Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Kỹ thuật nuôi Artemia trên ruộng muối.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.95 KB, 7 trang )

KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI
(Artemia franciscana)
Nhóm nghiên cứu Artemia.
Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ

I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI PHÂN LOẠI VÀ PHÂN BỐ
1. Vị trí phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Lớp phụ: Branchiopoda
Bộ: Anostraca
Họ: Artemiidea
Giống: Artemia
2. Đặc điểm về hình thái
Artemia phát triển trải qua các giai đoạn:
- Ấu trùng mới nở (instar I =nauplius, có chiều dài 400-500 µm) có màu vàng cam, có một
mắt màu đỏ ở phần đầu và ba đôi phụ bộ. Ấu trùng giai đoạn I không tiêu hóa được thức
ăn vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh. Lúc này, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng.
- Sau khoảng 8 giờ từ lúc nở, ấu trùng lột xác trở thành ấu trùng giai đoạn II (instar II). Lúc
này, chúng có thể lọc và tiêu hóa các hạt thức ăn cỡ nhỏ có kích thước từ 1 đến 50 µm và
bộ máy tiêu hóa đã bắt đầu hoạt động. Ấu trùng tăng trưởng và trải qua 15 lần lột xác
trước khi đạt giai đoạn trưởng thành. Các đôi phụ bộ xuất hiện ở vùng ngực và dần dần
biến thành chân ngực. Mắt kép xuất hiện ở hai bên mắt
- Từ giai đoạn 10 trở đi, các thay đổi về hình thái và chuyên hóa chức năng của các cơ
quan trong cơ thể bắt đầu, chúng có sự biệt hóa về giới tính. Ở con đực anten của chúng
phát triển thành càng bám, trong khi đó anten của con cái bị thoái hóa thành phần phụ cảm
giác (râu cảm giác). Các chân ngực được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng: Các đốt
chân chính, các nhánh chân trong (vận chuyển và lọc thức ăn) và nhánh chân ngoài dạng
màng (mang).
- Artemia trưởng thành (dài khoảng 10-12 mm) có cơ thể kéo dài với hai mắt kép, ống tiêu
hóa thẳng, râu cảm giác và 11 đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao cấu ở phần sau của


vùng ngực (vị trí sau đôi chân ngực thứ 11) và con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp
hoặc tử cung nằm ngay sau đôi chân ngực thứ 11.
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI />1 of 7 4/9/2012 12:11 AM
Hình 1: : Vòng đời của Artemia (theo Sorgeloos và ctv., 1980)

3. Phân bố
Ngày nay, sự phân bố của Artemia được chia làm hai nhóm:
Những loài thuộc về Cựu thế giới (Old World) là những loài bản địa đã tồn tại từ rất lâu
trong các hồ, vịnh tự nhiên.
Những loài thuộc về Tân thế giới (New World) là những loài mới xuất hiện ở những vùng
trước đây không có sự hiện diện của Artemia. Sự có mặt của chúng do người, chim
hoặc là gió tạo ra mà tiêu biểu là loài Artemia franciscana (đại diện cho loài Artemia ở
Tân thế giới) đã được sử dụng rộng rãi để thả nuôi ở nhiều ruộng muối trên khắp các lục
địa.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Đặc điểm môi trường sống
Artemia chỉ có thể tìm thấy ở những nơi mà vật dữ (cá tôm, giáp xác lớn) không thể xuất hiện
(cao hơn 70 ppt). Ở độ mặn bão hòa (≥250 ppt) Artemia chết đồng loạt do môi trường vượt
ngưỡng chịu đựng (trở nên gây độc) và việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn.
Các dòng Artemia khác nhau thích nghi rộng với sự biến đổi môi trường khác nhau đặc biệt là
nhiệt độ (6-35
o
C), độ muối (độ mặn của nước) và thành phần ion của môi trường sống. Ở các
thủy vực nước mặn với muối NaCl là thành phần chủ yếu tạo nên các sinh cảnh Artemia ven
biển và các sinh cảnh nước mặn khác nằm sâu trong đất liền, chẳng hạn hồ Great Salt Lake
(GSL) ở Utah, Mỹ. Các sinh cảnh Artemia khác không có nguồn gốc từ biển nằm sâu trong lục
địa có thành phần ion khác rất nhiều so với nước biển: Vực nước sulphate (Chaplin lake,
Saskatchewan, Canada), vực nước carbonate (hồ Mono Lake, California, Mỹ), và các vực
nước giàu lân (rất nhiều hồ ở Nebraska, Mỹ).
Artemia được nuôi rộng rãi ở Việt nam thuộc dòng Artemia franciscana, mặc dù có nguồn gốc

