LỜI MỞ ĐẦU
“Xóa đói giảm nghèo” là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải
quyết đói nghèo và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Năm 1989, Việt Nam chuyển
sang kinh tế thị trường, trong sanr xuất nông nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã
nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữa
vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương
thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn cịn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu
lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Đầu thaập niên 90, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em
síauy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xố
đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành
phong trào xố đói giảm nghèo.
Cho đến nay, con số tỷ lệ nghèo đói vẫn đang cịn là con số đáng lo ngại cho
đất nước. Là vấn đề quan tâm trăn trở của các nhà quản lý và các nhà hoạch định
chính sách phát triển. Trong đó, đói nghèo ở các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ là
vấn đề đáng quan tâm và nan giải hơn cả trong cơng tác xố đói giảm nghèo. Đây là
vùng có tỷ lệ đói nghèo cao và chiếm tỷ trọng cao trong đói nghèo quốc gia (chiếm
32.6%). Chính vì vậy em lựa chọn đề tài “Nghèo đói ở trung du miền núi Bắc Bộ
_ thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ tình trạng nghèo đói của “điểm nóng”
nghèo của Việt Nam. Bên cạnh đó vấn đề đặt ra là Chính phủ cần có các chính sách
và vùng cần phải lựa chọn hướng đi như thế nào để thực hiện mục tiêu xố đói
nghèo đến năm 2020 và phát triển trong những điều kiện mới.
Nội dung đề án môn học kinh tế phát triển này của em gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về nghèo đói.(Chương này tập trung nghiên cứu
bản chất và nội dung, nguyên nhân của nghèo đói).
Chương II: Thực trạng nghèo đói ở các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ.
(Chương này tập trung phân tích thực trạng nghèo đói của vùng và các yếu tố tác
động đến nghèo đói vùng).
Chương III: Giải pháp giải quyết nghèo đói ở các tỉnh trung du miền núi Bắc
Bộ đến năm 2020. ( Chương này em tập trung nghiên cứu và đưa ra các phương
hướng cho cơng tác giải quyết đói nghèo trên lãnh thổ vùng).
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
1
LỚP: KTPT47B_QN
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO ĐÓI
I.
KHÁI NIỆM NGHÈO ĐĨI
I.1. Khái niệm nghèo đói
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các
nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ
theo tình trạng phát triểnkinh tế xã hội và tập quán của địa phương.1
Nghèo đói nói chung là nghèo đói đa chiều, về thu nhập, giáo dục, y tế - sức
khoẻ, tài sản, tiếng nói,… Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này em sẽ đi sâu phân
tích về nghèo đói về thu nhập của khu vực trung du miền núi Bắc Bộ.
Nghèo đói tuyệt đối về thu nhập: là tình trạng khơng đảm bảo mức thu nhập
hay chi tiêu tối thiểu cần thiết để đáp ứng nhu cầu vật chất tối thiểu để con người có
thể tiếp tục tồn tại.
Nghèo đói tương đối về thu nhập: là mức thu nhập không đảm bảo mức tiêu
chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định.
I.2. Khái niệm ngưỡng nghèo
Hiện nay ở Việt Nam , có hai phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như
sau:
Phương pháp dựa vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người. Đây là
phương pháp được Tổng cục Thống kê sử dụng. Phương pháp này đã xác định hai
ngưỡng nghèo.
-
•
Ngưỡng nghèo là số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hàng
ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng tối thiểu.
•
Ngưỡng nghèo chung: ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho lương
thực và hàng hoá phi lương thực.
Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình. Phương pháp này được
Bộ lao động – Thương binh – Xã hội sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của
chương trình xố đói giảm nghèo quốc gia.
-
Theo phương pháp này, Bộ lao động – Thương binh và xã hội đưa ra ba mức
thu nhập bình qn tính làm ngưỡng nghèo cho ba vùng hiện nay là:
•
Vùng hải đảo và vùng núi nơng thôn: 80.000 đồng/ tháng/ người.
1
Được đưa ra trong hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng
Kốc, Thái Lan 9/1993
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
2
LỚP: KTPT47B_QN
•
Vùng đồng bằng nông thôn: 200.000 đồng/ tháng/ người.
•
Khu vực thành thị: 260.000 đồng/ tháng/ người.
I.3. Khái niệm khoảng cách nghèo
Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo
với ngưỡng nghèo. Được tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo.
Khoảng cách nghèo cho phép chúng ta thấy được mức sống dưới mức tối
thiểu của người nghèo. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng để chúng ta xem xét mức độ
nghèo. Cho biết mức cần cố gắng đạt được để có thể thốt nghèo.
Khi so sánh các nhóm dân cư trong cùng một nước, khoảng cách nghèo cho
biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm.
Theo cơ sở trên em rút ra đối tượng nghiên cứu của bài viết này là những
người dân có mức thu nhập dưới ngưỡng nghèo thuộc vùng trung du miền núi Bắc
Bộ.
II.
NGUYÊN NHÂN CỦA NGHÈO ĐÓI
II.1. Nguyên nhân do trình độ phát triển thấp kém của các nước đang
phát triển
Ở các nước đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật thường thấp kém.
Những người nghèo thường tập trung trong khu vực nông thôn, hoạt động trong khu
vực nông nghiệp và trong khu vực kinh tế thành thị phi chính thức.
Đặc biệt ở vùng núi, người dân cịn q nghèo nàn về thơng tin và hiểu biết
để có thể tự tạo cho mình thu nhập đủ để có thể trang trải co cuộc sống hàng ngày.
Khả năng đa dạng hoá thu nhập của họ càng trở nên khó khăn hơn.
Nhìn chung các hộ miền núi có quy mô dân số tương đối cao so với mức
trung bình của cả nước. Số nhân khẩu bình quân của các hộ miền núi trong điều tra
là 5,9 người, kể cả trẻ em dưới 10 tuổi và 0,4 người lớn trên 60 tuổi (so với mức
trung bình khu vực nơng thơn của cả nước là 4,47 người/hộ). Tuy nhiên, có sự khác
nhau khá lớn về quy mô của hộ và trình độ của chủ hộ đối với những nhóm có thu
nhập khác nhau.
Nhóm có thu nhập thấp thì có số nhân khẩu bình quân cao nhất và nhìn chung
thì chủ hộ có trình độ thấp nhất. Ngược lại, những hộ thuộc diện có thu nhập cao
hơn đều có ít con hơn và được giáo dục nhiều hơn. Tương quan này phần nào càng
chứng minh cho chúng ta thấy, trình độ thấp và đông con là những nguyên nhân
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
3
LỚP: KTPT47B_QN
chính gây ra thu nhập thấp của các hộ miền núi. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính gây ra đói nghèo và tụt hậu của các hộ gia đình nói chung.
II.2. Ngun nhân do bất bình đẳng trong thu nhập
Bất bình đẳng trong thu nhập là một trong những yếu tố rất quan trọng dẫn
đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển khác
cũng như ở các nước phát triển.
Chính sách phân phối thu nhập theo đóng góp là hồn tồn hợp lý. Song
trong thực tế, những người nghèo là những người thiếu tư liệu sản suất, thiếu cơ hội
tiếp xúc với giáo dục để nâng cao chất lượng, năng lực lao động của bản thân để có
cơ hội được tận dụng sức lao động bản thân mang lại thu nhập cho bản thân. Đó là
do sự bất cơng trong phân phối thu nhập và sở hữu tài sản. Lý do chính vì sao gần
20% dân số nhận được hơng 50% thu nhập là vì 20% dân số này có thể sở hữu,
kiểm soát trên 70% các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất
Có những nguyên nhân dễ nhận thấy, giải thích cho sự bất bình đẳng, chẳng
hạn như việc năng suất, tốc độ phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp luôn thấp hơn
trong công nghiệp và dịch vụ. Từ đó dẫn đến hệ quả thu nhập của cư dân nông thôn
và miền núi thấp hơn cư dân thành phố.
Ngoài ra là khoảng cách về tri thức, kỹ năng chuyên môn ngày càng lớn giữa
người được tiếp cận với giáo dục tốt và người khơng có cơ hội đó. Hai lý do giải
thích tại sao người dân tộc thiểu số lại chiếm tỷ lệ cao trong nhóm người nghèo đói
nhất xã hội:
Thứ nhất, lý do địa lý. Người thiểu số chủ yếu quần cư ở vùng nông thôn
hoặc miền núi. Nguồn thu nhập của họ phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp, đặc biệt
vào tài nguyên rừng. Trong khi đó, sở hữu đất rừng của họ bị hạn chế, và phần lớn
đất đai cũng đã sạch bóng cây rừng.
Thứ hai, lý do xã hội. Cho tới gần đây, người dân tộc thiểu số vẫn không
được tiếp cận rộng rãi với y tế và giáo dục cơ bản. Ở tất cả các nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ
em dân tộc đến trường đều thấp hơn nhiều so với trẻ em dân tộc Kinh. Chênh lệch
này còn rõ ràng hơn nữa ở trẻ em gái. Không đầy 30% người trưởng thành ở các
cộng đồng dân tộc thiểu số tốt nghiệp cấp hai, so với con số 50% ở người Kinh. Bất
bình đẳng thu nhập gia tăng có lẽ là điều khó tránh khỏi ở một nền kinh tế đang tăng
trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu khơng được kiểm sốt, nó sẽ tạo ra bất ổn xã
hội.
