TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*******
NGUYỄN THỊ THỦY
DI TÍCH ĐÌNH LÀNG ĐÔNG ĐẠO
(PHƢỜNG ĐỒNG TÂM, VĨNH YÊN,
VĨNH PHÚC)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo - TS.
Nguyễn Thị Ngọc Lan - người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, trực tiếp và
thường xuyên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các cán bộ đang công tác
tại Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện cho tôi có
tài liệu để hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thủy
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận với đề tài: Di tích đình làng Đông Đạo (Phƣờng Đồng
Tâm, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc) được hoàn thành là kết quả của cá nhân tôi sau
một quá trình nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi dưới sự hướng dẫn của cô giáo -
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi không trùng
với bất kì kết quả nào của tác giả khác.
Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của khóa luận 5
7. Bố cục khóa luận 5
NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1. NGUỒN GỐC VÀ CHỨC NĂNG ĐÌNH LÀNG
ĐÔNG ĐẠO 6
1.1. Vị trí địa lí và lịch sử hình thành đình làng Đông Đạo 6
1.1.1. Vị trí địa lí 6
1.1.2. Lịch sử hình thành 8
1.2. Chức năng của đình làng Đông Đạo 9
1.2.1. Chức năng hành chính 9
1.2.2. Chức năng tín ngưỡng 11
1.2.3. Chức năng văn hóa 14
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM ĐÌNH LÀNG ĐÔNG ĐẠO 16
2.1. Đối tượng thờ phụng 16
2.2. Cảnh quan, kiến trúc 21
2.2.1. Cảnh quan không gian 21
2.2.2. Kiến trúc nổi bật 22
2.3. Điêu khắc trang trí 31
2.3.1. Trang trí tại đầu dư 31
2.3.2. Trang trí trên kẻ - bẩy 32
2.3.3. Trang trí ở cốn 34
2.3.4. Trang trí ở khám thờ 35
2.4. Hệ thống các di vật 36
CHƢƠNG 3. LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG ĐÔNG ĐẠO 40
3.1. Tên gọi và thời gian tổ chức 40
3.2. Các hoạt động trong lễ hội 40
3.2.1. Phần lễ 40
3.2.2. Phần hội 46
KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nằm ở phía Bắc thủ đô Hà Nội trên địa hình nửa trung du và nửa đồng
bằng, Vĩnh Phúc là một vùng đất cổ, có một vị trí chiến lược quan trọng, có
truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cường và nền văn hoá lâu đời, đậm đà
bản sắc dân tộc… Vĩnh Phúc vốn là vùng đệm (chuyển tiếp từ miền núi, trung
du xuống đồng bằng) của kinh đô Phong Châu - Việt Trì buổi đầu dựng nước.
Mặt khác nơi đây lại nằm trong khu vực giao thoa và chịu nhiều ảnh hưởng
của ba vùng văn hoá - văn hiến lớn thời kỳ Bắc thuộc và phong kiến tự chủ:
Kinh đô Thăng Long - Kinh Bắc - Xứ Đoài. Điều đó nói lên tính chất liên tục,
mật độ dày đặc, loại hình phong phú của hệ thống di tích lịch sử văn hoá và
danh lam thắng cảnh nơi đây.
Theo số liệu kiểm kê năm 2008, toàn tỉnh có 1.264 di tích văn hoá với
nhiều loại hình khác nhau. Bộ Văn hoá - Thông tin đã xếp hạng và cấp bằng
công nhận trên 65 di tích, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định
đăng ký bảo vệ 221 di tích.
Nhiều di tích, danh thắng ở Vĩnh Phúc rất nổi tiếng, có ý nghĩa quan
trọng trong kho tàng văn hoá dân tộc như: Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu, đền
thờ Hai Bà Trưng, tháp Bình Sơn, đền Bắc Cung, khu di tích - danh thắng Tây
Thiên, khu nghỉ mát Tam Đảo, Đại Lải Đặc biệt, cũng như các tỉnh thuộc xứ
Đoài xưa, Vĩnh Phúc cũng rất nổi tiếng với các di tích Đình như: Đình Thổ
Tang, cụm đình Tam Canh (gồm đình Hương Canh, đình Ngọc Canh, đình
Tiên Hường) đình Bích Chu… trong đó không thể không nói tới ngôi đình
Đông Đạo.