từ Mỹ (San Francisco Bay, USA) nhưng sau thời gian thích nghi dòng này gần như đã trở thành
dòng bản địa của Việt nam và chúng có nhiều đặc điểm khác xa so với tổ tiên chúng đặc biệt là
khả năng chịu nóng. Hiện tại chúng có thể phát triển tốt trong điều kiện:
- Độ mặn: 80-120 phần ngàn
- Nhiệt độ: 22-35
o
C
- Oxy hoà tan: không thấp hơn 2 mg/l
- pH từ trung tính đến kiềm (7.0-9.0)
2. Đặc điểm về dinh dưỡng
Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa, chúng sử dụng mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và
vi khuẩn có kích thước nhỏ hơn 50µm. Các sinh cảnh tự nhiên có Artemia hiện diện thường có
chuỗi thức ăn đơn giản và rất ít thành phần giống loài tảo. Artemia thường xuất hiện ở những
nơi có nồng độ muối cao, vắng mặt các loài tôm, cá dữ và các động vật cạnh tranh thức ăn
khác như luân trùng, giáp xác nhỏ ăn tảo. Ở các sinh cảnh này nhiệt độ, thức ăn và nồng độ
muối là những nhân tố chính ảnh hưởng đến mật độ của quần thể Artemia hoặc ngay cả đến sự
vắng mặt tạm thời của chúng.
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối hợp phân chuồng (chủ
yếu là phân gà) kết hợp với phân vô cơ (Urea, DAP...) để gây màu trực tiếp (trong ao nuôi
Artemia) hoặc gián tiếp (ngoài ao bón phân) trước khi cấp nước “màu” (nước tảo) vào trong ao
nuôi. Phân gà khi được bón trực tiếp vào ao nuôi, ngoài việc cung cấp dinh dưỡng kích thích
tảo phát triển, phân còn là nguồn thức ăn trực tiếp cho Artemia. Ngoài ra, khi lượng nước tảo
cung cấp vào ao hàng ngày thiếu hụt, nông dân còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành hoặc các
loại phụ phẩm nông nghiệp khác...để duy trì quần thể Artemia.
III. KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI
1. Thời vụ sản xuất Artemia?
Trùng hợp với thời vụ sản xuất muối khác nhau ở từng địa phương, chẳng hạng ở khu vực Vĩnh
châu Bạc liêu mùa vụ sản xuất Artemia bắt đầu từ cuối tháng 11 và kết thúc vào đầu tháng 6
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI />2 of 7 4/9/2012 12:11 AM
dương lịch hàng năm, trong khi quá trình này kéo dài từ đầu tháng 1 và kết thúc vào cuối tháng

8 ở khu vực Cam ranh.
Tuy nhiên, mùa vụ có thể kéo dài nếu nước mặn được chuẩn bị sớm và độ mặn trong ao được
duy trì ở các tháng đầu của mùa mưa.
2. Xây dựng ao nuôi Artemia:
- Chọn điểm: Ngoài các yêu cầu về kỹ thuật trong lựa chọn địa điểm cấy thả, trước khi xây
dựng kế hoạch cần lưu ý các điểm sau:
+ gần nguồn nước biển (khắc phục tình trạng thiếu nước nhất là trong mùa khô)
+ thuận lợi trong giao thông (để vận chuyển nguyên liệu, phân bón...)
+ an ninh (tránh trộm cắp, mất mát)
- Diện tích: Để dể quản lý, diện tích ao nuôi khoảng 0.5 đến 1 ha là thích hợp nhất. Ao thường
có dạng hình chử nhật với chiều dài gấp 3 đến 4 lần chiều rộng.
- Hướng ao: Trục dài hoặc đường chéo của ao nằm xuôi theo hướng gió chính của địa bàn, để
giúp cho việc thu trứng sau này được thuận lợi, vì trứng nổi trên mặt nước sẻ được gió thổi tấp
vào bờ cuối gió.
- Kỹ thuật xây dựng công trình: Ao nuôi thường được xây dựng theo hai dạng: riêng rẽ họăc
trong cùng một hệ thống, ở ao riêng rẽ thường tốn kém hơn vì bờ ao cần được xây dựng chắc
chắn và có hệ thống cấp tháo nước riêng biệt, ở hệ thống kết hợp chỉ cần chú ý tu sửa đê bao
của toàn hệ thống còn kênh cấp tháo thì được phân bổ chung cho các ao nên giảm được chi
phí.
Các chỉ tiêu cần lưu ý trong xây dựng:
Chỉ tiêu Ao đơn Ao trong hệ thống
Bờ bao (m)

chân 4
mặt 2
cao 1
bờ lưu thông 0.5
Bờ ao (m)