II.3. Do điều kiện tự nhiên
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
4
LỚP: KTPT47B_QN
Điều kiện tự nhiên là một lý do rất quan trọng dẫn đến sự nghèo đói của
người dân, đặc biệt là người dân miền núi. Nhưng người nghèo phần lớn là hoạt
động trong khu vực nơng nghiệp, trong khi đó, nông nghiệp lại phụ thuộc rất lớn
vào điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc sản xuất hay
những rủi ro do thiên nhiên mang lại cho họ như: lũ lụt, hạn hán… khiến thu nhập
chính của họ bị giảm sút hay hơn nữa là mất trắng và rơi vào tình trạng nghèo và
khó thốt ra được vì khơng được thiên nhiên ủng hộ trong sản xuất.
III.
NGHÈO ĐÓI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ
HỘI, MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA CHÚNG
III.1. Đói nghèo_ gánh nặng của tồn xã hơi
Đối với mọi xã hội, dù là đất nước phát triển hay đang phát triển thì nghèo
đói đều là một căn bệnh, một gánh nặng của quốc gia, của toàn xã hội. Đặc biệt với
Việt Nam và các nước phát triển nói chung tình trạng nghèo đói cịn là phổ biến và
với tỷ lệ cao. Hàng năm, xã hội mất những khoản tiền lớn lẽ ra có thể đầu tư vào
các khu vực sinh lời để hỗ trợ cho các đối tượng đói nghèo. Tuy nhiên đây chỉ là
một khoản chi chuyển giao, không làm mất đi khả năng của một quốc gia mà chỉ
chuyển lợi ích đến cho người nghèo( từ người giàu sang người nghèo). Song đứng
về khía cạnh của các nhà đầu tư thì đó thực sự là một khoản mất đi cơ hội đầu tư
sinh lời tạo GDP cho quốc gia.
Gánh nặng của xã hội còn thể hiện ở việc lãng phí nguồn nhân lực hay nguồn
lực. Thường người nghèo có trình độ thấp, hay họ khơng đủ để có thể xin được một
cơng việc với mức tiền cơng đủ để chi cho các nhu cầu cơ bản của bản thân. Như
vậy họ đang là những nguồn lực rảnh rỗi, lãng phí của xã hội. Thu nhâp của xã hội
bình quan phải cha sẻ cho những người có thu nhập thấp hơn làm mức thu nhập
bình quân đầu người quốc gia giảm, năng suất lao động bình quân giảm.
III.2. Vai trị của tăng trưởng kinh tế trong chương trình xố đói giảm
nghèo ở các tỉnh trung du miền núi phía Bắc.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi nền kinh tế. Và mục tiêu
cuối cùng của việc theo đuổi tăng trưởng là phục vụ cho lợi ích của con người, tăng
mức sống cuả con người. Vì vậy, tăng trưởng có vai trị đặc biệt quan trọng trong
xố đói giảm nghèo. Do đó tốc độ tăng trưởng nhanh là điều kiện cần thiết, không
thể thiếu cho công tác xố đói giảm nghèo. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh
song còn đòi hỏi phải làm thế nào để tất cả các tầng lớp dân cư nghèo khổ trong xã
hội đều được hưởng lợi từ tăng trưởng. Đồng thời đây là yếu tố duy nhất để giảm
tình trạng nghèo khổ, bởi nghèo khổ tuyệt đối khongo còn cách nào khác để khắc
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
5
LỚP: KTPT47B_QN
phục ngoài việc tăng thu nhập để giải quyết chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu để tồn
tại.
Theo WB đánh giá, các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã thành
công trong công tác giảm nghèo đói. Và để đánh giá thành cơng trong việc giảm
nghèo, người ta thường xem xét mức độ giảm tương ứng với mỗi % tăng trưởng
kinh tế. Theo nhận xét cuả WB, tiêu dùng bình quân đầu người tăng 1% sẽ làm
giảm trung bình 2% tỷ lệ nghèo đối vơi bộ phận dân cư sống với mức dưới
1USD/ngày, tỷ lệ này sẽ là 1.5% nều hệ số GINI là 0.6 và tỷ lệ gỉam này sẽ tăng gấp
đôi nếu hệ số GINI có giá trị là 0.22
Việt Nam đang hướng vào chiến lược tồn diện về tăng trưởng và xố đói
giảm nghèo đã được chính phủ phê duyệt ngày 21/05/2002. Chiến lược được coi là
chương trình hành động để thực hiện hướng tăng trưởng kinh tế và xố đói giảm
nghèo. Chiến lược cũng đã thể hiện được tính hài hồ giữa tăng trưởng kinh tế và
các vấn đề xã hội khác. Và hiện nay ở Việt Nam 1% tăng trưởng GDP/người đã
giảm 1.3% nghèo(giai đoạn 1993 - 1998) và giảm 1.2% ( giai đoạn 1998 - 2002).
III.3. Đói nghèo với phát triển xã hội
Nghèo đói khơng chỉ tác động đến kinh tế và cũng khơng chỉ xuất hiện dưới
góc độ kinh tế_ họ là người thiếu các nhu cầu cơ bản. Mà dưới góc độ xã hội nó
cũng có tác động rất lớn. Một xã hội được gọi là tiên tiến, là phát triển khi những
người sống trong cộng đồng có mức sống cao, có hiểu biết, có khả năng nhận thức
và tiếp thu kiến thức cũng như thế giới bên ngồi, có tầm nhìn xa trơng rộng. Trong
khi đó nghèo đói lại quy tụ những người có đầy đủ các yếu tố kéo xã hội giảm tốc
độ hay quay ngược lại trên con đường phát triển xã hội.
Nghèo đói là một căn bệnh của mọi xã hội. Dù là xã hội phát triển hay đang
phát triển đều tồn tại, tuy nhiên ta cần xem xét mức độ và tỷ lệ nghèo ở các xã hội là
khác nhau. Nghèo đói cũng là tác nhân gây ra khơng ít các tệ nạn xã hội: trộm cắp,
cờ bạc,…
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC
BỘ
I.
GIỚI THIỆU VỀ CÁC TỈNH TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ
I.1. Địa lý, khí hậu
2
Chính sách và chiến lược giảm bất bình đẳng và nghèo khổ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003, trang 99.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
6
LỚP: KTPT47B_QN
Vùng trung du miền núi Bắc Bộ bao gồm các tỉnh trung du và miền núi của
hai vùng kinh tế: Vùng Đông Bắc Bắc Bộ và vùng Tây Bắc. Với diện tích tồn vùng
khoảng 102961 km2 chiếm 31.1% diện tích toàn lãnh thổ quốc gia. Bao gồm 15
tỉnh: Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên và
Hồ Bình.
Lãnh thổ vùng có địa hình phức tạp, phía Đơng bắc là một miền núi và đồi
thấp, có thung lũng rộng với các dải núi vịng cung quy tụ về Tam Đảo. Phía Tây
bắc là hệ thống núi non trùng điệp rất khó khăn trong giao thơng vận tải.
Tuy nhiên Vùng lại có phí Bắc giáp với biên giới Trung Quốc với ba cửa
khẩu lớn: Móng Cái, Đồng Đăng, Lào Cai tạo điều kiện giao lưu, hội nhập khoa học
– công nghê, trao đổi phát triển kinh tế của vùng với quốc tế trên lục địa, có cảng
biển lớn: Hải Phịng, Quảng Ninh thuận tiện giao thương kinh tế quốc tế.
Đặc điểm khí hậu nổi bật của Vùng là có mùa đơng lạnh, kém ổn định do
ảnh hưởng của các đợt gió mùa đơng bắc tràn xuống. Do địa hình cao, ở phía Bắc,
lại có nhiều dãy núi dài chạy song song, nên vào mùa Đơng, vùng này có gió Bắc
thổi mạnh, nên rất lạnh. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thẻ
có lúc nhiệt độ xuống 0°C và có mưa tuyết thậm chí có tuyết trong những năm gần
đây. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió. Thời tiết ln có
biến chuyển phức tạp gây nhiều khó khăn cho sản xuất nơng nghiệp. Tuy nhiên tính
chất lạnh và khơ trong mùa đơng lại giúp ích cho vùng trong việc đa dạng hố các
sản phẩm nông nghiệp ôn đới và cận nhiệt đới có giá trị cao cho tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.
I.2. Kinh tế
Thế mạnh về khai thác, chế biến khoáng sản và thuỷ điện
Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có khống sản và trữ năng thuỷ điện
lớn nhất nước ta. Lòng đất ở đây giàu than, quặng sắt, mangan, đồng, chì, kẽm, đất
hiếm, apatit... Các mỏ than tập trung chủ yếu ở khu Đông Bắc (Quảng Ninh, Thái
Ngun). Khu Đơng Bắc cũng có nhiều mỏ kim loại, đáng kể hơn cả là mỏ sắt (Yên
Bái), thiếc và bơxit (Cao Bằng), kẽm – chì ở Chợ Điền (Bắc Kạn), đồng – vàng
(Lào Cai). Khoáng sản phi kim loại đáng kể có apatit (Lào Cai). Mỗi năm vùng kinh
tế này khai thác khoảng 600 nghìn tấn quặng để sản xuất phân lân.
