CHÀO MỪNG CÔ VÀ CÁC BẠN ĐẾN VỚI BÀI THUYẾT
TRÌNH CỦA NHÓM 12
THÀNH VIÊN:
- MAI THỊ MỸ PHƯƠNG
- NGUYỄN NHẬT TRƯỜNG
- LÊ THỊ TRÚC HIỀN
- TRƯƠNG THỊ HUYỀN TRANG
- VÕ THỊ KIM TUY
- NGUYỄN NGỌC HUỲNH THI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÁT THANH
TRUYỀN HÌNH II
NHÀ THƠ: Rabindranath Tagore
MÔN H C: VĂN H C NƯ C NGOÀIỌ Ọ Ớ
GI NG VIÊN: L I TH H NG VÂNẢ Ạ Ị Ồ
I.Tiểu sử
Rabindranath Tagore, hay
Rabindranath Thakur, (6 tháng 5
năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là
một nhà thơ Bengal, triết gia Bà La
Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa
được trao Giải Nobel Văn học năm
1913, trở thành người châu Á đầu
tiên đoạt giải Nobel.
Tagore sinh tại Kolkata, Tây
Bengal, Ấn Độ trong một gia đình
trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh
vực.
Cha ông là Devendranath Tagore, một nhà triết học
và hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu ông muốn con
mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích.
Dù sao thì Tagore được hun đúc trong một
môi trường văn hóa rất ưu việt. Khi đi học,
cậu được học tất cả trên mọi lĩnh vực
nhưng cậu thích nhất thơ ca, tiểu thuyết và
kịch.
![]()
.
Vòng phấn và bài thơ đầu tiên
Thuở bé Ra-bin-đra-nat Ta-go
chịu sự giáo dục của gia đình
khá nghiêm ngặt. Ông ít được
rong chơi một mình ở ngoài
đường, thường bị nhốt trong
một góc nhà. Tuy thế, thỉnh
thoảng ông cũng lén trốn ra
ngoài, mỗi lần như vậy những
người quản gia của gia đình
ông đều bắt được. Để ông khỏi
trốn và đi lung tung, họ vẽ một
vòng phấn bắt ông đứng ở giữa,
ra điều kiện nếu ra khỏi vòng đó
sẽ bị đánh đòn.
Trước cửa sổ văn phòng Ta-go
bị nhốt có một cây đa đã lâu
đời, ngắm nhìn cây đa đó, Ta-
go đã nói với cây đa bằng
những câu thơ đầu tiên sau
đây:
Hỡi cây đa già trăm năm
Như nhà tu khổ hạnh đứng bất động
Buông những cánh tay dài rễ cành
xuống đất
Đang đọc kinh Vê-da sám hối với
thánh thần
Có thấy tôi không? Một chú bé giam
chân
Đang muốn vời quanh dưới bóng
mát của người,
Muốn đùa vui với những tia nắng
mặt trời.
Lên 8 tuổi, Ra-bin-đra-nat Ta-go
đã làm khá nhiều thơ, năm 13
tuổi tập “Bông hoa rừng” ra đời.
Nhân dịp nhà sử học Đớt (Dult), bạn thân
của Ba-kim Chân-đơ làm lễ cưới. Ba-kim
đến dự, Ta-go cũng được đi theo. Trong
buổi lễ, vì quý mến và trọng tài năng thơ ca
của Ba-kim Chân-đơ, Đớt (Duly) đã dành
một vòng hoa nhài đẹp quàng vào cổ bạn.
Sau khi tỏ lời cảm ơn Đớt xong, Ba-kim
Chân-đơ lấy vòng hoa ở cổ ra quàng cho
cậu bé Ta-go và nói với mọi người rằng:
“Tôi xin nhường vòng hoa này cho một tài
năng thơ ca đầy triển vọng, đáng khâm
phục đó là thi sĩ trẻ tuổi này”.Hôm đó những
giọt nước mắt hạnh phúc đầu đời đã chảy ra.
Vòng hoa danh dự và những giọt nước mắt
Bản thảo bị đánh rơi trở thành kiệt
tác
Ngày 19 tháng 3 năm 1912, Ra-bin-đra-nát Ta-go, nhà
thơ lớn ấn Độ bị bệnh phải nằm điều dưỡng bên bờ
sông Pa-đma ở quê hương Ben-ga-li của ông. Để giải
trí và đồng thời cũng thử năng lực hiểu biết tiếng Anh tự
học của mình đến đâu, Ta-go chọn lọc những bài thơ
của ông sáng tác bằng tiếng Be-ga-li từ trước đem dịch
ra tiếng Anh
Rồi ông đi sang Anh, không may, ông đã đánh rơi tập
thơ đó tại một ga tàu điện ngầm ở Luân Đôn.
