Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phí khí thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.52 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
1. Tình hình trên thế giới
1.1 Nghị định thư Kyoto
1.2 Những nguyên tắc chính trong nghị định thư Kyoto
1.3 Tình trạng hiện tại của các nước tham gia
2. Hệ thống tiêu chuẩn khí thải Châu Âu
2.1 Hiện trạng
2.2 Phương pháp xác định phí khí thải
2.3 Thực trạng về việc phát thải khí ở Mỹ
3. Hiện trạng ở Việt Nam
3.1 Việc xây dựng và hình thành những quy định về thu phí khí thải.
3.2 Phân loại nguồn thải
3.3 Công cụ quản lý khí thải
NỘI DUNG
1. Tình hình trên thế giới
1.1 Nghị định thư Kyoto
Nghị định thư Kyoto là một cam kết được tiến hành dựa trên các nguyên tắc của
Chương trình khung của Liên hiệp quốc về vấn đề biến đổi khí hậu (Framework
Convention on climate Change /FCCC) mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với
mục tiêu cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được ký kết vào
ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba (3
rd
Conference
of the Parties) khi các bên nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày
16/2/2005.
Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 nước kí kết tham gia chương trình này.
Trong đó có khoảng 36 nước phát triển (với liên minh Châu Âu được tính là một)
được yêu cầu phải có hành động giảm thiểu khí thải nhà kính mà họ đã cam kết cụ
thể trong nghị trình (lượng khí này chiếm hơn 61.6% của lượng khí của nhóm nước
Annex I
[1][2]


cần cắt giảm). Nghị định thư cũng được khoảng 137 nước đang phát
triển tham gia kí kết trong đó gồm Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ nhưng không chịu
ràng buột xa hơn các vấn đề theo dõi diễn biến và báo cáo thường niên về vấn đề
khí thải.
Bên cạnh đó cũng còn nhiều tranh cãi xung quanh mức độ hiệu quả của nghị
định này giữa các chuyên gia, khoa học gia và những nhà hoạt động môi trường.
Một vài nghiên cứu về phí tổn bỏ ra nhằm hậu thuẫn cho sự thành công của nghị
định cũng đã được quan tâm tiến hành.
Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở
mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của
con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường".
Nghị định thư Kyoto là một cam kết được tiến hành dựa trên các nguyên tắc
của Chương trình khung của Liên hiệp quốc về vấn đề biến đổi khí hậu . Trong đó
những quốc gia tham gia kí kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí CO2 và năm loại
khí gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có thể tiến hành biện pháp thay thế như
Emission trading nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó.
Theo một bài báo về Chương trình biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc thì:
Nghị định thư đại diện cho sự thống nhất giữa các quốc gia công nghiệp trong
vấn đề cắt giảm khí thải trên 5.2% so với năm 1990 (lưu ý rằng mức độ cắt giảm
theo đó đến năm 2010 phải đạt được thì chỉ tiêu này là khoảng 29%). Mục tiêu
hướng đến việc giảm thiểu các loại khí carbon dioxide, methane, nitơ ôxít, lưu
huỳnh hexafluorua, clorofluorocarbon và perflourocarbon trong khoảng thời gian
2008-2021. Mức trần đã được qui định cho các nước tham gia cụ thể là 8% mức
cắt giảm cho Liên minh Châu Âu và 7% cho Hoa Kỳ, 6% với Nhật Bản, 0% với Nga
trong khi mức hạn ngạch cho phép tăng của Úc là 8%, và 10% cho Iceland.
Đó là sơ thảo do Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu của Liên hiệp
quốc đưa ra - UNFCCC khi được nhất trí trong Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu tại
Rio de Janeiro vào 1992. Khi đó chỉ có những nước thuộc Chương trình khung về
vấn đề biến đổi khí hậu mới tham gia kí kết. Sau đó Nghị định thư Kyoto mới được
đệ trình trong phiên họp thứ ba của Hội nghị các bên tham gia nằm trong Chương

trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu được tổ chức vào năm 1997 tại Kyoto, Nhật
Bản.
Hầu hết những điều khoản trong Nghị định thư là yêu cầu dành cho các nước
công nghiệp phát triển - được liệt vào nhóm Annex I trong UNFCCC, và không có
hiệu lực đối với các nguồn khí thải đến từ lãnh vực hàng không và hàng hải thuộc
phạm vi quốc tế.
Nghị định thư giờ đây có hiệu lực với hơn 170 quốc gia, chiếm khoảng 60%
các nước liên quan đến vấn đề khí thải nhà kính. Tính đến tháng 12 năm 2007, Hoa
Kỳ và Kazakhstan là hai nước duy nhất không tiến hành các biện pháp cắt giảm dù
có tham gia kí kết nghị định thư. Hiệu lực của bản hiện tại sẽ hết vào năm 2012, để
vun đắp thành công cho nghị trình hiện tại, nhiều hội nghị quốc tế với sự tham gia
của các bên liên quan đã được tiến hành từ tháng 5/2007.
Nghị định được kí kết bởi chính phủ các quốc gia tham gia Liên hiệp quốc và
được điều hành dưới các nguyên tắc do tổ chức này qui ước. Các quốc gia được
chia làm hai nhóm: nhóm các nước phát triển-còn gọi là Annex I (vốn sẽ phải tuân
theo các cam kết nhằm cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính ) và buộc phải có bản đệ
trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thải; và nhóm các nước đang phát
triển-hay nhóm các nước Non-Annex I (không chịu ràng buộc các nguyên tắc ứng
xử như Annex I nhưng có thể tham gia vào Chương trình cơ cấu phát triển sạch).
Các quốc gia Annex I không đáp ứng được yêu cầu đặt ra như trong bản kí kết
sẽ phải cắt giảm thêm 1.3 lượng khí vượt mức cho phép trong thời hạn hiệu lực tiếp
theo của nghị định thư.
Kể từ tháng 1/2008 đến hết năm 2012, nhóm nước Annex I phải cắt giảm
lượng khí thải để lượng khí thải ra thấp hơn 5% lượng khí vào năm 1999 (với nhiều
nước thành viên Châu Âu, mức này tương đương khoảng 15% lượng khí họ thải ra
vào năm 2008). Trong khi trung bình của lượng khí phải cắt giảm là 5%, mức dao
động giữa các quốc gia của Liên minh Châu Âu là 8% đến 10% (đối với Iceland),
nhưng do ràng buộc với nghị định thư với từng nước trong khối có khác nhau nên
một số nuớc kém phát triển trong EU có thể được phép giữ cho mức tăng đến 27%
(so với 1999). Quy ước này sẽ hết hạn vào năm 2013.

1.2Những nguyên tắc chính trong nghị định thư Kyoto
Nghị định thư Kyoto cũng cho phép một vài cách tiếp cận linh hoạt cho các
nước Annex I nhằm đạt được mục tiêu cắt giảm khí thải bằng cách cho phép các
nước này mua lượng khí cắt giảm được từ những quốc gia khác. Điều này có thể đạt
được dưới hình thức tài chính hay từ những chương trình hỗ trợ công nghệ cho các
nước Non-Annex I (vốn có tham gia vào Chương trình cơ cấu phát triển sạch-CDM)
để các nước này hoàn thành mục tiêu đã kí kết trong Nghị định thư, trong đó chỉ có
những thành viên được chứng nhận CER trong Chương trình cơ cấu phát triển sạch
mới được phép tham gia.
Trong thực tế, điều này có nghĩa là các nền kinh tế nhóm nước đang phát triển
tham gia Kyoto Protocol không bị bắt buộc phải giới hạn lượng khí thải gây ra,
nhưng một khi chương trình cắt giảm khí thải được xúc tiến ở các quốc gia này nó
sẽ nhận được một lượng hạn ngạch carbon cho phép (Carbon Credit), vốn có thể
bán cho các nước Annex I. Qui định này xuất hiện trong Nghị định thư do:
• Có dấu hiệu lo ngại rằng chi phí bỏ ra cho mục tiêu được kí kết trong Nghị
định thư là quá đắt đối với các nước Annex I , đặc biệt là các nước đã đầu tư rất
hiệu quả cho việc bảo vệ môi trường trên đất nước họ và đã đạt tiêu chuẩn môi
trường sạch. Vì lí do đó Nghị định thư cho phép những nước này mua lượng hạn
ngạch carbon cho phép (Carbon Credit) từ các nước nhóm nước đang phát triển
tham gia Kyoto Protocol trên thế giới thay vì tiến hành nâng cấp tiêu chuẩn môi
trường trong nước.