Trữ năng thuỷ điện của hệ thống sông Hồng (11 triệu kW) chiếm hơn 1/3 trữ
năng thuỷ điện của cả nước. Riêng sông Đà chiếm gần 6 triệu kW. Nguồn thuỷ
năng lớn này đang được khai thác. Nhà máy thuỷ điện Thác Bà trên sơng Chảy có
cơng suất thiết kế là 110 nghìn kW. Nhà máy thuỷ điện Hồ Bình trên sơng Đà có
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
7
LỚP: KTPT47B_QN
cơng suất thiết kế là 1,9 triệu kW. Chính phủ hiện đang xây dựng một số nhà máy
thuỷ điện lớn như nhà máy thuỷ điện Sơn La (trên sông Đà) với công suất là 3,6
triệu kW, thuỷ điện Đại Thị (trên sơng Gâm) 250 nghìn kW…
Thế mạnh về cây cơng nghiệp, cây dược liệu, các loại rau quả cận nhiệt
và ơn đới
Trung du và miền núi phía Bắc có phần lớn diện tích là đất feralit trên đá
phiến, đá vơi và các đá mẹ khác, ngồi ra cịn có đất phù sa cổ (ở vùng trung du).
Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đơng lạnh, lại chịu ảnh hưởng
sâu sắc của điều kiện địa hình vùng núi. Bởi vậy, Trung du và miền núi phía Bắc có
thế mạnh đặc biệt để phát triển các cây cơng nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ơn
đới. Đây chính là vùng chè lớn nhất cả nước, với các loại chè thơm ngon nổi tiếng ở
Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Giang, Sơn La.
Ở các vùng núi giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, cũng như trên vùng
núi cao Hồng Liên Sơn, điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho việc trồng các cây
thuốc quý (tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả…) và các cây ăn quả như
mận, đào, lê. Ở Sa Pa có thể trồng rau mùa đông và sản xuất hạt giống quanh năm.
Thế mạnh về chăn nuôi gia súc: Trung du và miền núi phía Bắc có nhiều
đồng cỏ, chủ yếu là trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m. Các đồng cỏ thường
khơng lớn. Tuy vậy ở đây có thể phát triển chăn ni trâu, bị (lấy thịt và lấy sữa),
ngựa, dê. Bị sữa được ni tập trung ở cao nguyên Mộc Châu (Sơn La).
Thế mạnh về kinh tế biển: Trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, thế mạnh
về kinh tế biển của Trung du và miền núi phía Bắc sẽ càng được phát huy. Vùng
biển Quảng Ninh là một vùng biển rất giàu tiềm năng, một vùng đang phát triển
năng động cùng với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Ở đây đang
phát triển mạnh ngành đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, nhất là đánh bắt xa bờ. Du
lịch biển - đảo đang đóng góp đáng kể vào cơ cấu kinh tế, với quần thể du lịch Hạ
Long đã được xếp hạng vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới. Cảng Cái Lân
(một cảng nước sâu) đang được xây dựng và nâng cấp, tạo đà cho sự hình thành khu
cơng nghiệp Cái Lân…
Tốc độ tăng trưởng : Trong 5 năm 2001-2005, thực hiện Quyết định
186/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội
của các tỉnh trung du miền núi phía Bắc nhìn chung vượt mức mục tiêu đã đề ra.
Bình quân tổng sản phẩm của tồn vùng tăng xấp xỉ 12,5%/năm. Trong đó cơng
nghiệp tăng 18,6%/năm, nông lâm nghiệp tăng 7,38%/năm, dịch vụ tăng
14,9%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 4,07 triệu đồng/người/năm.
Về cơ cấu kinh tế: tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong đó tỷ
trọng nơng lâm nghiệp, thuỷ sản giảm, công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
8
LỚP: KTPT47B_QN
Cơ cấu kinh tế miền núi phía Bắc phân theo ngành kinh tế
(giá hiện hành- đơn vị %)
Nông Nghiệp
Năm 2000
44.78
Công nghiệp – Xây dựng
21.24
Dịch vụ
Nông Nghiệp
Năm 2003
33.98
40.07
Công nghiệp – Xây dựng
25.01
Dịch vụ
Nông Nghiệp
Năm 2005
34.92
36.78
Công nghiệp – Xây dựng
27.63
Dịch vụ
Nông Nghiệp
Năm 2006
35.59
35.04
Công nghiệp – Xây dựng
29.33
Dịch vụ
Nông Nghiệp
Dự kiến 2010
35.63
27.39
Công nghiệp – Xây dựng
Dịch vụ
36.10
36.51
Nguồn: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010
Định hướng phát triển đến năm 2010:
- Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng. Phấn đấu đến năm 2010 GDP
bình quân đầu người đạt từ 460-530 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến
năm 2010 dự kiến nông, lâm nhiệp và thuỷ sản khoảng 28,7-29,7%, công nghiệp và
xây dựng khoảng 27,4-27,8% và ngành dịch vụ khoảng 43-43,5%. Nâng tỷ lệ lao
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
9
LỚP: KTPT47B_QN
động qua đào tạo lên 25-30%. Tỷ lệ hộ nghèo của vùng Tây Bắc giảm từ 44% năm
2005 xuống còn 24%, vùng Đông Bắc từ 33% năm 2005 xuống 18% vào năm 2010
(theo Chuẩn nghèo mới).
-
Nhiệm vụ và giải pháp phát triển một số ngành, lĩnh vực:
Về nông nghiệp: Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi nhằm khai
thác tối đa lợi thế và hiệu quả tiềm năng kinh tế. Phát triển các vùng trồng cây công
nghiệp, các loại nông sản, các loại cây dược liệu, hương liệu, cây ăn quả, hoa, giống
rau phục vụ cho thị trường nội địa và xuất khẩu, phát triển chăn nuôi ở các vùng có
điều kiện tự nhiên và khí hậu thích hợp, nhất là chăn ni trâu, bị theo phương
pháp kỹ thuật mới. Bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên, rừng phịng hộ, mở rộng diện
tích rừng trồng, bảo đảm phòng hộ cho thủy điện lớn... Chú trọng phát triển trồng
rừng nguyên liệu giấy theo quy hoạch. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng gắn với
định canh, định cư; giải quyết đất ở, đất sản xuất ổn định lâu dài.
Về công nghiệp: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La,
các nhà máy thủy điện trên hệ thống sông Đà, sông Lô, phát triển các nhà máy thủy
điện nhỏ và vừa, các nhà máy nhiệt điện chạy than. Khai thác và chế biến có hiệu
quả các mỏ khoáng sản tại vùng. Xây dựng các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng,
hóa chất dựa vào khả năng tài nguyên trong vùng. Xây dựng các nhà máy giấy và
bột giấy phù hợp với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu.
Phát triển công nghiệp chế biến chè, sữa, thực phẩm khác... tiếp tục mở rộng,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
trên địa bàn. Chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền
thống.
Về dịch vụ: Ưu tiên đầu tư khai thác các điểm du lịch: Điện Biên Phủ, khu di
tích lịch sử Pắc Bó, Tân Trào, Định Hóa, Đền Hùng, Sa Pa, hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc,
lịng hồ Sơng Đà... với nhiều loại hình du lịch, nhất là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và
du lịch lịch sử văn hoá sao cho vừa phát triển du lịch gắn với bảo tồn các giá trị văn hoá
và tài ngun thiên nhiên và góp phần xố đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, mở rộng giao lưu qua biên giới, tập
trung xây dựng cơ sở hạ tầng các khu kinh tế cửa khẩu, hình thành và phát triển các
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, vận tải, bưu chính, viễn thơng
và cơng nghệ thông tin...
Phát triển hệ thống chợ nông thôn miền núi, chợ nơng sản. Khuyến khích các
thành phần kinh tế hợp đồng tiêu thụ nông sản, lâm sản cho nông dân và xuất khẩu.
(Trích: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 cụ thể hoá
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng)
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
10
LỚP: KTPT47B_QN
Mức sống bình quân của Thu nhập bình quân của hộ nơng thơn miền núi
phía Bắc cịn rất thấp (dù đã có sự tăng trưởng trong thời gian qua), chỉ đạt 2,32
triệu đồng/người/năm, bằng 65% so với mức bình quân cả nước.
Mức sống bình quân của người nghèo trong vùng 860 nghìn đồng/ người/
năm. Như vậy thấp hơn chuẩn nghèo áp dụng chung cho các vùng núi nông thôn
10.4% tương đương là 100.000 đồng/ người/ năm.
I.3. Dân số
- Dân số
Dân số trong Vùng khoảng 15.59 triệu người sống trong vùng đất rộng lớn.
Dân số vùng Trung du miền núi Bắc Bộ tương đối đa dạng. Ngồi phần nhỏ
người Kinh cịn có khoảng 30 dân tộc ít người hầu hết tập trung ở miền núi: Người
Thái, Mường, Dao, H’Mông… ở Tây Bắc, Người Tày, Nùng… ở Đông Bắc.
- Mật độ dân cư
Vùng là vùng có mật độ dân cư thưa nhất so với cả nước. Trung bình khoảng
150 người /km2. Đặc biệt thưa thớt ở vùng núi phía Tây bắc chỉ khoảng 50 người
/km2.
