Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ
302
NGHIÊN CỨU NUÔI SINH KHỐI LUÂN TRÙNG
SIÊU NHỎ (Brachionus rotundiformis)
Nguyễn Thị Kim Liên
1
, Dương Thị Hoàng Oanh
1
và Vũ Ngọc Út
1
ABSTRACT
The objective of this study was developed a procedure for biomass culture of
supper-small sized rotifers (Brachionus rotundiformis) to support the
production of marine fish and crustacean larvae. A study was conducted in
order to determine the development of rotifer community in the culture with
different regimes of biomass havest. The rotifers were cultured in a room
temperature condition of 28
o
C and water salinity of 25‰ at a density of 500
ind./mL. They were fed with baker yeast at a feeding rate of 0.4 g per million
rotifer per day. Four treatments were randomly designed in the 25 L composite
tank system (three replicates each) with different ratios of biomass removal
including 15, 20, 25 and 30%/day. The results indicated that treatment of 20%
biomass/day resulted in higher biomass production compared to other
treatments, with a mean yield of 4 millions rotifers/day/tank throughout 17
days of culture duration. Based on this optimal harvest rate, a trial of mass
culture in larger scale was conducted in the out-door system. The rotifers were
cultured in three composite tanks with volume of 500 L/tank each, and a
harvest rate of 20% biomass/day was applied. With this removal rate, a mean
biomass production of 68 millions rotifers/day/tank was obtained. However,
the culture period was shorter than that in the indoor system (15 days
compared to 17 days, respectively). The environmental parameters such as
temperature, pH, NH
3
and N-NO
2
in the culture were in suitable range for
growth of rotifers in both systems.
Keywords: Biomass culture, mean yield, rotifer.
Title: Study on biomass culture of supper-small sized rotifer (Brachionus
rotundiformis)
TÓM TẮT
Nghiên cứu nuôi sinh khối luân trùng siêu nhỏ được thực hiện với mục tiêu là
nhằm ứng dụng trong việc ương nuôi một số ấu trùng cá biển và giáp xác.
Nghiên cứu được thực hiện gồm có 1 thí nghiệm để xác định khả năng phát
triển của quần thể luân trùng với các tỉ lệ thể tích thu sinh khối khác nhau và
ứng dụng nuôi sinh khối luân trùng với thể tích nuôi lớn hơn. Thí nghiệm được
tiến hành trong điều ki
ện nhiệt độ phòng (28
o
C), độ mặn 25‰ và được bố trí
1
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ
303
trên 12 bể composite 25 L với 4 nghiệm thức có tỉ lệ thể tích thu sinh khối lần
lượt là 15, 20, 25 và 30%/ngày, mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại. Mật độ luân
trùng là 500 cá thể/mL, thức ăn đựợc sử dụng là men bánh mì với lượng cho ăn
là 0,4 g/1 triệu luân trùng/ngày. Dựa trên tỉ lệ thu sinh khối tốt nhất ở thí
nghiệm đầu, phần thực nghiệm nuôi sinh khối luân trùng được bố trí ở ngoài
trời và được thực hiệ
n trên 3 bể composite (500 L) với tỉ lệ thu sinh khối
20%/ngày. Nghiệm thức có tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày thì quần thể luân trùng
phục hồi nhanh nhất, bình quân số lượng luân trùng thu được khỏang 4 triệu
cá thể/ngày trong bể 25 L và duy trì trong khoảng thời gian 17 ngày. Tuy
nhiên, khi nuôi sinh khối luân trùng ở ngoài trời thì thời gian nuôi ngắn hơn,
chỉ khoảng 15 ngày, số lượng luân trùng thu được trung bình là 68 triệu cá
thể/ngày trên bể 500 L. Trong các nghiên cứu trên kết quả cho thấy các yếu tố
môi trường bao gồm nhiệ
t độ, pH, NH
3
và N-NO
2
đều nằm trong khoảng thích
hợp cho sự phát triển của quần thể luân trùng.
Từ khóa: Nuôi sinh khối, năng suất trung bình, luân trùng
1 GIỚI THIỆU
Hiện nay, có rất nhiều loài luân trùng được gây nuôi sinh khối để làm thức ăn
cho ấu trùng cá biển và giáp xác giai đoạn nhỏ. Trong đó, luân trùng siêu nhỏ
Brachionus rotundiformis được xem là một trong các đối tượng được nuôi phổ
biến do chúng có nhiều đặc điểm ưu việc hơn so với các loài luân trùng khác.