chân 3 2

mặt 1.5 1
cao 0.7 0.7
bờ lưu thông 0.5 0.5
Mương quanh (m)

mặt 3 2
sâu 0.3 0.3
Máng cấp (m)
máng nổi
mặt 2
cao 1
Máng tháo (m)
máng chìm
mặt 2
sâu 0.5
Cống cấp tháo(m)
gỗ hoặc xi măng
khẩu đô 0.5 0.5
Lưu ý: ở những nơi đất mới khai thác, hoặc dể thẩm lậu, bờ ao cần được xây dựng gia cố chắc
chắn (đầm nén, tô láng bờ...)
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI />3 of 7 4/9/2012 12:11 AM
- Công trình phụ: Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý, ao nuôi cần được lắp đặt các công trình phụ
sau:
+ lưới lọc cá: Dùng lưới nylon (cở mắc lưới từ 1-1.5 mm) để làm khung lọc nước hoặc
may theo dạng vèo để hứng nguồn nước cấp vào ao.
+ đập tràn: đập đất hoặc phai gổ lắp ở cống cho phép lớp nước nhạt tầng mặt (mùa
mưa) được tháo bỏ nhằm duy trì độ mặn cho ao nuôi.
+ nơi bón phân: được bố trí ngay nguồn nước cấp vào ao nuôi, thường được rào lại
bằng tre hoặc lá dừa nước để tránh phân bị trôi dạt.
+ rào phá sóng: được lắp đặt ở bờ cuối gió bằng các vật liệu rẻ tiền (tre, lá dừa

nước...), nhằm phá sóng để trứng dể tập trung nơi thu hoạch.
+ vách ngăn trứng: thường dùng nylon để lót bờ nơi thu hoạch nhằm tránh trứng thất
thoát vào bờ đất, tuy nhiên cách này khá đắt tiền nên người dân thường dùng bùn nhão
để tô láng góc bờ chỗ thu hoạch.

3. Quá trình thu gom nước mặn (đi nước) để thả Artemia

Nước mặn được chuẩn bị theo kỹ thuật làm muối, theo nguyên tắc bốc hơi nước biển để tăng
độ mặn, để rút ngắn thời gian này nhiều biện pháp đã được sữ dụng như: nuôi nước mỏng, bừa
trục, sang ao... để có đủ lượng nước và độ mặn theo yêu cầu, thường phải mất từ 2 đến 3 tuần
ở khu vực Vĩnh châu Bạc liêu.
4. Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống
- Lượng nước và độ mặn: Lúc đầu vụ do nhiệt độ môi trường còn thấp, chỉ cần mực nước ngập
trảng (đáy ao) vài phân (một đến hai lóng tai) là có thể xuống giống, tuy nhiên cũng cần tính
toán sao cho lúc cá thể đạt cở trưởng thành mực nước phải đủ sâu để Artemia lẩn tránh sự
săn bắt của chim.
Mặc dù Artemia có thể sống ở độ muối thấp, ta không nên cấy thả Artemia ở độ muối dưới 80
phần ngàn (8 chữ), vì lúc này còn hiện diện rất nhiều: Fabrea, copepod, tảo độc...hoặc tôm cá
dữ làm hạn chế tăng trưởng hoặc tiêu diệt hoàn toàn số Artemia mới thả.
- Phòng ngừa địch hại: Địch hại thường gặp và cách phòng ngừa
Địch hại Cách phòng ngừa
+ Ao chưa thả giống

.Cá các loại Rút cạn nước ao, dùng vôi hoặc thuốc cá
.Lab-lab, rong tạp các
loại
Dọn ao, bừa trục, phơi nền đáy
+ Ao đã xuống giống

.Fabrea,copepod, tảo

độc
Cấp nước có độ muối cao hơn 80ppt
.Cá các loại
Dùng lưới chài để giăng bắt hoặc sang ao
để gạn cá tạp
.Lab-lab, rong tạp các
loại
Bừa trục, dọn đáy ao thường xuyên nếu
cần thì tháo cạn cải tạo lại
.Chim
Dùng lưới gió, bù nhìn, pháo hoặc có người
canh giữ trực tiếp
Chuẩn bị thức ăn cho ao nuôi Artemia:
Bước này chỉ cần thiết cho những ao nghèo tảo thức ăn (nước ao không màu hoặc màu nhạt),
để gây màu thường dùng các loại phân vô cơ (urea, lân...) hoặc hữu cơ (phân heo, phân gà,
phân bò, phân dê, phân cút...) với liều lượng
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI />4 of 7 4/9/2012 12:11 AM
+ Phân hữu cơ: 500 đến 1000 kg/ha
+ Phân vô cơ : 50 đến 100 kg/ha
5. Thả giống

