Tài liệu nuôi tôm chinh thống
Chữa bệnh đốm trắng cho tôm bằng tỏi
Cũng trên chuyên mục Mẹo nhà nông này, có lần Cận tôi đã mách nhỏ bà
con cách dùng nước tỏi để xua đuổi côn trùng hại rau hiệu quả, không phải
sử dụng đến thuốc trừ sâu hóa học.
Mới đây, anh Lê Đức Xuân ở xã Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên-Huế đã có sáng kiến mới: dùng nước tỏi để chữa bệnh đốm trắng cho
tôm rất có hiệu quả. Tôm khỏi bệnh, lớn nhanh, dễ làm, chi phí giá thành rẻ
hơn nhiều so với mua thuốc (10.000 đồng/sào ao nuôi tôm). Sáng kiến của
anh Xuân được Trung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư Thừa Thiên-Huế đánh
giá cao và khuyến cáo bà con các nơi học tập, áp dụng làm theo.
Theo anh Xuân, trong các bệnh hại tôm thì bệnh đốm trắng là một trong
những bệnh khó chữa nhất nhưng hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị. “Nguyên lý
khoa học” mà anh Xuân sử dụng tỏi làm thuốc chữa bệnh cho tôm là kinh
nghiệm từ cách tự chữa bệnh cho mình. Anh Xuân cho rằng nếu cho tỏi vào
thành phần thức ăn sẽ giúp con tôm thêm khỏe mạnh, tăng cường sức đề
kháng của các loại dịch bệnh, trong đó có bệnh đốm trắng. Nói là làm, sau
nhiều lần làm thử thấy có kết quả, anh rút kinh nghiệm dần và hiện đã có
một toa thuốc khá hay để chữa bệnh đốm trắng cho tôm. Cận tôi xin ghi lại
mong bà con nuôi tôm các nơi tham khảo, áp dụng:
Dùng 1kg tỏi giã nhỏ, trộn với 1 lít dầu thực vật đem nấu chín, sau đó trộn
đều với thức ăn cho tôm. Lượng thức ăn này đủ cho 3 vạn con tôm ăn trong
vòng 5 ngày. Theo kinh nghiệm của anh Xuân thì bà con nên trộn tỏi vào
thức ăn cho tôm ăn một lần vào buổi tối vì đây là thời gian tôm lên ăn mạnh
nhất. Chỉ sau 5 ngày, tôm đang bệnh dần dần chuyển sang khỏe mạnh, chóng
lớn. Cách 5 đến 10 ngày sau, cho tôm ăn thêm 1 chu kỳ 5 ngày thức ăn trộn
tỏi nữa để củng cố thêm kháng thể cho cơ thể tôm đủ sức kháng được bệnh
tật.
Nuôi ghép cua xanh với tôm sú
Năm 2003, các nhà khoa học ngành thuỷ sản đã nghiên cứu thành công và
hoàn thiện công nghệ giống cua xanh. Do chủ động nguồn cua giống nhân
tạo, nghề nuôi cua xanh đã phát triển mạnh với nhiều hình thức như nuôi
ghép với tôm sú, nuôi ghép với cá, nuôi trong hệ sinh thái rừng ngập mặn,
nuôi chuyên canh đạt năng suất từ 1,5-2 tấn/ha.
Xin giới thiệu hình thức nuôi ghép cua xanh với tôm sú, đạt năng suất 1
tấn/ha. Mô hình này được áp dụng cho tất cả các tỉnh ven biển trong cả
nước.
Điều kiện áp dụng
Môi trường nuôi: Chất đáy ao là bùn cát, độ lún từ 10-15cm. Độ mặn dao
động 15-25‰.
Các chỉ tiêu thuỷ hoá: pH =8,0-8,5, nhiệt độ nước 26-300C, NH3-N, NO2,
H2S <0,02 mg/lít, oxy hoà tan 6mg/lít. Độ sâu nước:0,8-1,5m.
Diện tích ao nuôi: Từ 0,3-1ha, mỗi ao có 1-2 cống cấp và thoát nước.
Vị trí ao nuôi
Chọn ao ở vùng trung hoặc hạ triều để thuận tiện cho việc cấp thoát nước.