Bởi vì chúng có kích thước nhỏ, hình dạng tròn, bơi lội chậm, lơ lửng trong
nước, dễ dàng được giàu hóa với các dưỡng chất cần thiết, khả năng sinh sản
nhanh và được nuôi với mật độ cao (Hoff và Snell, 1989; Snell và Carrillo,
1984; Lubzens và ctv., 1989). Ngoài ra, luân trùng còn có hàm lượng dinh
dưỡng cao và enzym cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của ấu trùng cá.
Bên cạnh đó, luân trùng siêu nhỏ B. rotundiformis với kích thước trên dưới 100
µm sẽ là nguồn thức ăn ban đầu lý tưởng cho ấu trùng có kích thước nhỏ của
các loài cá đối, cá nâu, cá mú… Chẳng hạn như ấu trùng cá mú khi được cho
ăn bằng luân trùng siêu nhỏ và Artemia được giàu hóa với n-3 HUFAs sẽ có
tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống cao hơn, khả năng chịu đựng được stress tốt
hơn khi được cho ăn với các loại thức ăn khác, mật độ luân trùng được duy trì
ở mật độ từ 2-3 cá thể/mL cho đến khi ấ
u trùng cá mú đủ lớn để chuyển sang
ăn Artemia và Copepoda trưởng thành (Quinitio, 1996 được trích dẫn bởi
Rimmer, 2000). Vì vậy, để chủ động tạo ra sinh khối luân trùng B.
rotundiformis phục vụ cho việc sản xuất giống các loài thủy sản nước lợ nên
nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là xác định khả năng phát triển
của quần thể luân trùng với các tỉ lệ thu sinh khối khác nhau, trên cơ sở đó để
mở rộng nuôi sinh khối luân trùng ở qui mô lớn hơn nhằm ứng dụng trong việc
ương nuôi một số ấu trùng cá biển và giáp xác.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ
304
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-
Thời gian thực hiện: nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ tháng 1
đến tháng 5 năm 2008.
- Nguồn nước: Nước có độ mặn khoảng 80‰ được pha với nước ngọt đạt đến
độ mặn 25‰. Nước được xử lí bằng Chlorine nồng độ 20-30 ppm trong vòng
24 giờ, sục khí mạnh liên tục. Sau đó được trung hòa bằng Natrithiosulphats,
hàm lượng clo dư thừa được kiểm tra bằng dung dịch KI và dung dịch thử là hồ
tinh bột. Nước xử lý được để lắng trong vòng 24 giờ, sau đó được lọc qua bông
gòn trước khi sử dụng để nuôi luân trùng.
- Quá trình nhân giống: luân trùng có nguồn gốc từ Nhật Bản được lấy từ
phòng trữ giống luân trùng của Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy
sản, Trường Đại học Cần Thơ. Luân trùng được nhân giống từ các ống giữ
giống có thể tích 50 mL, mật độ nuôi ban đầu là 2 ct/mL, cho ăn bằng tảo
Chlorella. Sau đó, luân trùng được nhân ra bình tam giác 0,5 L, khi luân trùng
đạt mật độ 200-300 ct/mL sẽ tiến hành chuyển sang bình 8 L, 30 L, 100 L cho
đến khi đạt đủ số lượng để bố trí thí nghiệm.
- Bố trí thí nghiệm: nghiên cứu gồm có 2 thí nghiệm như sau:
Thí nghiệm 1: xác định khả năng phát triển của quần thể luân trùng với các tỉ
lệ thể tích thu sinh khối khác nhau. Thí nghiệm được bố trí trong điều kiện
phòng trên 12 bể composite có thể tích 30 L (chứa 25 L nước) với 4 nghiệm
thức có tỉ lệ thu sinh khối khác nhau lần lượt là 15, 20, 25 và 30%/ngày (NT
15
,
NT
20
, NT
25
và NT
30
), mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại, bố trí theo kiểu hoàn
toàn ngẫu nhiên. Mật độ nuôi là 500 cá thể/mL, độ mặn 25‰. Thức ăn sử dụng
là men bánh mì với lượng cho ăn là 0,4 g/1 triệu luân trùng/ngày, tần suất cho
ăn 8 lần/ngày. Hệ thống bể thí nghiệm được sục khí nhẹ nhàng và liên tục.
Hình 1: Hệ thống bể luân trùng của thí nghiệm 1
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ
305
Thí nghiệm 2: Thử nghiệm nuôi sinh khối luân trùng. Thí nghiệm được thực
hiện trên 3 bể 500 L ở điều kiện bên ngoài có mái che, mật độ nuôi 500 cá
thể/mL, tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày.