Đ
iều
này
được
xem
như
một công cụ hiệu quả nhằm khuyến khích các nước nhóm nước đang phát triển
tham gia Kyoto Protocol giảm thiểu khí gây hiệu ứng nhà kính (phát triển bền

vững), hơn nữa điều này là rất kinh tế vì lượng đầu tư vào các quốc gia nhóm nước
đang phát triển tham gia Kyoto Protocolsẽ tăng lên thông qua việc mua bán hạn
ngạch carbon cho phép (với điều kiện các nước này phải tham gia vào chương trình
cắt giảm khí thải qua chương trình CDM).
1.3 Tình trạng hiện tại của các nước tham gia
Nhật Bản
Trong cuộc gặp gỡ tháng 11 năm 2007 tại Washington D.C., Thủ tướng Nhật
Bản Yasuo Fukuda và Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush nhấn mạnh về sự hợp
tác tiếp tục giữa hai nước về vấn đề biến đổi khí hậu, phát triển sạch và an ninh
năng lượng. Theo đó hai bên đã cùng đưa ra các cam kết:
• Quyết không để Hiệp định khung về vấn đề biến đổi khí hậu (ở VN hay gọi
là Công ước khung) Bali sụp đổ và cùng lập nên một "Lộ trình Bali " nhằm
tạo một sức nặng cần thiết cho các cuộc hội đàm để thông qua một Hiệp định
hoàn chỉnh vào 2012.
• Liên quan đến Hội nghị thượng đỉnh G8 sẽ được tổ chức ở Toyako,
Hokkaido sắp tới, hai nước cam kết lẫn nhau về việc thỏa mãn các yêu cầu
về vai trò đối với các nghĩa vụ trên cương vị là thành viên của G8, song song
đó hai nước sẽ tiếp tục hợp tác để có bước tiến rõ ràng hơn cho một Hiệp
định khung nhận nhiều sự đồng thuận vào 2012.
• Lập một chương trình riêng trong Hội nghị thượng đỉnh G8 nhằm xác định
các đóng góp cụ thể cho công tác bảo vệ môi trường của từng nước trước
2009 và cùng theo đuổi một thỏa ước trong đó cho phép dung hoà giữa các
cam kết môi trường đi kèm một nền kinh tế phát triển bền vững.
• Cùng tập trung vào các thảo luận để có một nền kinh tế bền vững dựa trên
các tiêu chuẩn môi trường toàn cầu:
1. Một mục tiêu dài hạn cho công tác cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính đi
cùng với mục tiêu phát triển kinh tế.
2. Các chương trình quốc gia cho phép xác định các mục tiêu trung hạn để hỗ
trợ cho mục tiêu toàn cầu kèm với các công cụ chính sách thích hợp nhằm
theo dõi tiến trình bảo vệ môi trường một cách hiệu quả nhất.