Đình Đông Đạo trước đây là thuộc làng Đông Đạo, nhưng do những
yêu cầu của sự thay đổi địa giới hành chính nên làng Đông Đạo nay đã trở
2
thành phường Đồng Tâm (vào năm 2001). Tuy nhiên nó vẫn mang trong mình
những tính chất của làng quê truyền thống. Bởi vậy đặt đình Đông Đạo trong
bối cảnh của một ngôi làng thực thụ, để từ đó thấy hết được chức năng, giá trị
của nó với tư cách là một đình làng. Đây cũng là ngôi đình duy nhất tại thành
phố Vĩnh Yên được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá Thể thao và
Du lịch) công nhận di tích Quốc gia vào năm 1994.
Đi sâu nghiên cứu vào văn hoá làng quê Việt Nam mới thấy rằng đình
làng giữ vai trò trung tâm trong việc điều tiết đời sống văn hoá của làng xã, từ
tâm linh - tín ngưỡng đến hành chính, văn hoá… Tìm hiểu về đình làng để có
thể biết được, hiểu được và thấy được bản chất chung và riêng của các làng
quê Việt Nam, qua đó mà hiểu được truyền thống văn hoá dân tộc, nâng cao ý
thức bảo tồn và phát huy di sản quý báu của dân tộc, nhất là trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ lý do nói trên chúng tôi đã quyết định chọn đề tài: Di tích
đình làng Đông Đạo (Phƣờng Đồng Tâm, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc) cho khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về di tích đình làng Đông Đạo đã có một số công trình như
sau:
- Nguyễn Xuân Lân với cuốn “Địa chí Vĩnh Phúc” (2000), đã cho
người đọc có một cái nhìn bao quát và toàn diện về vùng đất Vĩnh Phúc từ:
lịch sử hình thành, vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội…
Trong đó có đề cập tới thôn Đông Đạo (nay thuộc phường Đồng Tâm, thành
phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc), tuy nhiên tác giả mới chỉ nói một cách khái
quát chứ chưa đi sâu nghiên cứu về thôn Đông Đạo.
- Lê Kim Thuyên trong cuốn “Lễ hội Vĩnh Phúc” (2006), đã liệt kê gần
như đầy đủ các lễ hội lớn, nhỏ diễn ra trên mảnh đất Vĩnh Phúc, trong đó có
3
lễ hội đình làng Đông Đạo. Ông đã cho người đọc thấy được sự phong phú và
đa dạng của các lễ hội, mỗi lễ hội lại có những nét đặc trưng riêng, thông qua
lễ hội để thấy được lịch sử, văn hóa, kinh tế của từng làng. Ở mỗi một lễ hội,
tác giả đề cập tới tên gọi, địa điểm, các hoạt động diễn ra trong lễ hội. Tuy
nhiên, số lượng lễ hội ở trên địa bàn tỉnh rất nhiều vì vậy tác giả chưa đi sâu
vào nghiên cứu đặc điểm các nghi lễ, nghi thức mà chỉ dừng lại ở mức độ
khảo sát.
- Đáng chú ý là công trình nghiên cứu “Sự tích thành hoàng và đình làng
Đông Đạo” (2009) của Kim Cúc - Thiều Quang. Có thể xem đây là nguồn tài
liệu rất hữu ích cho những người quan tâm tới ngôi đình làng Đông Đạo. Tác
giả đã cung cấp cho người đọc sự tích về vị Thành Hoàng được thờ tại đình
Đông Đạo, các truyền thuyết, tích truyện liên quan đến vị thần được thờ. Bên
cạnh đó tác giả còn đề cập tới nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc ở ngôi đình.
Ngoài ra còn có thể kể tới một số bài viết rải rác trên các tạp chí, báo
địa phương hoặc các trang mạng như:
- “Đình Đông Đạo - phủ Tam đái xưa” của tác giả Thành Nam trên
trang ,
- “Đình Đông Đạo - Đạo giáo thần tiên” của Nguyễn Dũng trên trang
Như vậy, một số vấn đề liên quan đến di tích đình làng Đông Đạo đã
được đề cập ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, không khó để nhận ra việc
nghiên cứu còn chưa cụ thể toàn diện mà chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát. Mặc
dù vậy kết quả nghiên cứu của những người đi trước là cơ sở, là sự gợi ý rất
quý giá để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Nhằm khẳng định các giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc của di tích
đình làng Đông Đạo.
