Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ
381
PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN CHẾ BIẾN
TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN (Channa striata)
Trần Thị Thanh Hiền
1
, Ngô Minh Dung
1
, Bùi Minh Tâm
1
ABSTRACT
Study on artificial food weaning for snakehead murrel (Channa striata) larvae
was conducted with 2 experiments. The first experiment was set up to
determine the period of time and methods for effectively weaning artificial food
in rearing snakehead murrel larvae. The experiment was set up with 7 diet
treatments. In the control treatment using live food (Moina and trash fish). In
the other diet treatments differed from the time weaning artificial food (10, 17
and 24 after hatching day) and weaning methods (10% or 20% amount of
artificial food increase per day). After 5 weeks, the results showed that the best
survival and specific growth rate of fry fish were achieved for those weaned
artificial food at 17 after hatching day with the replacing method which
increased 10% amount of artificial food per day (64,7% and 8,89%/day). The
second experiment included 4 diet treatments. The control treatment, fish was
fed feed without attractant supplementation. The treatments (2, 3 and 4) were
fed diets adding 2% fish protein hydrolysate, 2% squid liver oil or 2%
earthworm liquid, respectively. Results after 4 weeks experiment showed that
fish protein hydrolysate supplied as attractants had significantly higher
survival rate (79,3%) and specific growth rate (8,89%/ngày) compared to the
other diet treatments.
Keywords: Channa striata, artificial food, attractant
Title: Weaning methods for artificial food in rearing snakehead murrel
(Channa striata) larvae
TÓM TẮT
Nghiên cứu về phương thức tập ăn thức ăn thức ăn chế biến trong ương cá lóc
đen được thực hiện ở 2 thí nghiệm. Thí nghiệm thứ nhất nhằm xác định thời
điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen bột
gồm 7 nghiệm thức (3 lần lặp lại). Nghiệm thức đối chứng sử dụng hoàn toàn
thức ăn tự nhiên. Các nghiệm thức còn lại khác nhau về thời gian bắt đầu tập
ăn thức ăn chế biến (10, 17 và 24 ngày tuổi) và phương thức tập ăn (tăng dần
10% hoặc 20% thức ăn chế biến/ngày). Kết quả cho thấy, sau 5 tuần thí
nghiệm, tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá đạt tốt nhất khi tập ăn thức ăn chế
bi
ến ở 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10% thức ăn chế biến/ngày
1
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ
382
(64,7% và 9,64%/ngày). Thí nghiệm 2, các nghiệm thức thức ăn có bổ sung các
chất dẫn dụ khác nhau nhằm so sánh ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác
nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá bột. Thí nghiệm gồm 4
nghiệm thức. Nghiệm thức đối chứng không bổ sung chất dẫn dụ, các nghiệm
thức còn lại lần lượt được bổ sung 2% dịch cá thủy phân, 2% dầu gan mực
hoặc 2% dịch trùn quế. Kết quả sau 4 tuần thí nghiệm cho thấy dịch cá thuỷ
phân là chất dẫn dụ kích thích bắt mồi hiệu quả nhất, cho tỉ lệ sống (79,3%) và
tăng trưởng (8,89%/ngày) cao nhất.
Từ khóa: cá lóc đen, thức ăn chế biến, chất dẫn dụ
1 GIỚI THIỆU
Cá lóc đen (Channa striata) là loài cá dữ, ăn thịt, phân bố tự nhiên trên sông,
kênh, rạch, đồng ruộng… Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cá lóc đen
có thể nuôi thâm canh trong ao và bè đều đạt năng suất cao. Ngoài tự nhiên cá
lóc đen ăn các động vật sống như cá, tép, nhái… nhưng khi nuôi trong ao và bè
chúng có thể sử dụng được các loại thức ăn như tấm, cám, thức ăn viên, cá
tạp… Hiện nay, cá lóc đen chủ yếu được nuôi bằng thức ăn tươi sống (cá tạp
nguyên con hay xay nhỏ). Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá nước ngọt,
đặc biệt là các loài cá dữ, chất lượng thịt ngon đang phát triển mạnh đã làm gia
tăng đáng kể nhu cầu cá tạp. Năm 2008 riêng tỉnh An Giang lượng cá tạp sử
dụng trong nuôi cá lóc đã là 67.056 tấn, có 38 loài cá nước ngọt được sử dụng,
trong đó hơn 50% là các loài cá kinh tế (Phan Hồng Cương, 2009). Việc sử
dụng chủ yếu cá tạp trong nuôi cá lóc dẫn đến việc phụ thuộc của nghề nuôi
vào nguồn cá tạp, chất lượng cá tạp, giá cá tạp cung cấp.