- Phân bố dân cư không đồng đều. Dân cư thường tâp trung đông ở các thị
xã, thị trấn nơi kinh tế tương đối phát triển và đặc biệt là các cửa khẩu, hải cảng, nơi
có điều kiện phát triển nhất vùng. Tuy nhiên ở các vùng núi sâu, thường là đồng bào
các dân tộc thiểu số sinh sống thì lại rất thưa thớt. Họ sống thành các thồn bản nhỏ
ở sâu trong rừng. Và họ chính là những người sống trong điều kiện thiếu thốn về
nhiều mặt với mức thu nhập dưới ngưỡng nghèo chung.
- Trình độ văn hố của dân cư trong vùng trung bình thấp hơn so với các
vùng khác. Trình độ trung bình ở các vùng núi sâu, nơi tập trung nhiều người nghèo
nhất chỉ có trình độ văn hố trung bình là lớp 3. Tỷ lệ người lớn biết chữ thấp nhất
trong cả nước: 50% so với tỷ lệ trung bình của cả nước là 90%. Tỷ lệ trẻ em nhập
học đúng tuổi cịn thấp mặc dù nhưng năm gần đây có cải thiện song vẫn còn là con
số quá thấp so với trung bình cả nước.
-
Tự cung tự cấp
Người dân do sống ở nơi thiếu thơng tin, trình độ phát triển thấp, trình độ
văn hố thấp, tầm nhìn ra bên ngồi cịn quá hạn chế cùng với điều kiện về giao
thông vận tải cịn q khó khăn, đặc biệt là với các đòng bào cùng núi, vùng sâu
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
11
LỚP: KTPT47B_QN
vùng xa. Vì vậy họ chủ yếu là tự cung tự cấp trong lãnh thỏ buôn bản với nhau,
trong vùng với nhau, ít có sự thơng thương với bên ngồi. Từ đó làm cho họ khơng
phát huy được những lợi thế của sản phẩm nông sản của họ,mặc dù trong thực tế,
trên thị trường bên ngoài các sản phẩm của họ thực sự có lợi thế cạnh tranh ở một
góc độ nào đó. Điều đó khiến cho họ khơng có khả năng đa dạng hố thu nhập.
I.3. Văn hố
Do tính chất đa dạng của dân cư trong vùng, đa dạng về dân tộc và địa hình
tập trung dân cư của các dân tộc nên mỗi dân tộc có những tập tục khác nhau, tạo
nên sự đa dạng phong phú về văn hóa cho vùng. Đây cũng là một lợi thế để quảng
bá về vùng cho phát triển du lịch văn hóa dân tộc.
II.
THỰC TRẠNG ĐĨI NGHÈO VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ
II.1. Tỷ lệ nghèo, khoảng cách nghèo ở trung du miền núi Bắc Bộ
Năm 1995, các tỉnh miền núi phía Bắc bao gồm 13 tỉnh thuộc hai khu vực
Đông Bắc và Tây Bắc của đồng bằng sông Hồng. Năm 1999, con số này lên tới 19
tỉnh do việc chia tách thành các tỉnh nhỏ hơn. Sau năm 1999, các tỉnh thuộc miền
núi phía Bắc khơng cịn những vùng đồng bằng xen kẽ như cách chia tỉnh và vùng
trước đó mà chỉ cịn những vùng có độ cao từ 500 mét đến 1.000 mét so với mặt
nước biển. Bình quân đất canh tác trên đầu người ở đây rất thấp, chỉ đạt 0,17
ha/người.
Tỷ lệ đói nghèo ở miền núi phía Bắc cịn rất cao với 44% (năm 2002). Trong
số mười tỉnh nghèo nhất Việt Nam (tỷ lệ đói nghèo từ 55% đến 78%) có các tỉnh
vùng núi phía Bắc. Theo chuẩn nghèo mới nêu trên, ước tính vào cuối năm 2005, cả
nước có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo, chiếm 26-27% số hộ của cả nước. Vùng có tỷ lệ
hộ nghèo cao nhất là Tây Bắc (62,3%), Thu nhập bình qn của hộ nơng thơn miền
núi phía Bắc cịn rất thấp (dù đã có sự tăng trưởng trong thời gian qua), chỉ đạt 2,32
triệu đồng/người/năm, bằng 65% so với mức bình quân cả nước.
Mức sống trung bình của người nghèo trong vùng trung du miền núi Bắc Bộ
thấp hơn nhiều so với chuẩn nghèo chung của cả nước hiện nay là 1.878.000 đồng/
người / năm. So với chuẩn nghèo chung tồn quốc thì mức sống trung bình của
người nghèo trong vùng chỉ bằng 45.8%, Như vậy khoảng cách nghèo tương đối so
với vùng cần theo đuổi là 100.000 đồng, nhưng khoảng cách nghèo so với ngưỡng
nghèo chung thì cịn rất lớn, tới 54.2% tương đương 1.018.000 đồng. Người nghèo
vùng trung du miền núi Bắc Bộ đang sống dưới mức chuẩn nghèo quá nhiều. Vì vậy
đây là vấn đề cần quan tâm chung cuả cả quốc gia.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
12
LỚP: KTPT47B_QN
Bên cạnh đó, Miền núi phía Bắc cịn nhiều vấn đề khó khăn khác như hạ
tầng cơ sở yếu kém, dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn, mức độ đơ thị hóa thấp và
kinh tế dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp.
Không chỉ thiếu đất canh tác trầm trọng, trình độ thâm canh của người dân
vùng này cũng rất thấp, chỉ đạt trung bình là 2,72 tấn/ha vào năm 1995 và 3,6 tấn/ha
vào năm 2000. Nền kinh tế ở đây chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh
bắt cá. Các hoạt động này chiếm tới 42% GDP của vùng, trong khi khu vực này chỉ
chiếm 24% GDP của cả nước. Trong tổng số 9 triệu đồng bào các dân tộc thiểu số
có tới 2 đến 3 triệu người sống bằng cách đốt nương làm rẫy. Nếu tính gộp cả số
người du canh định cư với số du canh du cư, con số này đã lên tới 7 triệu người vào
năm 1994. Tình hình du canh du cư đã gây ra nạn phá rừng nghiêm trọng. Giữa thập
niên 90, Việt Nam chỉ còn khoảng 9 triệu héc-ta rừng. Điều này có nghĩa là nước ta
đã mất khoảng 23,5 triệu héc-ta trong khi độ che phủ tối thiểu phải là 33,2% hay
khoảng 11 triệu héc-ta. Với tất cả những khó khăn về kinh tế, xã hội ở trên, các tỉnh
miền núi phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất so với các vùng khác trên cả nước.
II.2. Nghèo đói theo vùng
Vùng núi trung du miền núi Bắc Bộ cơ bản được chia ra làm hai vùng Đông
Bắc bộ và Tây Bắc. Mức độ nghèo đói và tỷ lệ nghèo đói trong hai vùng này cũng
có sự chênh lệch đáng kể.
Các tỉnh Tây Bắc có tỷ lệ nghèo đói cao hơn so với các tỉnh miền núi phía
Đơng Bắc. Một trong 10 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất nước có đến 6 tỉnh thuộc
vùng núi Bắc bộ, trong đó 4 tỉnh Tây Bắc có tỷ lệ cao hơn cả. Nghèo đói được phân
bố đơng đảo ở các tỉnh vùng núi cao. Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hồ Bình, Lào
Cai, Hà Giang là 6 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất vùng, con số này lên đến 55 –
78%. Các tỉnh vùng núi thấp và trung du tỷ lệ nghèo đói tuy cao so với trung bình
cả nước song thấp hơn nhiều so với các tỉnh vùng núi cao. Và đời sống của người
nghèo vùng núi cao cũng thấp hơn nhiều so với người nghèo vùng núi thấp và trung
du. Tức là khoảng cách nghèo mà họ cần theo đuổi để thốt nghèo cịn lớn hơn
nhiều so với vùng thấp. Đặt ra nhiều khó khăn hơn cho người nghèo và các nhà
chức trách trong việc đưa người nghèo thoát nghèo.
Ở các vùng miền núi, nơi tỷ lệ đói nghèo cịn rất cao, việc phát triển cây
trồng đảm bảo an ninh lương thực của các hộ là vấn đề thiết yếu. Nhờ sự hỗ trợ đầu
tư của Nhà nước, của tỉnh nên tỷ lệ các hộ miền núi có thể tự túc lương thực chiếm
khá lớn. Có tới trên 60% số hộ khảo sát có thể sản xuất lương thực để ni cả gia
đình trong cả năm. Mặt khác, 11% cho rằng lương thực của họ chỉ đủ trong 6 tháng
hoặc ít hơn.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
13
LỚP: KTPT47B_QN
Tuy nhiên điều này khơng có nghĩa là có tới 11% số hộ bị đói 6 tháng cịn lại
vì chỉ tiêu này chỉ cho chúng ta thấy mức độ tự cung tự cấp lương thực của hộ.
Chẳng hạn như, một gia đình có khoản thu nhập phi nơng nghiệp ổn định, ví dụ giáo
viên hay cán bộ Nhà nước, có thể khơng sản xuất ra nhiều lương thực cho mình,
nhưng họ vẫn có khả năng bảo đảm đủ lương thực.