Do ao nuôi thường ở vị trí trung triều nên sẽ rất khó tháo cạn nước để phơi
đáy ao diệt tạp, do đó cần tiến hành tẩy dọn ao bằng cách dùng saponin diệt
tạp với liều lượng 10-15g/m3, thời gian xử lý 24-36 giờ. Bón vôi để khử
chua và diệt tạp với liều lượng 1.000-1.500kg/ha, tuỳ thuộc vào pH của đất
và nước. Dùng lưới 2a=1cm, khổ 0,5-0,7m chắn quanh bờ ao để bảo vệ, lưới
chắn có góc nghiêng vào trong lòng ao 450 nhằm đảm bảo cua trong ao
không thể bò qua được.
Cấp nước vào ao nuôi: Trước khi cấp nước vào ao cần tiến hành kiểm tra
cống cấp và thoát nước, dùng lưới 2a=2mm để chắn và bảo vệ không cho
địch hại vào ao nuôi. Trong 2 tháng đầu duy trì mức nước ao từ 0,8-1m, sau
đó tăng dần nước đạt từ 1-1,4m.
Thả giống
Kích cỡ cua và tôm giống: Cua giống có độ rộng của vỏ đầu ngực (mai cua)
đạt 17-20mm, trọng lượng 0,8-1g/con, tôm giống cỡ PL 15 trở lên. Mật độ
thả 0,5 con cua/m2 nuôi ghép với 10 con tôm sú/m2.
Thời điểm thả giống: Thả cua trước 45 ngày sau đó mới thả tôm giống.
Quản lý và chăm sóc
Cho ăn: Thức ăn dùng để nuôi cua là cá tạp, nhuyễn thể, giáp xác kích thước
nhỏ, thức ăn tổng hợp dạng viên. Tỷ lệ trộn thức ăn cho cua: cá tạp 50-60%,
nhuyễn thể 30- 40%, giáp xác 10%. Để đảm bảo cho cua phát triển tốt cần
bổ sung thức ăn tổng hợp dạng viên.
Lượng thức ăn cho ăn hằng ngày phụ thuộc vào kích cỡ của cua và tôm, tăng
dần trong khi nuôi nhưng tỷ lệ % thức ăn cho ăn so với trọng lượng của cua
giảm dần, thường cho ăn 3-10% trọng lượng thân.
Thời gian cho ăn: Nên cho ăn ngày 2 lần, vào lúc 7-9 giờ và 17-18 giờ. Nếu
thức ăn dư thừa cần vớt khỏi ao nuôi sau 10 giờ tính từ lúc cho ăn.
Phương pháp cho ăn: Cho cua ăn trên sàng ăn, khoảng cách giữa sàng ăn là
4-7m.
Thay nước: Thay từ 1/3-2/3 nước cũ và cấp nước mới, thay nước 3-5 ngày
liên tục trong mỗi kỳ con nước.
Thu hoạch
-Với cua:
Sau 4 tháng nuôi tiến hành thu hoạch cua đực đạt kích cỡ thương phẩm để
giảm mật độ. Thu cua bằng cách cho thức ăn vào sàng cho ăn để cua vào ăn,
sau đó kéo sàng lên để bắt những con đạt tiêu chuẩn.
-Với tôm:
Sau 2,5 đến 3 tháng nuôi, dùng đăng hình chữ A thu hoạch tôm đạt kích cỡ
thương phẩm bằng đó, hom, trong đó, hom đặt cây đèn dầu để dẫn dụ tôm
vào.
Bảo quản sản phẩm:
Sau khu thu hoạch, trói cua bằng dây đay hoặc dây chuối. Đối với tôm sú
phải bảo quản sống bằng cách sục ôxy.
Giám sát sức khỏe tôm nuôi, xử lý sự cố theo GAP
Nuôi tôm là cả một quá trình thực hiện tương đối công phu và vất vả, nếu
người nuôi bỏ qua hay lơ là một khâu nào đó có thể dẫn đến rủi ro về sức
khỏe tôm.
Một trong số khâu quan trong của nghề trong suốt quá trình nuôi là giám sát
sức khỏe. Mạng lưới các Trung tâm Nuôi trồng thủy sản Châu Á-Thái Bình
Dương (NACA) xin hướng dẫn cho bà con các thực hành nuôi tốt (GAP)
trong nuôi tôm sú quảnh canh cải tiến như sau:
Các thông số môi trường nước nuôi thích hợp cho tôm sú được thể hiện
cụ thể như sau:
- pH tối ưu: 7.5-8.5 (Dao động hàng ngày <0.5)
- Độ mặn tối ưu:15-30‰ (Dao động hàng ngày <5‰)
- Độ kiềm tối ưu: 80-130 mg CaCO3/l (Phụ thuộc vào dao động của pH)
- Độ trong tối ưu:30-40cm
Cố gắng điều chỉnh các thông số môi trường trong ao nuôi sao cho càng gần
tới các giới hạn tối ưu thì càng tốt.