Ở Việt Nam, cá lóc nói chung và cá lóc đen nói riêng khi nuôi trong ao bè đều
có khả năng sử dụng thức ăn chế biến. Trong nghiên cứu cũng như ngoài thực
tế, việc chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn nhân tạo được thực hiện càng
sớm càng tốt nếu nó không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá bột.
Nếu cá sử dụng tốt thức ăn nhân tạo thì sẽ hạn chế được bệnh lây nhiễm qua
thức ăn tự nhiên, giảm chi phí và chủ động được nguồn thức ăn trong ương
nuôi (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008). Tuy nhiên thời điểm và phương thức
tập ăn thức ăn chế biến của cá bột cũng khác nhau tuỳ theo loài. Do vậy mục
tiêu của nghiên cứu này là tìm thời điểm và phương thức thích hợp khi chuyể
n
đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cho cá lóc đen bột nhằm góp
phần hạn chế việc sử dụng cá tạp trong ương nuôi cá lóc đen.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu phương thức tập ăn thức ăn chế biến cho cá lóc bột được tiến hành
tại trai thực nghiệm – Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ. Nghiên cứu
được thực hiện với 2 thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong bể
composit thể tích 100 lít/bể, mật độ 100 con/bể.
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ
383
2.1 Thí nghiệm 1: Xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả
thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột
Nghiên cứu được thực hiện trên cá lóc đen bột 10 ngày tuổi. Thời gian thí
nghiệm là 5 tuần. Gồm 7 nghiệm thức (3 lần lặp lại): nghiệm thức đối chứng
cho ăn hoàn toàn thức ăn tươi sống (Moina và cá tạp); Các nghiệm th
ức còn lại
khác nhau về thời gian bắt đầu cho ăn thức ăn chế biến (10, 17 và 24 ngày tuổi)
và phương thức tập ăn (thay thế tăng dần Moina (cá tạp) bằng thức ăn chế biến,
tỉ lệ 10% hoặc 20% TACB/ngày). Các nghiệm thức chưa đến thời điểm cho ăn
thức ăn chế biến sẽ được cho ăn như nghiệm thức đối chứ
ng. Thức ăn chế biến
có hàm lượng protein là 50%, lipid 12% được phới chế từ các nguồn nguyên
liệu tinh như: bột cá, bột đậu nành, cám, bột mì và các chất bổ sung khác, được
phối chế thành viên mảnh 0,1-0,2 mm
Ghi chú:
Hình 1: Thời điểm và phương thức tập ăn của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1
2.2 Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau
lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột
Cá bột được tập ăn thức ăn chế biến ở thời điểm thích hợp và phương thức hiệu
quả nhất (kết quả của thí nghiệm 1) với các nghiệm thức thức ă
n chế biến có bổ
Ngày tuổi
5 10 17 24 31 38 45
10 ngày tuổi
10% TĂCB/ngày
10 ngày tuổi
20% TĂCB/ngày
17 ngày tuổi
10% TĂCB/ngày
17 ngày tuổi
20% TĂCB/ngày
24 ngày tuổi
10% TĂCB/ngày
24 ngày tuổi
20% TĂCB/ngày
Đối chứng
Nghiệm thức
Moina Cá tạp Thức ăn chế biến
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ
384
sung các chất dẫn dụ khác nhau. Thời gian thí nghiệm là 4 tuần. Thí nghiệm
gồm 4 nghiệm thức (3 lần lặp lại). Nghiệm thức thức ăn đối chứng không bổ
sung chất dẫn dụ, các nghiệm thức thức ăn còn lại lần lượt được bổ sung 2%
dịch cá thủy phân, 2% dầu gan mực hoặc 2% dịch trùn quế.
2.3 Quản lý thí nghiệm và ghi nhận kết quả
Cá được cho ăn theo nhu cầu, 4 lần/ngày. Hằng ngày theo dõi, ghi nhận các
hoạt động ăn, bơi lội, bắt mồi của cá và đếm số cá chết. Thức ăn thừa và phân
cá được siphon 2 lần/ngày. Các bể thí nghiệm có sục khí và nước chảy tràn liên
tục. Trong suốt thời gian thí nghiệm các yếu tố môi trường đều được duy trì
phù hợp với điều kiện sinh trưởng của cá. Mẫu cá được cân 100 con ngẫu nhiên
để xác định trọng lượng ban đầu. Thu mẫu cuối đợt thí nghiệm bằng cách cân
từng con. Ghi nhận khối lượng và tỉ lệ sống của cá ở mỗi bể thí nghiệm.