3. Tiến hành các dự án hợp tác phát triển công nghệ và triển khai các chiến
lược trong các lãnh vực chủ chốt gồm nhà máy phát điện có hàm lượng khí
cacbon thải thấp, công nghệ sạch trong phương tiện chuyên chở, các chương
trình khai thác đất đai, chú ý phát triển các nguồn năng lượng thay thế
(nguyên tử, mặt trời, năng lượng gió) và nâng cao tiêu chuẩn môi trường
hiện tại.
4. Có biện pháp cơ cấu các khoản tài chính cho mục tiêu hỗ trợ phát triển công
nghệ sạch đi kèm với các chính sách thích hợp kích thích tiêu dùng các sản
phẩm hàng hóa dịch vụ từ công nghệ sạch.
5. Nhanh chóng cải cách các chính sách theo dõi tiến trình bảo vệ môi trường
hiện tại để các nước thành viên Liên hiệp quốc đều có thể cùng áp dụng tham
gia.
• Góp phần nêu bật các giá trị có được thông qua các chương trình hỗ trợ phát
triển môi trường toàn cầu, nhấn mạnh sự hợp tác giữa khu vực công và tư
trong các đề án phát triển như đã đề cập trong Thỏa thuận của liên hiệp Châu
Á - Thái Bình Dương về khí hậu và phát triển sạch (Asia-Pacific Partnership
on Clean Development and Climate-APP)
• Tiếp tục vai trò lãnh đạo của hai nước trong nhiệm vụ nghiên cứu và phát
triển năng lượng và công nghệ môi trường sạch, song song với việc khuyến
khích các nền kinh tế phát triển khác tiếp tục tăng ngân sách cho việc bảo vệ
môi trường.
• Cải thiện hợp tác trên các lãnh vực về năng lượng nguyên tử dưới các điều
ước kí kết trong Cộng tác toàn cầu về năng lượng hạt nhân (Global Nuclear
Energy Partnership) và Kế hoạch hợp tác năng lượng hạt nhân Mỹ-Nhật
(U.S.-Japan Joint Nuclear Energy Action Plan) nhằm đạt được các mục tiêu
về cắt giảm khí thải trên nền tảng các tiêu chuẩn an toàn và hạn chế vũ khí
hủy diệt hàng loạt.
Những quốc gia như Trung quốc đại lục, Ấn độ và các nước đang phát triển
khác sẽ không bị ràng buộc bởi những hạn mức trong Nghị định thư Kyoto do
không phải là những nhân tố chính tham gia vào thời kì phát triển tiền công nghiệp.

Tuy nhiên những nước này vẫn có trách nhiệm chia sẻ những quan điểm chung với
các nước khác về trách nhiệm đối với vấn đề cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà
kính.
* Thương mại khí thải
Một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở Đức. Do
những tiêu chuẩn cắt giảm khí thải từ Kyoto
Protocol, than đá sẽ trở thành dạng năng lượng
kém cạnh tranh trong tương lai.
Nghị định thư Kyoto chấp nhận một hệ thống cho
phép thương mại hóa lượng khí thải cắt giảm gọi
là "cap and trade system" nhằm giúp các nước phát triển tham gia Nghị định thư
Kyoto một cách linh hoạt hơn khi tiến hành các biện pháp cắt giảm khí gây hiệu ứng
nhà kính. Bình quân những nước này cần phải đạt mục tiêu lượng khí thải hàng năm
thấp hơn 5.2% so với lượng thải năm 1990 và cam kết này có hiệu lực từ 2008 đến
2012. Mặc dù điều này được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế nhưng trong thực
tế các nước tham gia điều tiến hành đối với các loại hình liên quan đến các cơ sở
công nghiệp sản xuất năng lượng và giấy. Một ví dụ về loại hình thương mại khí
thải này phải kể đến là chương trình thương mại khí thải của Liên minh Châu Âu
Tại Hoa Kỳ, có thị trường quốc gia về giảm thiểu mưa axit và một số thị trường khu
vực về giảm thiểu nitơ ôxit.
Điều này có nghĩa những thành phần mua hạn ngạch sẽ là những đơn vị sản xuất
kinh doanh có mức khí thải vượt quá số hạn ngạch cho phép (Đơn vị cấp phát cố
định -the Assigned Allocation Units, AAUs hay ngắn gọn là "Mức cho phép"). Cụ
thể những đơn vị sản xuất này sẽ phải mua thêm số AAUs trực tiếp từ một bên khác
nhằm gia tăng mức hạn ngạch cho phép, chủ yếu từ chương trình cơ cấu phát triển
sạch - CDM hoặc dưới các hình thức trao đổi thương mại khác.
Vì hạn ngạch carbon cho phép là những đơn vị có thể thương mại hóa dưới hình
thức định dạng giá cả nên những nhà đầu tư có thể mua lại nhằm mục đích đầu cơ
hay dành cho các thương vụ tương lai. Các giao dịch trên thị trường thứ cấp này sẽ
giúp giá cả của mức hạn ngạch carbon cho phép thay đổi linh hoạt hơn nhằm giúp