4
- Nhằm góp phần củng cố, giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào
dân tộc về quá khứ lịch sử của ông cha ta, đồng thời nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi thế hệ để bảo tồn các giá trị lịch sử quý báu của dân tộc.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát thực tế, từ đó tìm hiểu quá trình hình thành của di tích đình
làng Đông Đạo.
- Tìm hiểu về đặc điểm kiến trúc, điêu khắc, lễ hội đình làng Đông Đạo
để từ đó làm nổi bật giá trị lịch sử, giá trị văn hóa.
- Đề xuất phương hướng bảo tồn văn hóa lễ hội và trùng tu di tích đối
với việc phát triển du lịch ở tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Di tích đình làng Đông Đạo thuộc phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về tư liệu: Chúng tôi nghiên cứu đề tài trong phạm vi tư liệu về di tích
đình làng Đông Đạo đã được công bố và tư liệu chúng tôi thu thập được trong
quá trình điền dã, khảo sát thực địa.
Về nội dung:
- Nghiên cứu di tích đình làng Đông Đạo gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của làng cho đến ngày nay.
- Nghiên cứu di tích đình làng Đông Đạo trong không gian kiến trúc,
lịch sử - văn hóa của thôn Đông Đạo, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo cứu, điền dã
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp liên ngành
5
6. Đóng góp của khóa luận
- Về mặt khoa học, khóa luận là công trình nghiên cứu có hệ thống về di
tích làng đình làng Đông Đạo - được tiến hành trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên
cứu của người đi trước. Bên cạnh đó nhiều vấn đề cốt lõi, làm nên nét đặc trưng
của đình làng Đông Đạo như đặc điểm kiến trúc, điêu khắc, lễ hội… được mở
rộng, đào sâu nhằm làm sáng tỏ giá trị to lớn của di tích độc đáo này.
- Về thực tiễn, khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những
ai nghiên cứu, tìm hiểu về đình làng nói chung và đình Đông Đạo nói riêng.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Nguồn gốc và chức năng đình làng Đông Đạo.
Chương 2: Đặc điểm đình làng Đông Đạo.
Chương 3: Lễ hội đình làng Đông Đạo.
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NGUỒN GỐC VÀ CHỨC NĂNG ĐÌNH LÀNG ĐÔNG ĐẠO
1.1. Vị trí địa lí và lịch sử hình thành đình làng Đông Đạo
1.1.1. Vị trí địa lí
Đình Đông Đạo thuộc đất xóm Đình, thôn Đông Đạo, phường Đồng
Tâm, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Thôn Đông Đạo nằm về phía cực
Bắc của thành phố Vĩnh Yên. Đây là một vùng đất bán trung du - là vùng
chuyển giao giữa đồng bằng với trung du của huyện Tam Dương. Thôn Đông
Đạo nằm kề bên quốc lộ số 2 nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc; Quốc
lộ 2B bắt đầu từ quốc lộ số 2 đến Sơn Dương (Tuyên Quang) và tuyến đường
sắt Hà Nội - Lào Cai cho nên rất thuận tiện đi lại, giao lưu kinh tế, văn hoá
Đông Đạo mang đặc điểm của một làng “nhất xã nhất thôn”. Đông Đạo
trước kia là một làng thuần nông, tuy nhiên trong những năm gần đây do yêu cầu
quy hoạch của thành phố Vĩnh Yên cho nên diện tích đất canh tác bị thu hẹp,
thay vào đó là các khu đô thị mới. Địa bàn cư trú của cư dân Đông Đạo ngày nay
được khuôn lại trong các tiểu khu hành chính trên một vùng đất gọn gàng. Hình
dáng này không phản ánh nguyên vẹn hình dáng của làng Đông Đạo xưa kia.
Nguyên nhân của sự thay đổi này là do sự tác động của thiên nhiên và xã hội mà
chủ yếu ở đây là yếu tố con người, xã hội ở đây đã làm thay đổi hẳn cơ cấu cũ,
song ngày nay vẫn còn lưu lại đâu đó những dấu tích cổ xưa để chúng ta vẫn có
thể nhận biết được phần nào về mảnh đất Đông Đạo xưa.
Đông Đạo xưa kia gọi là xã Lộ Đông, phía Bắc giáp với làng Lai Sơn
thuộc tổng Đạo Trù; phía Đông giáp với làng Tích Sơn thuộc tổng Định
Trung; phía Nam giáp với làng Lạc Ý thuộc tổng Đồng Cương; phía Tây giáp
với làng Cói thuộc tổng Hội Hợp. Xưa kia Đông Đạo có một vị trí rất lý
tưởng, thuận tiện cho việc đi lại, giao thương với các tổng khác trong vùng.