Các thông số theo dõi của hai thí nghiệm
Mật độ luân trùng: Hằng ngày mật độ luân trùng được kiểm ta bằng cách dùng
micropipet lấy 50 μl mẫu, mỗi mẫu thu 3 lần, sau đó nhuộm bằng dung dịch
lugol. Dùng buồng đếm Bogorov đếm tổng số luân trùng và số luân trùng mang
trứng. Mật độ trung bình cho một mẫu là số trung bình của 3 lần đếm.
Xác định tỉ lệ mang trứng của luân trùng
Tỉ lệ mang trứng = (Số cá thể mang trứng/ tổng số cá thể đếm được) x 100
Các yếu tố thủy lý hóa: pH và nhiệt độ được đo 1 ngày/lần vào lúc 8 giờ sáng,
các chỉ tiêu N–NO
2
-
và TAN
được thu 3 ngày/lần lúc 8 giờ sáng. Mẫu thu sẽ
được lọc qua lưới lọc có kích thước mắt lưới 30 μm, đem trữ lạnh ở điều kiện
nhiệt độ 4
0
C. Sau đó các mẫu này được phân tích theo các phương pháp phân
tích hiện hành (APHA, 1999) tại phòng phân tích chất lượng nước, Khoa Thủy
sản, Trường Đại học Cần Thơ.
- Phương pháp xử lý số liệu: các số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel và
so sánh thống kê bằng phần mềm SPSS với ANOVA một nhân tố để so sánh
độ sai biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở mức P<0, 05.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Thí nghiệm 1: Xác định khả năng phát triển của quần thể luân trùng với
các tỉ lệ thu sinh khối khác nhau
Hình 2: Nuôi sinh khối luân trùng của thí nghiệm 2
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ
306
3.1.1
Các yếu tố môi trường
- Nhiệt độ: Thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện phòng với nhiệt độ
được duy trì ở 28
o
C, nhiệt độ nước trong bể nuôi thay đổi không đáng kể so với
nhiệt độ phòng (28±0,5
o
C). Theo Dhert (1996) thì khoảng nhiệt độ thích hợp
cho luân trùng sinh sản và phát triển nằm trong khoảng 25-30
o
C. Nuôi luân
trùng ở ngoài khoảng nhiệt độ 20-25
o
C sẽ hạn chế được Ciliates (Reguera,
1984).
- pH: Giá trị trung bình của pH không có sự biến động lớn giữa các nghiệm
thức và nằm trong khoảng tương đối thích hợp cho sự phát triển của luân trùng
(7,14-7,19). pH ở các nghiệm thức có xu hướng giảm dần vào cuối thí nghiệm
ở tất cả các nghiệm thức, điều này có thể là do lượng thức ăn thừa, xác bã luân
trùng chết và phân hủy làm cho tăng khả năng tích tụ các v
ật chất trong bể
nuôi, từ đó làm giảm pH bởi vì theo Dhert (1996) những chất thải ra từ quá
trình trao đổi chất của chúng làm gia tăng lượng NO
2
-
và giảm pH. Nhìn chung,
pH trong thí nghiệm không ảnh hưởng đến đời sống của luân trùng.
- Hàm lượng NH
3
(ppm): Kết quả hàm lượng NH
3
được tính toán kết quả
phân tích hàm lượng TAN trong thí nghiệm và được thể hiện ở Hình 3. Hàm
lượng NH
3
ở các nghiệm thức tương đối thấp và tăng dần về cuối thí nghiệm,
nhưng vẫn còn ở mức thấp, thích hợp cho sự phát triển của luân trùng. Hàm
lượng NH
3
cao nhất ở NT
15
vào ngày thứ 13 (0, 32±0,02mg/l), điều này là do
quá trình thay nước hàng ngày đã làm cho hàm lượng NH
3
không tăng cao vào
cuối thí nghiệm. Theo Dhert (1996) hàm lượng NH
3
dưới 1 ppm là an toàn cho
quần thể luân trùng Brachionus plicatilis phát triển. Bên cạnh đó, Groeneweg
và Schluter (1981) cho rằng với hàm lượng NH
3
nhỏ hơn 3 ppm thì không gây
độc cho luân trùng Brachionus rubens.
- Hàm lượng N-NO
2
-
(ppm): Hàm lượng N-NO
2
-
không có sự khác biệt đáng
kể giữa các nghiệm thức và biến động trong khoảng 0,027-0,174 ppm. Theo
Groeneweg và Schluter (1981) hàm lượng N-NO
2
-
từ 10-20 ppm không gây
0.000
0.050
0.100
0.150
0.200
0.250
0.300
0.350
036912
Ngày
NH3 (ppm)
NT15
NT20
NT25
NT30
Hình 3.1: Biến động hàm lượng NH
3
ở thí nghiệm 1