Trong khi tìm, tập thơ này hết được chuyển đến tay hoạ sĩ
William Rotheinstein, rồi nhà thơ Yeats, rồi nhà văn Stuje
Moore… Tập thơ được in thành sách, bán rất chạy và phổ
biến toàn nước Anh. Sau đó, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã
quyết định tặng giải thưởng Nobel về văn chương năm
1913 cho kiệt tác ‘Thơ dâng’ của Tagore.
‘Năm 24 tuổi, theo quyết định
của cha, ông đã lấy vợ là một
cô gái 10 tuổi cùng đẳng cấp
với ông. Mối tình ấy về sau
càng nồng thắm để ông viết
những vần thơ tặng nàng: ‘Em
ơi thi sĩ của em định tặng em
một bản trường ca. Nhưng than
ôi, anh đã vô tình để bản trường
ca đó đụng phải mắt cá chân
em và tai hại nó đã tan thành
mảnh thơ rơi dưới chân
em’. Khi người vợ thân yêu bé
nhỏ qua đời, ông đã viết những
vần thơ sầu muộn, nhớ
thương…
Tuổi thơ còn vương vấn
Từng bước đi tần ngần
Từng giọt sương lưu luyến
Từng cuối chiều bâng khuâng
Người dưng sao quá lạ lùng
Người dưng sao bắt tim rung
thế này
Các mối tình của Tagore
. Năm 1924, nhà thơ Tagore đã có một
thời gian lưu lại ở Argentina và ở đó ông
đã có mối quan hệ tình cảm sâu sắc với
nữ văn sĩ Ocampo.
Nữ văn sĩ Ocampo tôn sùng nhà thơ
Tagore sau khi bà đọc thi phẩm nổi tiếng
của ông là Lời dâng (Gitanjali) bằng bản
dịch tiếng Pháp của Andre Gide vào năm
1914, một năm sau khi Tagore đoạt giải
Nobel Văn học.
![]()
Năm 1930, Ocampo tổ chức triển lãm
tranh đầu tiên của Tagore ở Paris. Đây
là lần thứ 2 họ gặp nhau và cũng là lần
cuối cùng. Tuy nhiên, 2 người thường
xuyên thư từ cho đến khi Tagore qua
đời vào năm 1941. Trong các bức thư
viết cho Ocampo, nhà thơ thường gọi
bà là Bijoya.
“Cuộc tình thuần khiết” của Tagore lên màn
bạc
Thinking Of Him, dự án điện ảnh mới của đạo diễn Argentina
Pablo Cesar mô tả mối quan hệ “thân thiết nhưng thuần khiết” của
thi hào Ấn Độ từng đoạt giải Nobel Văn học - Rabindranath
Tagore (1861-1941) - với nữ văn sĩ, nhà hoạt động văn hóa
Argentina Victoria Ocampo.
Bộ phim Thinking Of Him sẽ được quay ở Santiniketan, Bolpur,
Buenos Aires và Paris.Và ra mắt vào 2012.
Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường
của mình, gọi là Brahmacharyashram
(brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh,
brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901,
nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau
năm 1921, trường này trở thành Đại học Vishwa-Bharti
và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm
1951.
Sáng ngày 9/11, tại Hà Nội, Đại sứ
quán Ấn Độ tại Việt Nam, Trung tâm
Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc
gia đã phối hợp với Hội Nhà văn Việt
Nam tổ chức Hội thảo quốc tế về
cuộc đời và di sản vĩ đại của nhà thơ
Rabindranath Tagore nhằm kỷ niệm
150 năm ngày sinh và 70 năm ngày
mất của nhà thơ vĩ đại này.
II.Sự nghiệp
Ở Ấn Độ, ông được gọi là “Thánh sư” với số lượng tác
phẩm đồ sộ về thi ca, văn xuôi, triết học, âm nhạc. Bên
cạnh đó, Tagore còn viết một số tác phẩm để phục vụ
cho sự nghiệp giải phóng Ấn Độ.
Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore
với hơn 1.000 bài (50 tập thơ), nhưng ông cũng để lại nhiều
tiểu thuyết (12 bộ dài và vừa), luận văn, hàng trăm truyện
ngắn, kí, kịch (42 vở), 2000 tranh vẽ Ông cũng là nhà thơ
duy nhất trên thế giới sáng tác quốc ca cho 2 đất nước là
Ấn Độ và Bangladesh.
Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị,
giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của
con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc
và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và
cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc
sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề
tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn
chương của ông.
.
Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào
giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của
Hoàng gia Anh để phản đối cuộc thảm sát Jaliyaanwala
Bagh (Amritsar) năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm
thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn
ông, phụ nữ và trẻ em vô tội
![]()
Thơ dâng
Tác phẩm đạt giải Noben năm 1913
Sau khi tập “thơ dâng” (gitanjali) đat giải nobel (1913),
tên tuổi Tagore bắt đầu lừng danh và ông trở thành nhà
thơ nổi tiếng của thế giới. Đây là một tập thơ viết về tôn
giáo
Bài số 1
Vì vui riêng, người đã làm tôi
bất tận. Thân này thuyền nhỏ
mong manh đã bao lần người
tát cạn rồi lại đổ đầy cuộc
sống mát tươi mãi mãi.
Xác này cây sậy khẳng khiu,
người đã mang qua núi, qua
đồi, qua bao thung lũng, và phả
vào trong giai điệu mới mẻ đời
đời.
Khi tay người bất tử âu yếm
vuốt ve, tim tôi ngập tràn vui
sướng, thốt nên lời không sao
tả xiết.
Tặng vật người ban vô biên vô
tận, nhưng để đón xin, tôi chỉ
có hai tay bé nhỏ vô cùng.
Thời gian lớp lớp đi qua, người
vẫn chửa ngừng đổ rót, song
lòng tôi thì hãy còn vơi.
Bài số 2
Khi người ban lệnh cất lời ca, tôi thấy
tim mình như rạn nứt, vì hãnh diện
khôn cùng; ngước nhìn mặt người,
mắt tôi ướt lệ.
Những gì trong tôi lỗi điệu, đục khàn
biến thành hòa khúc dịu êm – như
chim vui náo nức băng qua biển cả,
lòng tôi đê mê giang cánh bay xa.
Tôi biết lời tôi ca làm người vui thích. Và
tôi biết chỉ khi khoác áo ca công tôi mới
đến trước mặt người.
Lời tôi ca vươn cánh rộng dài bay đến nhẹ
vuốt chân người – bàn chân trước kia nào
dám ước mơ chạm tới.
Say nhừ vì nguồn vui ca hát, tôi quên bẵng
thân mình; tôi gọi người là bạn, Thượng Đế
của lòng tôi.
Bài số 8
Mặc áo Hoàng tử, đeo ngọc quý
quanh cổ, con sẽ mất hết hứng thứ
lúc chơi đùa; áo làm vướng vít
từng bước chân đi.
Những sợ áo sẽ rách, rồi đất bụi
dính vào, con tách mình khỏi nhân
sinh cuộc thế, và chẳng hề dám
nhúc nhích, cựa mình.
Mẹ, nếu tách con khỏi bụi trần gian trong
lành, ngăn không cho con vào hội chợ tưng
bừng của nhân sinh bình dị, áo quần mẹ cho
sẽ buộc giàng vô ích, mẹ ơi.
Người làm vườn
Sau tập Thơ Dâng được giải thưởng
Nobel, năm 1914, Tago- Nhà thơ,
nhà văn hóa lớn của Ấn Độ đã cho
xuất bản tập thơ “Người làm vườn -
tập thơ tình, gồm 85 bài thơ, chỉ
đánh số, không có nhan đề. Bài thơ
số 28 này rút trong tập “Người làm
vườn”, được truyền tụng và ngợi ca
là “một trong những bài thơ tình
hay nhất trên thế giới”.
Đôi mắt băn khoăn của em buồn,
Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng
anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới
mắt em.
Anh không dấu em một điều gì,
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả
về anh.
Nếu đời anh chỉ là viên ngọc,
Anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh
Và xâu thành một chuỗi
Quàng vào cổ em.
Nếu đời anh chỉ là một đoá hoa
Tròn trịa dịu dàng và bé bỏng,
Anh sẽ hái nó ra để đặt lên mái tóc em.
Nhưng em ơi! Đời anh là một trái tim,
Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó.
Em là nữ hoàng của vương quốc đó,
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu.
Bài thơ số 28