7
Thời Hán thuộc huyện Mê Linh, từ thế kỉ thứ III đến thế kỉ thứ V
thuộc huyện Gia Ninh, quận Tân Xương. Từ thế kỉ VI đến thế kỉ thứ X thuộc
huyện Tân Xương, quận Phong Châu - Thừa Hoá, sang thế kỉ XI - XII thuộc
phủ Đại Thông.
Thời Trần (TK XIII - XIV) Lộ Đông thuộc huyện Dương, trấn Tuyên Quang
(Dân gian truyền tụng Lộ Đông là trung tâm giao thương của huyện Dương, thời
Trần, nên sau này có tên gọi ngã ba Tam Dương cũng bắt nguồn từ đó).
Đến cuối thời Hậu Lê, đầu thời Nguyễn, Lộ Đông thuộc huyện Tam
Dương, phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây.
Dưới vương triều Nguyễn, đời vua Tự Đức (1848 - 1883) xã Lộ Đông
được đổi thành xã Đông Đạo và thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Sơn Tây, tên
gọi Đông Đạo xuất hiện từ đó.
Đến thời Pháp thuộc, đất đai Đông Đạo và cả huyện Tam Dương thuộc
đạo Vĩnh Yên. Trước cách mạng tháng 8 - 1945, Đông Đạo thuộc tổng Hội
Thượng, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Yên.
Tháng 4 năm 1946, Chính phủ ta quyết định sát nhập Đông Đạo với các
làng: Chấn Yên, Vân Hội, Vân Tập thành xã Đồng Tâm, huyện Tam Dương,
tỉnh Vĩnh Yên.
Năm 1950 hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp lại thành tỉnh Vĩnh Phúc
thì Đông Đạo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 8 năm 1965, xã Đồng Tâm đổi
thành xã Vân Hội. Tháng 3 năm 1968 tỉnh Vĩnh Phúc sát nhập với tỉnh Phú
Thọ thành Vĩnh Phú thì làng Đông Đạo thuộc xã Vân Hội, huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phú.
Đến năm 1997 tái lập tỉnh Vĩnh Phúc thì Đông Đạo thuộc xã Vân Hội,
huyện Tam Dương, cho đến năm 2001 thì thuộc phường Đồng Tâm, thị xã
Vĩnh Yên và nay là thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
8
1.1.2. Lịch sử hình thành
Về lịch sử xây dựng thì đình Đông Đạo chưa xác định được rõ niên đại
tuyệt đối xây dựng năm nào. Hiện nay trên câu đầu của đình có ghi dòng văn
tự Hán: “Tuế thứ Đinh Dậu niên, thập nhị nguyệt, thập ngũ nhật, tân tạo
thượng lương đại cát”. Như vậy niên đại này cũng chỉ cho biết rằng: thượng
lương đình được làm lại (thay mới) vào ngày 15 tháng 12 năm Đinh Dậu,
nhưng lại không biết năm Đinh Dậu nào. Ngoài ra chưa tìm thấy bất kỳ một
tài liệu nào nói đến lịch sử xây dựng ngôi đình.
Thông qua khảo sát, nghiên cứu và có sự so sánh với các công trình
kiến trúc cùng loại, thì có thể đưa ra đoán định rằng: đình Đông Đạo được
khởi dựng vào thời Hậu Lê (khoảng nửa cuối thế kỉ XVII, nửa đầu thế kỉ
XVIII ). Đó là căn cứ vào các đặc điểm như: Kết cấu kiến trúc, các mảng
trang trí, điêu khắc trong công trình, cũng như kiểu dáng kiến trúc.
Trải qua sự thăng trầm của lịch sử từ năm 1846 (thời Thiệu Trị) đến
năm 1924 (thời Khải Định), đình Đông Đạo được các đời vua 9 lần ban sắc
phong. Từ khi xây dựng đến nay, do thời gian và những biến cố của lịch sử
mà đình được tu sửa lớn một số lần hoặc thay đổi một vài chi tiết kiến trúc.