1. Duy trì độ pH
Nếu pH > 8,5 cần tiến hành thay nước.
Nếu pH < 6,5 sử dụng bột đá vôi hoặc Dolomite bằng cách hòa tan rồi tạt
đều xuống ao. Nếu là ao phèn (nước thường có màu vàng) cần rắc vôi theo
dọc bờ ao. Cần bón vôi xuống ao ngay sau khi trời mưa to.
Sau khi điều chỉnh pH cần duy trì độ kiềm 80-130 mg/lít.
2. Duy trì màu nước
Nếu nước ao có độ trong < 25cm nên thay nước tầng mặt từ 15-20% lượng
nước trong ao để loại bỏ bớt tảo.
Nếu nước ao có độ trong > 50cm, mà nước ngoài mương cấp cũng trong thì
giữ nước lại trong ao và bón bột đá vôi (200kg-300kg/ha) và phân gây màu
vào sáng sớm để tăng lượng tảo trong ao.
1. Hàng ngày kiểm tra 2 lần các dấu hiệu ngoại quan của tôm trên sàng ăn,
kết hợp kiểm tra các chỉ tiêu môi trường để nhận biết tình trạng sức khỏe của
tôm. Lưu lý các hiện tượng tôm bám bờ, kéo đàn, nổi đầu, chim ăn cá xuất
hiện, dấu hiệu bất thường khác trên thân tôm.
2. Nếu tôm có màu sáng đẹp, phụ bộ đầy đủ, đường chỉ thức ăn ở lưng đều
(liên tục) là tôm bình thường.
3. Nếu tôm giảm ăn, màu sắc thay đổi, đường chỉ thức ăn mờ, không liên
tục, chim ăn cá xuất hiện, có tôm chết là tôm có dấu hiệu bệnh. Cần lấy mẫu
để xét nghiệm bệnh hoặc báo cáo cơ quan quản lý thủy sản địa phương,
người có chứng chỉ hành nghề thú y thủy sản để được hướng dẫn biện pháp
xử lý.
4. Nếu thấy tôm bỏ ăn, dạt bờ, có phân trắng, bẩn ở vỏ, mang và các dấu
hiệu bất thường cần giảm lượngthức ăn cho tôm và thay 15-20 cm nước sau
đó rắc đều bột đá vôi theo mức từ 200-300kg/ha rải đều khắp mặt ao. Nếu
bệnh chưa giảm cần hỏi ý kiến cơ quan quản lý thủy sản địa phương, người
có chứng chỉ hành nghề thú y thủy sản để được hướng dẫn biện pháp xử lý.
5. Nếu tôm chết có đốm trắng trên vỏ là khả năng tôm bị nhiễm vi rus đốm
trắng rất cao thì không tháo nước ao để tránh lây lan bệnh, lập tức báo cho
các hộ nuôi xung quanh, cơ quan quản lý để có biện pháp xử lý.
Nhận biết tôm khoẻ và tôm bệnh
Nhận biết qua vỏ con tôm:
Tôm khoẻ mạnh vỏ thường có màu xanh lá cây, hoạt động (di chuyển, bắt
mồi) nhanh nhẹn. Màu xanh da trời ở tôm khoẻ thường có ngay sau khi lột
xác, một thời gian sau chuyển sang màu xanh lá cây. Cũng có giống tôm do
di truyền hoặc do thức ăn, điều kiện nuôi dưỡng mà có màu xanh da trời
ngay cả khi tôm khoẻ mạnh, cơ thể không lột xác.
Những vết thương ở tôm khoẻ mạnh sẽ chuyển sang màu đen hay màu nâu
sẫm (những vết màu này còn gọi là sắc tố Melanin, chúng độc đối với sinh
vật và bảo vệ cho cơ thể tôm khỏi bị nhiễm trùng) sau một vài ngày.
Giống tôm khi khoẻ mạnh vỏ có màu xanh lá cây, khi thấy vỏ tôm chuyển
sang màu xanh da trời hoặc khi lột xác cơ thể có màu đỏ nhất là phụ bộ và