Các chỉ tiêu thành phần hóa học của thức ăn gồm ẩm độ, đạm thô, chất béo thô,
bột đường, chất tro được phân tích trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp
của AOAC (2000). Khối lượng cá ban đầu (Wi) được xác định khi bố trí thí
nghiệm. Tỷ lệ sống (SR), khối lượng cuối (Wf), khối lượng gia tăng (Wg), tăng
trưởng tuyệt đối DWG (g/ngày), được tính toán giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn và phân tích Anova, tìm sự khác biệt giữa các trung bình nghiệm thức
bằng phép thử Duncan sử dụng phần mềm SPSS.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế
biến của cá lóc đen giai đoạn bột
3.1.1 Tỉ lệ sống
Sau 5 tuần thí nghiệm, tỉ lệ sống của cá có sự khác nhau theo ngày tuổi tập ăn
lẫn phương thức tập ăn của các nghiệm thức (Hình 2).
0
10
20
30
40
50
60
70
80
10 ngà y tuổ i 17 ngà y tuổ i 24 ngà y tuổ i
Thờ i điể m tậ p ăn
Tỉ lệ số ng - SR (%)
Đố i chứ ng
10% TĂCB/ngà y
20% TĂCB/ngà y
a
c
d
aa
ab
b
a
a
Hình 2: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời
điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ
385
Nghiệm thức 10 ngày tuổi có tỉ lệ sống thấp nhất (15,3% và 2,33%) và thấp
hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Thời gian cá sử dụng
hiệu quả thức ăn chế biến chịu ảnh hưởng lớn vào sự hoàn thiện của ống tiêu
hóa cũng như sự phát triển chức năng sinh lý của ống tiêu hóa ở giai đoạn cá
bột (Cuvier-Péres và Kestemont, 2002). Kết quả thí nghiệm cho thấy
ở thời
điểm 10 ngày tuổi hệ thống tiêu hóa của cá lóc đen bột chưa thể sử dụng thức
ăn chế biến. Điều này tương tự như báo cáo của Bùi Minh Tâm et al., (2004)
trên cá lóc đen khi tập ăn ở 15 ngày tuổi có tỉ lệ sống chỉ 10%. Tỉ lệ sống ở các
nghiệm thức tập ăn thức ăn chế biến ở ngày tuổi thứ 17 (63,7% và 64,7%) và
24 (56,7% và 47,7%) là khá cao. Trong đó nghiệm thức 17 ngày tuổi có tỉ lệ
sống đạt cao nhất (63,7% và 64,7%), cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với
nghiệm thức 10 ngày tuổi và khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05) so với đối
chứng (64,7%). Theo Walford và Lam (1993) cá bột có hoạt tính men tiêu hóa
thấp ở những ngày đầu ăn thức ăn ngoài và tăng dần trong suốt giai đoạn ấu
trùng trước khi chuyển sang giai đoạn khác. Vì vậy ở hầu hết các loài cá bột,
khi bắt đầu ăn thức
ăn ngoài, chúng đòi hỏi có thời gian nhất định để phát triển
khả năng thích nghi với thức ăn chế biến. Như vậy ở ngày tuổi thứ 17 hệ tiêu
hóa của cá lóc đen bột đã có sẵn sàng cho việc sử dụng thức ăn chế biến, tương
tự với kết quả khi ương cá thát lát còm (Chitala chitala) bằng thức ăn chế biến
ở ngày tuổi thứ 20 (74%) (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy,
2008). Trong giai đoạn cho ăn kết hợp (gồm thức ăn tươi và thức ăn chế biến)
với tỉ lệ thay thế thấp (10% TĂCB/ngày) và trong thời gian dài hơn sẽ giúp cá
chấp nhận thức ăn chế biến tốt hơn.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
10 ngà y tuổ i 17 ngà y tuổ i 24 ngà y tuổ i
Thờ i điể m tậ p ăn
Tỉ lệ ăn nhau (%)
Đố i chứ ng
10% TĂCB/ngà y
20% TĂCB/ngà y
d
b
a
d
c
c
d
c
c
Hình 3: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời
điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm
Kết quả theo dõi thí nghiêm cho thấy, tỉ lệ ăn nhau thấp nhất ở nghiệm thức đối
chứng (2,67%) và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức sử
dụng thức ăn chế biến (Hình 3). Có thể thấy ở nghiệm thức này sử dụng thức