan hệ quốc tế trong thời kì trước đó. Tình hình lực
lượng và khả năng của các nước lớn trên chiến trường cũng có những thay đổi, thể
hiện trong phạm vi ảnh hưởng của các nước lớn trong quan hệ quốc tế.
Cuộc chiến tranh ở Đông Dương lúc này không chỉ liên quan đến thực dân
Pháp và nhân dân ba nước Đông Dương mà nó còn chịu tác động và ảnh hưởng của
các mối quan hệ quốc tế chồng chéo. Cuộc chiến tranh Đông Dương bị chi phối bởi
cuộc Chiến tranh Lạnh đang lan rộng toàn cầu. Các nước lớn trên thế giới đều ít
nhiều quan tâm đến khu vực này. Quan điểm của các nước lớn trong việc giải quyết
vấn đề Đông Dương nói chung và vấn đề Việt Nam nói riêng vừa có điểm chung lại
có điểm riêng tùy thuộc vào khả năng và mức độ liên quan của từng nước.
1.4.1. Quan điểm của Pháp
Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại cho nước Pháp một hậu quả nặng nề trên
tất cả các mặt, đặc biệt là về kinh tế. Tổn thất về kinh tế lên đến 1400 tỉ Phrăng,
tương đương với tổng giá trị sản xuất của nước Pháp trong vòng ba năm trước chiến
tranh. Diện tích thuộc địa bị thu hẹp đáng kể. Trong 5 năm đầu sau chiến tranh

(1945-1950), nước Pháp đứng trước nhiều khó khăn. Cũng như nhiều nước châu Âu
khác, Pháp phải nhận viện trợ của Mỹ qua kế hoạch “phục hưng châu Âu” do
25
25

×