- Kỹ thuật ấp nở :
+ Dụng cụ: cân, xô, chậu, lưới lọc, ống dẫn khí, đá bọt, máy thổi khí, đèn huỳnh
quang...
+ Điều kiện ấp nở:
.ánh sáng: thắp đèn huỳnh quang cách mặt nước bể ấp khoảng 2 tấc
.nhiệt độ: 25-30 độ C
.độ muối : nước biển 35 ppt (ba chữ rưỡi) được dùng để ấp trứng
.pH: 8.1 đến 8.3
.mật độ ấp: không nên nhiều hơn 5g trứng cho mỗi lít nước

+ Thao tác: Nước được lọc sạch trước khi cho vào bể ấp; cân trứng theo đúng mật độ
qui định cho vào bể ấp, kết hợp sục khí để đảo trộn nhằm thúc đẩy quá trình hút nước
của trứng để kích thích sự phát triển phôi. Sau 20 đến 24 giờ trứng nở tập trung, sẳn
sàng cho việc cấy giống.

Những điểm cần lưu ý trong thao tác thả giống:
+ Cở giống thả: Cấy thả bằng giống mới nở (Naupli): hình thức này rất phổ biến, đặc biệt
ở những nơi mới bắt đầu thử nghiệm nuôi Artemia. Cấy giống cở nhỏ (Naupli giai đoạn I) có trở
ngại là rất khó quan sát cá thể ở những ngày đầu, nhưng chúng có thể chịu đựng sự sai khác
lớn về nhiệt độ và độ muối giữa nơi ấp nở và nơi cấy thả; do đó nếu kéo dài thời gian ấp nở ấu
thể sẻ phát triển đến giai đoạn lớn hơn (Naupli giai đoạn II; tuỳ điều kiện nhiệt độ trong bể ấp,
thường thời gian để chuyển từ Naupli giai đoạn I sang giai đoạn II mất khoảng 5 đến 8 giờ), khả
năng trên sẻ giãm đi làm gia tăng tỉ lệ tử vong lúc cấy thả.
Cấy thả bằng giống lớn: khi cấy thả theo phương pháp này cần lưu ý là phải thuần hoá giống
thả (cho một phần nước ao định thả vào thùng giống vừa chuyển đến) để chúng thích nghi dần
với nhiệt độ và độ muối trước khi cấy thả vào ao.
+ Thời gian thả thích hợp: Thích hợp nhất là thời gian lúc sáng sớm (6 đến 7 giờ) hoặc
chiều tối (17 đến 19 giờ), điều này cần nắm để tính toán kế hoạch ấp nở cho hợp lý.
+ Mật độ thả: Thường mật độ thả ở ao đất được đề nghị là 50 cá thể cho mỗi lít, tuy nhiên
theo quan sát thực tế nếu ao nuôi được cấy thả ở mật độ lớn hơn 100 cá thể trên lít thì sau 2
tuần ao nuôi bắt đầu cho trứng, trong khi ở ao có mật độ thưa, quần thể phải trải qua giai đoạn
tăng gia mật độ trước khi tham gia cho trứng.
+ Vận chuyển giống: Nếu nơi cấy thả khá xa (thời gian vận chuyển từ một giờ trở lên) nơi
ấp nở hoặc ao cung cấp giống, giống nở cần được xan thưa, đóng oxy và hạ nhiệt độ của môi
trường vận chuyển để giãm thấp tỉ lệ hao hụt.
+ Nơi thả giống: Thích hợp nhất là bờ ao phía trên hướng gió, hoặc đầu nguồn nước cấp
nhằm đãm bảo cho giống được phân bố đều trong ao.
+ Nơi thu mẫu để đánh giá: Đối với giống lớn thì dể dàng quan sát sự tồn tại của chúng
trong ao vừa cấy thả, ngược lại nếu cấy giống ấp nở thì rất khó phát hiện chúng trong hai ba
ngày đầu; tuy nhiên chúng có tập tính phân bố ở nơi trên hướng gió, hoặc góc bờ. Dùng vợt

bằng lưới mịn để thu và quan sát mẫu.
+ Quan sát mẫu: Ấu thể Artemia có màu trắng sữa hoặc trắng hồng, chúng bơi lội theo
đường zig-zăg nhưng đường di chuyển ngắn hơn của Copepod, có tập tính hướng quang
dương (tập trung nơi có nhiều ánh sáng).
+ Những dấu hiệu xấu cho ao nuôi: Với sự xuất hiện riêng lẻ hoặc kết hợp của các yếu tố
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI />5 of 7 4/9/2012 12:11 AM

×