II.3. Nghèo đói theo dân tộc
Vùng có khoảng 30 dân tộc khác nhau sinh sống ở các vùng khác nhau. Các
dân tộc ít người thường là các dân tộc có tỷ lệ nghèo đói cao. Do tập tục sinh hoạt
và sinh sống của các dân tộc thường là sống ở nơi heo hút ít người hoặc nơi có độ
cao mà họ cho là phù hợp với văn hóa và đời sống của họ. Song đó lại là nơi gây
nhiều khó khăn cho họ trong việc cải thiện đời sống. Có những dân tộc ít người
sống tập trung trên một vùng sâu, đời sống của tồn bộ dân tộc trong tình trạng
nghèo.
III.
CÁC CHÍNH SÁCH XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO VÙNG TRUNG DU MIỀN
NÚI BẮC BỘ
Những năm qua Đảng và Nhà nước đã tiến hành song song việc đầu tư nhiều
mặt cho đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu
số vùng cao, vùng sâu, vùng xa nói chung bằng các chương trình cụ thể như
Chương trình 135, 773, 120, 134... nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giúp
đồng bào xóa đói, giảm nghèo. Chính quyền các tỉnh vùng núi phia Bắc đã phối hợp
chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tốc độ điều tra tài nguyên đất, nước,
rừng, khoáng sản..., trong đó tập trung vào việc quy hoạch, phân bố lại đất canh tác,
đất ở thuận tiện cho việc sinh sống, sản xuất của bà con. Các cụm dân cư tập trung
được hình thành với điều kiện có đủ đất, gần nguồn nước, thuận tiện cho việc mở
đường giao thông, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
III.1. Chương trình mục tiêu quốc gia về xố đói và giảm nghèo
Từ năm 2001, Chương trình mục tiêu quốc gia về xố đói giảm nghèo và
việc làm đã được hình thành. Từ 2002 việc triển khai thực hiện Chiến lược toàn
diện về tăng trưởng và xố đói giảm nghèo đã được tăng cường và lồng ghép vào
các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội hàng năm và 5 năm.
Nhóm các dự án Xố đói giảm nghèo chung:
+ Dự án Tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
14
LỚP: KTPT47B_QN
+ Dự án Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư.
+ Dự án Xây dựng mơ hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt (vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng
ATK, vùng sâu đồng bằng sơng Cửu Long).
- Nhóm các dự án Xố đói giảm nghèo cho các xã nghèo nằm ngồi chương
trình 135:
+ Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo.
+ Dự án Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo.
+ Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm cơng tác xố đói giảm nghèo và cán
bộ các xã nghèo.
+ Dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo (bao
gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại dân cư
theo quy hoạch; các dự án của chương trình 773 cũ thuộc ngành nơng nghiệp.
+ Dự án Định canh định cư ở các xã nghèo. (Các xã đặc biệt khó khăn được
tiếp tục thực hiện các dự án thuộc chương trình 135 "Phát triển kinh tế - xã hội các
xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng
xa" - chương trình Xố đói giảm nghèo đặc biệt của Chính phủ - do ủy ban Dân tộc
và Miền núi là cơ quan thường trực.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xố đói giảm nghèo vừa đáp ứng nhu cầu
của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân nghèo trung du miền núi Bắc Bộ,
vừa phù hợp mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.Trong những
năm qua, Người nghèo trong vùng không những được hỗ trợ trong sản xuất, cải
thiện mức sống, còn được giúp đỡ chăm sóc sức khỏe, học hành, tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản.
Phát triển cơ sở hạ tầng, các trung tâm cụm xã, buôn làng, quy hoạch bố trí lị
dân cư đã cơ bản tốt. Đẩy mạnh phát triển nơng, lâm nghiệp. Góp phần lớn trong
cơng tác từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống vật chất và tinh thần giữa các
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và giữa các đồng bào dân tộc thiểu số trong vùng.
Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho hầu hết các hộ gia đình, cá nhân
và tổ chức ở vùng các dân tộc thiểu số, nơi mà người nghèo còn tập trung chủ yếu.
Nâng cao năng lực, nhận thức từ các ngành, cá tổ chức và các người dân về
xố đói giảm nghèo, tăng cường và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm cơng
tác xố đói giảm nghèo ở cá xã, huyện đặc biệt là các tỉnh vùng sâu vùng xa. Tăng
cường trang bị kiến thức pháp luật cho người nghèo. Huy động sự tham gia của các
tổ chức, đoàn thể trong thực hiện chương trình quốc gia về xố đói và giảm nghèo.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
15
LỚP: KTPT47B_QN
Trong những năm gần đây, chương trình đã thực hiện khá tốt các mục tiêu
đặt ra bằng các chương trình hành động thiết thực. Chương trình đầu tư vào giáo
dục nhằm tăng trình độ văn hóa và xố mù chữ cho người nghèo trong vùng đã đạt
thành quả đáng kể. Cụ thể được thực hiện kết hợp với chương trình 135 đã cung
một lượng trường học đáp ứng nhu cầu cơ bản về cơ sở hạ tầng cho giáo dục. Hàng
loạt các cơng trình điện, đường, trường, trạm… được đưa vào phục vụ bà con dân
tộc và các xã nghèo đói, đặc biệt khó khăn trong vùng.
Chương trình quốc gia về xố đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 thực
hiện ở vùng núi Bắc Bộ đã rất thành công, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo từ 65% năm
2001 xuống cịn 58% vào cuối năm 2004, và còn 52% năm 2007.
Bên cạnh những tích cực mà chương trình mang lại cho vùng, chương trình
mục tiêu quốc gia về xố đói giảm nghèo thực hiện trong vùng gặp khơng ít những
nhược điểm khiến chương trình chưa thực sự là hiệu quả như kế hoạch đề ra. Như:
Do đầu tư dàn trải, triển khai chậm, chưa đồng bộ, thiếu phối hợp và liên kết
đã làm hiệu quả nhiều chương trình chưa cao, tiến độ thực hiện các dự án sử dụng
vốn Nhà nước cịn rất chậm, các thơng tư liên tịch của 5 bộ hướng dẫn các địa
phương triển khai, nhưng vẫn chưa đồng bộ.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, trung du và miền núi phía Bắc chưa có
sản phẩm cơng nghiệp mũi nhọn mang tính chiến lược, quy mơ sản xuất manh mún,
công nghiệp nông thôn chậm phát triển, sự phối hợp ngành, vùng chưa chặt chẽ,...
Nguyên nhân có nhiều nhưng sự bất cập về cơ chế, chính sách quy hoạch được xác
định là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự chậm phát triển của công nghiệp
ở địa bàn này.
Rất hy vọng trong thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo quyết liệt những vấn đề
trên; các bộ ngành có sự phối hợp đồng bộ với nhau và với các địa phương để chính
sách và đồng vốn của Nhà nước đem lại hiệu quả cao hơn, chủ trương và mục tiêu
của Đảng sớm thành hiện thực, khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng được rút
ngắn trong thời gian gần nhất.
III.2. Chương trình 135
Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vẫn đang tiếp
tục được thực hiện và đóng góp lớn trong việc nâng cao đời sống đồng bào các dân
tộc thiểu số nói chung và đồng bào miền núi Bắc Bộ nói riêng.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
16
LỚP: KTPT47B_QN
Chương trình đã đảm bảo đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng lợi từ thành
quả của quá trình phát triển. Đưa các cơng trình thiết yếu về các thơn bản, xã tương
đối kịp thời và đẩy đủ.
Sau 8 năm (1999-2007) thực hiện Chương trình 135 (Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới
và vùng sâu, vùng xa),chương trình đã xây dựng được 8.208 cơng trình; trong đó có
3.950 cơng trình giao thơng, 1448 cơng trình thuỷ lợi, 2.810 trường học...
Cùng với việc lồng ghép các chương trình, dự án khác, trên địa bàn Chương
trình 135 có 70% số xã đã xây dựng 5 hạng mục cơng trình chủ yếu: đường, điện,
trường học, thủy lợi nhỏ, trạm xá và 56% số xã đã dựng đủ 8 hạng mục theo quy
định. Điều đặc biệt là chỉ riêng các cơng trình thuỷ lợi đã tăng năng lực tưới cho
hơn 20.000ha đất canh tác và gần 5.000ha đất được khai hoang. Nhờ đó, giúp các xã
đặc biệt khó khăn ở vùng trung du miền núi Bắc Bộ ổn định lương thực và nâng
mức bình quân lương thực từ 290kg lên 384kg/người/năm; thậm chí có nhiều xã đã
lên đến 500 kg/người/năm.
Những cơng trình này đã góp phần làm thay đổi nhanh và cơ bản bộ mặt
nông thôn, miền núi của các xã thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 tại vùng.
Đây thực sự là lực lượng vật chất to lớn, góp phần thúc đẩy nhanh cơng tác xố đói
giảm nghèo cho vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo trung bình
ở khu vực đặc biệt khó khăn chỉ cịn khoảng 52% so với trước năm 1998 (60 72%); về cơ bản khơng có hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 10-13% hộ nghèo.