các cơ sở kinh doanh hay các dự án đầu tư nhằm thu hút vốn nước ngoài (ví dụ như
Trung Quốc muốn thu hút đầu tư vào nước họ thì chính phủ sẽ hỗ trợ các thành
phần kinh doanh hạn ngạch carbon bằng các hình thức trợ giá, và như vậy các cơ sở
sản xuất ở TQ sẽ mua hạn ngạch carbon với giá thấp hơn so với các cơ sở ở Thụy
Điển chẳng hạn).
Hạn ngạch khí thải qui định trong Nghị định thư Kyoto được cung cấp bởi chương
trình cơ cấu phát triển sạch - CDM và chương trình hỗ trợ bổ sung - Joint
Implementation (Projects)/JI. Chương trình cơ cấu phát triển sạch/CDM cho phép
các nước đang phát triển tham gia Kyoto Protocol thương mại hóa các khoản hạn
ngạch carbon của nó trong khi Chương trình hỗ trợ bổ sung/JI cho phép các nước
Annex I qui đổi lượng khí thải vượt trần cho phép (đã cam kết khi kí Nghị định thư
Kyoto) sang lượng khí thải tương ứng của các nước Non-Annex I có tham gia
Chương trình cơ cấu phát triển sạch dưới dạng các đơn vị hạn ngạch carbon.
Chương trình CDM sẽ cung cấp Chứng nhận cắt giảm khí thải (CERs), và chương
trình JI sẽ đưa ra Đơn vị khí thải cắt giảm (Emission Reduction Units - ERUs), vốn
dĩ có giá trị tương đương với một đơn vị cấp phát cố định (the Assigned Allocation
Units - AAUs).
* Bảng theo dõi tăng khí thải nhà kính từ năm 1990
Dưới đây là Bảng theo dõi tăng khí thải nhà kính từ năm 1990 đến năm 2004 của
một số quốc gia trong Hiệp định thay đổi Khí hậu theo báo cáo của Liên Hợp Quốc.
Nước
Thay đổi khí gas
Emissions (1990-
2004)
không kể
LULUCF
Thay đổi khí gas
Emissions (1990-
2004)
kể cả LULUCF

Mục tiêu giảm
theo EU
tới năm 2012
Mục tiêu
2008-2012
Đan Mạch -19% -22.2% -20% -11%
Đức -17% -18.2% -21% -8%
Canada +27% +26.6% n/a -6%
Australia +25% +5.2% n/a +8%
Tây Ban Nha +49% +50.4% +15% -8%
Na Uy +10% -18.7% n/a +1%
New Zealand +21% +17.9% n/a 0%
Pháp -0.8% -6.1% 0% -8%
Hy Lạp +27% +25.3% +25% -8%
Ireland +23% +22.7% +13% -8%
Nhật Bản +6.5% +5.2% n/a -6%
Vương quốc
Anh
-14% -58.8% -12.5% -8%
Bồ Đào Nha +41% +28.9% +27% -8%
EU-15 -0.8% -2.6% n/a -8%
Dưới đây là Bảng theo dõi tăng khí thải nhà kính ở một số nước.
Nước
Thay đổi khí gas
Emissions (1992-2007)
Ấn Độ +103%
Trung Quốc +150%
Hoa Kỳ +20%
Liên bang Nga -20%
Nhật Bản +11%

Toàn cầu +38%
2. Hệ thống tiêu chuẩn khí thải Châu Âu
2.1 Sự hình thành và phát triển của hệ thống

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×