Tuy nhiên, Chương trình 135 đã khơng tránh khỏi những hạn chế. Đó là việc
thực hiện chưa tốt nguyên tắc dân chủ, cơng khai, xã có cơng trình, dân có việc làm,
nhất là ở các tỉnh Tây Bắc. Tại một số thôn bản, công tác quy hoạch chưa tốt; việc
lập báo cáo đầu tư, thiết kế, dự toán, giải ngân và thanh tốn cơng trình cịn chậm,
và đặc biệt chậm ở Lai Châu, Bắc Kạn, Điện Biên và Hà Giang. Việc phân cấp quản
lý đầu tư cũng chưa mạnh, nhất là giao xã làm chủ đầu tư. Đến nay, một số tỉnh cịn
tùy tiện trong bố trí ngân sách Trung ương cho một số xã với mức quá thấp như một
số xã của tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lạng Sơn... Q trình thực hiện, cơng tác quản lý
tài chính, chất lượng cơng trình có nơi chưa tốt, một số cơng trình khơng phát huy
hiệu quả, hư hỏng phải sửa chữa tốn kém, ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội. Bộ
trưởng Ksor Phước cho rằng, khâu yếu kém nhất vẫn là việc quản lý các nguồn vốn
đầu tư trên địa bàn Chương trình 135. Điều này làm cho việc đánh giá hiệu quả tổng
hợp, chất lượng cơng trình và mức độ thất thốt vốn rất khó, khơng tránh được tiêu
cực.
Chương trình mới chỉ tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, do đó, chưa thể
đưa đồng bào vượt qua được đói nghèo. Tại nhiều địa phương, tỷ lệ đói nghèo cịn
cao (phần lớn các xã thuộc Chương trình 135 cịn tỷ lệ đói nghèo 30%, con số này ở
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
17
LỚP: KTPT47B_QN
nhiều xã lên tới 50-60%!). Vì thế, kết quả đạt được chưa toàn diện, chưa vững chắc,
dễ bị tái nghèo.
Cho đến thời điểm này, tỷ lệ sử dụng trạm y tế xã ở miền núi phía Bắc vẫn
thấp nhất trong cả nước. Theo khảo sát của Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ Y tế, trung
bình mỗi trạm y tế ở vùng núi phía Bắc chỉ khám, chữa bệnh cho khoảng 10 người
dân/ ngày, con số này chỉ bằng một nửa ở vùng đồng bằng. Khảo sát này cũng cho
thấy tại 7 tỉnh miền núi, khó khăn khu vực Tây Bắc, hầu hết các bệnh viện tuyến
huyện, tỉnh đều rất thiếu trang thiết bị y tế. Cụ thể, theo danh mục Bộ Y tế quy định
về trang thiết bị bệnh viện tuyến huyện phải có trên 200 loại nhưng trên thực tế
nhiều nơi chỉ có vài thiết bị hoạt động tốt, còn lại đều là thiết bị cũ, lạc hậu và
không đồng bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng điều trị.
III.3. Các chương trình, chính sách xố đói giảm nghèo khác có liên
quan và tác động tích cực đến cơng tác xố đói giảm nghèo vùng trung du
miền núi Bắc Bộ
Công tác định canh, định cư đối với đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đời sống nhân dân vùng cao chậm phát triển,
trong đó có cơng tác định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số chưa tốt.
Phương thức sản xuất lạc hậu, phổ biến vẫn là phát, đốt rừng làm nương rẫy. Sau
vài năm trồng tỉa cây lương thực, đất đai bị bạc màu, năng suất thấp, người dân lại
kéo đi nơi khác, tiếp tục phá rừng, đốt nương làm rẫy mới. Tình trạng ấy diễn ra từ
bao đời nay dẫn đến nguồn nước bị cạn kiệt, rừng đầu nguồn bị tàn phá không đủ
sức ngăn những cơn mưa lớn, những trận lũ quét làm cho đất đai bạc màu là điều
khó tránh khỏi.
Trước thực trạng trên, Chính phủ đã có chương trình và chính sách khuyến
khích định canh định cư. Tuy nhiên, cơng tác định canh, định cư còn nhiều bất cập
như đầu tư thiếu đồng bộ, số hộ cần định canh, định cư còn nhiều. Khi sắp xếp, bố
trí dân cư chưa thỏa đáng các yếu tố, đặc điểm về văn hóa, điều kiện về đất sản
xuất, nước sinh hoạt... nên đồng bào không thật sự yên tâm với nơi ở mới. Hoàn
chỉnh phương án phát triển sản xuất ở các khu tái định cư của đồng bào phải di
chuyển phục vụ xây dựng các cơng trình thủy điện lớn như Sơn La, Tun Quang.
Bộ cũng đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi, nâng cao diện tích được tưới
tiêu, cải tạo môi trường, cải tạo đất... Riêng các tỉnh Tây Bắc đã xây dựng được 15
nghìn cơng trình thủy lợi, với 4.200 km kênh mương tưới nước cho 84.500 ha lúa
chiêm, 139.160 ha lúa mùa, hàng nghìn héc-ta rau màu và cấp nước sinh hoạt cho
nhân dân vùng cao.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
18
LỚP: KTPT47B_QN
Để giải quyết cơ bản vấn đề đói nghèo ở miền núi, vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số, Nhà nước và các địa phương phải đặc biệt quan tâm làm tốt cơng tác
quy hoạch, bố trí sắp xếp khu dân cư, thực hiện định canh, định cư vững chắc. Lồng
ghép các nguồn vốn để đầu tư có trọng điểm, xây dựng các mơ hình về định canh,
định cư như các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái đã làm khá tốt. Đẩy mạnh việc
khai hoang các diện tích ở vùng thung lũng, phát huy sự sáng tạo của đồng bào dân
tộc thiểu số trong việc phát triển diện tích ruộng bậc thang, vừa bảo đảm tăng diện
tích lúa nước, vừa chống xói mịn... Đó là những giải pháp khả thi, đã thành công ở
nhiều vùng, cần được nhân rộng ở địa bàn các tỉnh vùng cao.
Thời kỳ đổi mới đem lại những kinh nghiệm quý báu cho công tác vận động
định canh, định cư. Những nhân tố kỹ thuật mới như: giống, phân hóa học, thuốc
trừ sâu... đã cho phép một số người dân miền núi không chỉ thâm canh trên ruộng
nước mà cả trên nương rẫy. Mặt khác, cơ chế thị trường duy trì đều đặn các hoạt
động trao đổi kinh tế giữa miền núi và miền xuôi là yếu tố kích thích tới nền sản
xuất nơng nghiệp miền núi. Các loại lương thực như: ngô, khoai, sắn hay đậu tương
đã trở thành hàng hóa đem lại cơ hội phát triển bền vững cho nông nghiệp vùng đất
dốc. Chính sách đầu tư phát triển ưu tiên cho miền núi của Nhà nước như: các
chương trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển kết cấu hạ tầng lồng ghép với dân số, y
tế và giáo dục tạo nên những hiệu quả tổng hợp, làm thay đổi đáng kể tình hình kinh
tế, xã hội nơng thơn miền núi.
Hay các chương trình hỗ trợ vốn cho nông dân, người nghèo các tỉnh trung
du miền núi phía Bắc để phát triêể chăn ni, trồng trọt, khôi phục ngành nghề cũng
được quan tâm thực hiện với các hình thức chovay ưu với lãi suất ưu đãi, ưu đãi
thời hạn trả lãi, trả gốc… Con số này chiếm không nhỏ trong Ngân sách nhà nước.
Cụ thể là hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội phát triển rộng rãi trong vùng, về
đến từng xã vùng cao. Và các tổ chức tín dụng về từng thơn bản tư vấn và cho vay
giúp phát triển ngành nghề, nâng cao đời sống các thơn bản khó khăn vùng cao Tây
Bắc.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT NGHÈO ĐÓI Ở TRUNG DU
MIỀN NÚI BẮC BỘ
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
19
LỚP: KTPT47B_QN
I.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO VÙNG
TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ ĐẾN NĂM 2020
I.1. Định hướng cơng tác xóa đói giảm nghèo ở vùng Trung du miền
núi Bắc Bộ đến năm 2020
Tập trung thực hiện tốt chương trìnhmục tiêu quốc gia về giảm nghèo,
chương trình 135 và các chương trình mục tiêu khác. Thường xuyên củng cố thành
quả xố đói giảm nghèo trên vùng. Để thực hiện mục tiêu trên cần sử dụng nguồn
lực của nhà nước và toàn xã hội. Đặc biệt quan tâm đến các nghèo ở các dân tộc ít
người, vùng sâu vùng xa.
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, hỗ trợ giúp đào
tạo nghề, kỹ thuật sản xuất, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và giúp đỡ
tiêu thụ sản phẩm đối với các xã, bn, bản nghèo. Từng bước đầu tư nâng cao dân
trí và sức khoẻ cộng đồng.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm
giàu chính đáng và đặc biệt giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với
các đối tượng khơng có khả năng lao động, khongo có người phụng dưỡng. Thực
hiện các chương trình hỗ trợ cho giáo dục đối với người nghèo như: nhận trợ cấp,
miễn giảm học phí…
I.2. Mục tiêu trong cơng tác xố đói giảm nghèo ở vùng Trung du miền
núi Bắc Bộ
Các chỉ tiêu chủ yếu hướng đến trong giai đoạn 2006-2020
•
•
•
•
•
•
•
•
Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,85 lần so với 2005
Các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn, nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu
3 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi
2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư
0.6 triệu người được miễn giảm phí học nghề
15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm
9 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, tiền xây dựng trường
200 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm
(Nguồn: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, tháng 9-2005 : Chương trình mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006–2010)
Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản vùng khơng cịn hộ nghèo. Cơ bản xố
nghèo đói trên lãnh thổ vùng. Đưa người nghèo thoát khỏi giặc đói và giặc dốt.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
20
LỚP: KTPT47B_QN
Phấn đấu về cơ bản nâng cao trình độ dân trí cho vùng.bình qn mỗi năm giảm 1,5
- 2% ; khơng để tái đói kinh niên, các xã, thơn bản nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết
yếu cơ bản;
Mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ trẻ em nhập học đúng tuổi đạt 98%, tỷ lệ
người lớn biết chữ cũng tăng. Tiến tới phổ cập giáo dục cấp 2 trên tồn vùng. Tăng
tuổi thọ bình qn và giảm tỷ lệ chết yểu ở trẻ em.
Đưa vùng trở thành một đầu mối kinh tế quan trọng trong giao thương kinh
tế với các nước láng giềng. Nâng cao vị thế và tiếng nói của người nghèo, của đồng
bào dân tộc thiểu số trong xã hội. Tạo ra một cơ chế công bằng trong sân chơi
chung, khơng có sự phân biệt sân chơi giữa các nhóm người, các tộc người, giúp họ
có cơ hội làm giàu chính đáng sau khi thốt nghèo.
II.
GIẢI PHÁP XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI
BẮC BỘ ĐẾN NĂM 2020
II.1. Thúc đẩy phát triển vùng
Thúc đẩy phát triển vùng có nhiều phương thức cũng như con đường khác
nhau để đưa vùng đi lên. Song dưạ vào thực tế và lợi thế của vùng là có khí hậu mát
mẻ, địa hình núi non trùng điệp đã từng là khó khăn lớn cho vùng song cũng nhờ
thế mà ban tăng cho vùng một vẻ đẹp riêng không phải nơi đâu cũng có. Khí hậu
trong lành cùng với sự phong phú về văn hố dân tộc. Chính phủ ta đã quyết định
“phát triển du lịch cộng đồng đi đôi với cơng tác xố đói giảm nghèo ở trung du
miền núi Bắc bộ. Với cá tiêu chí và mục tiêu: Đảm bảo vă hố, thiên nhiên bền
vững; Có sở hữu cộng đồng; Thu nhập giữ cho cộng đồng; Nâng cao nhận thức cho
cộng đồng; Tăng cường quyền lực cho cộng đồng; Tăng cường quyền lực cho cộng
đồng và các cơ quan quản lý nhà nước. Thơng qua đó cộng đồng dân cư được
hưởng lợi ích về mặt vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch cộng đồng mang lại.
Phát triển du lịch cộng đồng tại Sín Chải, Sa Pa – Lào Cai.
Bản Sín Chải cách thị xã Sa Pa khoảng 4 km nằm trên sườn núi thuộc dãy
Hoàng Liên Sơn. Với những rừng nguyên sinh bạt ngàn và hệ sinh thái đa dạng và
quý hiếm. Cư dân sống ở đây chủ yếu là người H’Mơng và có khoảng 120 hộ gia
đình. Cuộc sống của họ chủ yếu là du canh du cư, canh tác nương rấy và khai thác
các sản phẩm từ rừng. Với văn hoá lâu đời có bản sắc riêng như phong tục tập qn,
tín ngưỡng riêng, tin vào sức mạnh siêu nhiên như các ma rừng, ma nhà, ma cột;
kho tàng về các điệu múa, các bài hát của dân tộc mình; hàng thủ cơng mỹ nghệ khá
phong phú với bản sắc của người H’Mông. Sa Pa nói chung và bản Sín Chải nói
riêng, điều kiện tài nguyên và khí hậu tốt, thuận lợi cho phát triển du lịch. Hàng
năm đã thu hút một lượng du khách lớn . Theo số liệu của phòng thương mại và du
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
21
LỚP: KTPT47B_QN
lịch Sa Pa thì năm 2006 Sa Pa đón được 239.231 lượt khách trong đó khách quốc tế
là 69071 lượt khách. Cùng với sự gia tăng của khách du lịch đến Sa Pa thu nhập từ
du lịch và lợi ích kinh tế đã tăng lên.
Năm 2001, tổ chức phát triển Hà Lan và tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế
đã xây dựng một chương trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Sìn Chải
trong khn khổ dự án “ Tăng cường năng lực cho các sáng kiến về du lịch bền
vững”. Muc tiêu cuả dự án là thúc đẩy cộng đồng tham gia các dịch vụ du lịch nhằm
góp phần phát triển cộng đồng, bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn các giá
trị văn hoá cộng đồng, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân, góp phần đáng kể vào
cơng tác xố đói giảm nghèo cho vùng.
Phát triển du lịch cộng đồng tại bản Lác Mai Châu – Hồ Bình.
Bản Lác là một bản miền nú thuộc huyện Mai Châu, cách thị xã Hoà Bình 60
km, là nơi cư trú chủ yếu của người dân tộc Thái trắng. Người Thái trắng sinh sống
ở bản Lác đã có một nền văn hố lâu đời và đến nay vẫn cịn giữ được nhiều nét văn
hố đặc trưng như: trang phục của người phụ nữ Thái tinh tế, quyến rũ. Cộng đồng
người Thái trắng sống rất ngăn nắp và giàu lịng hiếu khách. Có dốc Cun dài 12 km,
đèo Nhung Thuối,… Năm 1994, nhờ sự chú ý và quan tâm của các công ty lữ hành,
bản Lác trở thành một điểm nóng du lịch. Ở đây mỗi hộ tự tổ chức các cơng việc để
phục vụ đón khách. Về tài chính thu được từ hoạt động du lịch, các cấp chính quyền
thu từ tiền bán vé và 10% nguồn thu của người dân. Nhìn chung hoạt động phát
triển du lịch tại bản Lác Mai Châu tuy có sự tham gia cung cấp dịch vụ cho du
khách nhưng diễn ra tự phát của cộng đồng chưa có sự hỗ trợ của nhà nước trong
đầu tư và định hướng phát triển theo những nguyên tắc của du lịch cộng đồng.
Phát triển du lịch cộng đồng là một phương thức phát triển phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại. Trong đó trách nhiệm và lợi ích cộng đồng là vấn đề
trung tâm có tính then chốt. Phát triển du lịch cộng đồng là một giả pháp xố đói
giảm nghèo hiệu quả có ý nghĩa cả về kinh tế lẫn xã hội sâu sắc. Phát triển du lịch
cộng đồng với xố đói giảm nghèo và phát triển bền vững tồn tại một mối quan hệ
cộng sinh rất biện chứng. Là quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn lẻ đến phối
hợp liên kết mang tính hệ thống, từ tự phát đến tự giác, có tổ chức liên kết với nhiều
thành phần tham gia thì mới hiệu quả.
Đứng trước lợi thế của vùng cho du lịch sinh thái và những lập luận và thực
tế. Du lịch của vùng đang nằm trong tình trạng phát triển tự phát và khơng có tổ
chức chặt chẽ. Trong năm ba vừa qua(từ năm 2005), chính phủ ta cũng đã có những
tác động tích cực, từng bước đưa du lịch trở thành du lịch cộng đồng và có tổ chức,
có đầu tư từ các tổ chức du lịch, từng bước đưa việc cung ứng dịch vụ du lịch trong
vùng từ tự phát sang tự giác và phát triển hơn nữa trong tương lai.
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
22
LỚP: KTPT47B_QN
Và cũng đã đạt được thành tựu đáng kế trong xố đói giảm nghèo từ chính
sách phát triển vùng, phát triển du lịch cộng đồng. Được cộng đồng quốc tê đánh
giá cao. Giảm nghèo chung trong toàn vùng là 50% trong đó đóng góp của phát
triển du lịch cộng đồng là 20%. Như vậy, với phương thức phát triển du lịch cộng
đồng là cơng cụ hữu hiệu để xố đói giảm nghèo. Tuy nhiên, vùng còn gặp nhiều
thách thức và rào cản lớn mà cần sự chung tay góp sức của các tổ chức từ bên ngoài
và đặc biệt là sự ho trợ từ phía chính phủ về cả t chính và cơ chế, chính sách.
Đó là vấn đề thiếu nguồn lực để phát triển: nguồn lực về tài chính để phát
triển cơ sở hạ tầng ở vùng sâu vùng xa, thiếu nguồn nhân lực có trình độ tại cộng
đồng để tham gia bàn bạc và quản lý quá trình phát triển du lịch cộng đồng tại địa
phương như một đối tác bình đẳng.Vì mang tính chất đa thành phần kinh tế, đa
phương thức đầy tư và quản lý, có sự cân bằng quyền lực bên trong cộng đồng, cân
bằng lợi ích của các nhóm xã hội bên trong và bên ngoài cộng đồng.
Thứ hai là sản phẩm du lịch cộng đồng và cộng đồng du lịch địa phương
chưa đủ mạnh trên thị trường do không đủ khả năng đàm phán với các nhà đầu tư
và các đối tác. Do đó khơng đủ khả năng để tiếp cận với thị trường du lịch.
Khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường du lịch là hạn chế. Trong điều kiện
bình thường cũng chưa đủ khả năng cung ứng các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn
uống chứ chưa đề cập đến mùa cao điểm du lịch.
Do vậy trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đã
đặc biệt quan tâm đề cập đến vùng trung du miền núi Bắc bộ, vùng sâu vùng xa.
Lồng ghép kế hoạch phát triển du lịch với xố đói giảm nghèo, hướng vào các tiêu
chí và các ngyên tắc phát triển du lịch cộng đồng là điều có ý nghĩa quan trọng
trong phát triển vùng và xố đói giảm nghèo
II.2. Tăng cường đầu tư vốn nhà nước vào vùng
Việc tăng cường vốn đầu tư nhà nước vào vùng là một nhu cầu thiết yếu và
cấp thiết. Một trong những lý do khiến cho tỷ lệ nghèo đói của vùng cao là do chưa
nhận được mức đầu tư xứng đáng để tạo cơ hội cho sự phát triển.
Cùng với những khó khăn về địa hình và thời tiết …Vùng đã khơng phải là
điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngồi nước. Vì vậy để có thể phát
triển vùng, đưa nhân dân thốt nghèo, khơng cịn phương thức nào tốt hơn là nhà
nước phải hi sinh năng lực đầu tư cho các khu vực khác để đầu tư thúc đẩy phát
triển vùng.
Vùng còn nghèo, còn kém phát triển do trình độ quản lý cịn kém, trình độ
văn hố kém, năng lực và tiếng nói trong xã hội thấp. Nhà nước cần đầu tư vào cả
các lĩnh vực nhằm mục tiêu phát triển năng lực con người. Tuy nhiên yêu cầu trước
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
23
LỚP: KTPT47B_QN
mắt là các nhu cầu về cơ sở hạ tầng, các cơng trình phục vụ sản xuất cịn q thiếu
thốn. Với địa hình dốc, các hộ sản xuất ở vùng cao thường bị thiếu nước tưới tiêu
trong mùa khô. Phần lớn hộ gia đình cho biết năng suất cao hơn là yếu tố quan trọng
trong việc nâng cao thu nhập. Thực tế cho thấy hiện nay tăng năng suất là yếu tố
quan trọng nhất quyết định tăng thu nhập trồng trọt. Năng suất tăng lên chính là nhờ
sự phát triển hệ thống thủy lợi, quản lý nước, cải thiện hệ thống giống, phương pháp
canh tác sản xuất và sự đầu tư thâm canh của các hộ.
Đầu tư cho giáo dục tăng để là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm tăng
năng suất lao động và tăng trình độ văn hố, dân trí của vùng. Có các chính sách ưu
tiên xứng đáng cho đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy trong vùng, đặc biệt là
vùng sâu vùng xa.
Đầu tư cho phát triển hoạt động sản xuất phi nông nghiệp cũng là vấn đề
đáng quan tâm của nhà nước đối với vùng. Thực tế cho thấy không phải tất cả
những đầu tư của chính phủ vào vùng đều chỉ đạt được mục đích xã hội mà về mặt
kinh tế chính phủ ta cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đầu tư. Chính
phủ đầu tư vào vùng vừa giải quyết được vấn đề việc làm cho vùng, nâng cao đời
sống cho vùng mà còn khai thác được các lợi thế của vùng và tạo phúc lợi xã hội và
kinh tế khơng chỉ cho vùng mà cho tồn quốc gia. Như cơng trình thuỷ điện Sơng
Đà thuộc tỉnh Hồ Bình, hay mới đây là cơng trình thuỷ điện Sơn La thuộc tỉnh Sơn
La được đầu tư xây dựng tạo nên mơi trường hồn tồn mới cho vùng. Đồng thời
tạo ngoại ứng tích cực trong cơng tác tưới tiêu cho nông nghiệp và lâm nghiệp, hạn
chế được phần nào tác hại của bão lũ thường xuyên sảy ra trong vùng. Hay các công
công ty nhà nước được đầu tư hỗ trợ tiêu thụ, chế biến các sản phâm nông – lâm.
Các nhà máy hóa chất, luyện gang thép trong vùng khai thác lợi thế về nguồn tài
nguyên, khai thác lợi thế của vùng.
II.3 Tăng thu nhập cho vùng
Các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc hàng năm ln phải đối mặt với tình
hình khơ hạn, mặc dù là nơi đất rộng người thưa nhưng cuộc sống của đồng bào các
dân tộc nhìn chung cịn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo đói vẫn rất cao. Chuyển đổi
cơ cấu cây trồng và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật là giải pháp tối ưu để
phát triển sản xuất nông nghiệp…
Mới đây tại Yên Bái, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã mở hội
nghị chuyên đề: “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng kỹ thuật trồng trọt phù
hợp với điều kiện khô hạn các tỉnh miền núi phía Bắc” nhằm tăng thu nhập cho
người dân trong vùng giúp họ thốt nghèo đói.
Trong những năm qua diện tích lúa tồn vùng vẫn ổn định 705.000 ha,
những giống lúa phổ biến vẫn là giống lúa lai: San ưu 63, Nhị ưu 838, D.ưu 527 và
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
24
LỚP: KTPT47B_QN
các giống kỹ thuật: IR 64, KD 18, Q5, VL 20… Diện tích ngơ là 385.000 ha, mỗi
năm tăng trung bình 13.000 ha, các tỉnh có diện tích ngơ lớn như: Sơn La, Hà
Giang, Cao Bằng… nhiều giống ngô lại có năng suất cao: LVN 10, CP 888, CP 999,
B9698, NK4300, DK 414… đã mang lại thu nhập cao, góp phần khơng nhỏ xố đói
giảm nghèo cho người dân. Cây sắn với diện tích 94.000 ha, mỗi năm tăng 2.000 ha
chủ yếu ở những tỉnh có các nhà máy chế biến như Yên Bái, Lào Cai, nhất là giống
sắn có năng suất cao.
Nhìn vào 3 loại cây trồng chủ yếu đó, sản lượng lúa tăng khoảng 40.000 tấn,
tương đương 50 kg thóc/ha trong hai năm là rất thấp, trong khi đó diện tích ngơ và
sắn tăng trên 15.000 ha/năm chủ yếu là trên đất gò đồi, ruộng một vụ, soi bãi… lại
chống chịu được hạn tốt. Trong 5 năm qua từ 2000 – 2005 việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng ở các địa phương trong toàn vùng đã diễn ra khá nhanh, diện tích lúa tăng
3,2 %, tương đương 22.500 ha, do các cơng trình thủy lợi được xây dựng, diện tích
nước tưới chủ động được nâng lên. Trong khi đó diện tích ngơ tăng 31,3 % đậu
tương tăng 68,8 %, hoa và rau các loại tăng 27,6%, cây ăn quả và chè tăng 44 – 50
%... Mỗi địa phương đã phát huy thế mạnh của mình để gieo trồng những cây giống
phù hợp, tỉnh Lào Cai đã xây dựng và triển khai xây dựng vùng rau sạch, hoa các
loại ở huyện Sa Pa, dứa Qeen, thuốc lá huyện Mường Khương, cây ăn quả ôn đới ở
huyện Bắc Hà với diện tích vài nghìn ha. Hiện nay nhiều hộ đã có thu nhập cao từ
200 – 350 triệu đồng/ năm. Tỉnh Bắc Giang đã tiến hành cải tạo được 40 ha vải
giống chín sớm, dự kiến đến năm 2010 cải tạo 8.000 ha. Tỉnh Quảng Ninh cũng
trồng mới 220 ha vải chín sớm trong tổng số 6.000 ha vải, tỉnh Thái Nguyên đang
thực hiện công thức: Dưa chuột vụ xuân + lúa mùa sớm + dưa chuột vụ đông trên
diện tích 9.000 ha đã cho hiệu quả kinh tế, tỉnh Tuyên Quang xây dựng vùng mía ổn
định năng suất cao với diện tích 6.800 ha và 6.000 ha chè đang xây dựng vùng
chuyên canh lạc hàng hoá ở các huyện Chiêm Hoá, Sơn Dương, Yên Sơn, vùng cam
đặc sản Hàm Yên…
Sản xuất cây ăn quả, có tới 12% số hộ cho rằng đây là nguồn thu nhập quan
trọng nhất. Chăn nuôi cũng là nguồn thu nhập tương đối quan trọng của các hộ miền
núi. Trong những năm vừa qua, chăn nuôi lợn và gà thả vườn ngày càng phát triển
và góp phần khơng nhỏ vào cải thiện đời sống và tăng thu nhập cho các hộ nơng
thơn nói chung và miền núi nói riêng.
Mặc dù vậy, diện tích hoang hố của các tỉnh còn rất lớn, Lai Châu trên
10.000 ha ruộng một vụ chưa khai thác, Điện Biên 7.000 ha, Hồ Bình cịn trên
11.000 ha … Như vậy, có thể thấy diện tích lúa một vụ của các tỉnh trung du và
miền núi phía Bắc cịn lớn, điều đó đồng nghĩa với việc lãng phí tài nguyên thiên
nhiên, trong khi đó đời sống của người nơng dân cịn rất nhiều khó khăn. Các địa
phương đang tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhưng do trình độ thâm canh,
thơng tin thị trường, giao thông vận tải… cũng như khả năng kinh tế của bà con
SV: NGUYỄN THỊ HỒNG
25
LỚP: KTPT47B_QN