Năm 1938 dỡ hậu cung, dựng lên khám thờ ở toàn đại đình, năm 1993 xây
cổng và tường rào… Trong kháng chiến chống Pháp, để thực hiện mục tiêu
“Tiêu thổ kháng chiến”, năm 1947 nhân dân đã tháo toàn bộ phần mái ngói
của đình Đông Đạo với quyết tâm không để thực dân Pháp dùng ngôi đình
làm căn cứ đóng quân. Năm 1954, hòa bình lặp lại nhân dân đã tu sửa, tôn tạo
và lợp lại mái đình. Mặc dù vậy đình Đông Đạo vẫn còn nguyên nét kiến trúc,
trang trí căn bản của một ngôi đình thời Hậu Lê.
Từ đó đến nay Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương cùng với
sự giúp đỡ của tỉnh Vĩnh Phúc, thành phố Vĩnh Yên đã đầu tư hàng tỷ đồng
trùng tu đình Đông Đạo với quyết tâm giữ nguyên quy mô, kiến trúc nghệ
thuật với những đường nét trạm trổ tinh xảo có từ trên 400 năm qua.
9
Ngày 5/1/1993, đình Đông Đạo được Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Vĩnh
Phúc cấp bằng Di tích lịch sử - văn hoá cấp Tỉnh. Đến ngày 12/2/1994, hơn
một năm sau, đình Đông Đạo lại vinh dự được Bộ Văn hoá - Thông tin trao
bằng công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia.
1.2. Chức năng của đình làng Đông Đạo
Đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn người dân Việt, là
nơi chứng kiến sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội làng
quê Việt Nam qua bao thế kỉ. Đình làng trang trọng và thiêng liêng, nó gần
như đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng xã. Đây còn là nơi tổng hợp
đầy đủ ba chức năng: Tín ngưỡng, hành chính, văn hóa.
1.2.1. Chức năng hành chính
Theo các cụ già trong làng kể lại thì trước đây làng Đông Đạo có 7 xóm
là: Xóm Chùa, xóm Vôi, xóm Ang, xóm Trung, xóm Lồ, xóm Gạc, xóm Hốc.
Còn lui về trước nữa thì được chia làm 5 giáp là: Giáp Đông, giáp Đoài, giáp
Nam, giáp Bắc và giáp Trung. Các giáp, các xóm cùng chung một lý trưởng,
cùng chung một Thành Hoàng làng, chung đình chùa, chung hương ước và dĩ
nhiên là chung cả hội làng.
Đình làng Đông Đạo thực sự là trụ sở hành chính - nơi mọi công việc
về hành chính của làng đều được tiến hành tại đây. Từ việc xét xử các vụ
tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, từ thu tô thuế đến việc bắt lính, bỏ các xuất
phu đinh… Chủ thể tiến hành các hoạt động hành chính ở đình làng là các vị
có chức danh như Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý, Trưởng tuần và các viên
quan của Hội đồng lý dịch, Hội đồng kỳ mục.
Hội đồng kỳ mục trong làng Đông Đạo xưa gồm hai ông khoá mục và
một ông viên mục, một cửu phẩm văn gia, một bát phẩm và một lục phẩm
xuất đội. Hội đồng lý dịch bao gồm một ông trưởng lí, hai ông phó lí, hai ông
quản tuần và một ông tuần đinh, một trưởng bạ, một hộ bạ và một ban hội đồng.
10
Ban hội đồng là những người làm chức dịch quản lý và điều hành dân trong
một xã do dân bầu lên, phải là người đủ tài đủ đức. Ban hội đồng và lí trưởng
có nhiệm vụ trông nom nội hương, ngoại ấp, đồng ruộng, phu phen, tạp dịch
hàng năm. Hộ lại giữ sổ sách, quản lí số dân trong làng như tính số sinh - tử,
lập sổ giá thú. Trưởng bạ giữ sổ sách ghi số liệu ruộng đất và tình hình mua
bán ruộng đất, sang nhượng quyền sở hữu ruộng đất. Ngày nay những công
việc trên đều thuộc những ban ngành hành chính trong phường. Ngoài ra ở
Đông Đạo xưa còn có một Hội đồng tộc biểu, mỗi họ cử ra một người đức cao
vọng trọng thay mặt họ để vào hội này. Sau đó họ dùng tiền để mua các chức
chánh - phó hội, gọi là mua kiểm mục hay lí tiền.
Cơ sở để giải quyết các công việc của làng được dựa vào lệ làng hoặc
hương ước. Hương ước là một hình thức luật tục. Gắn với hoàn cảnh, phong
tục, tập quán lâu đời của từng làng mà nhân dân có các bộ luật, nhà nước
không thể bao quát được.
Các làng đều có hương ước riêng với nội dung rất cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, hương ước làng bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
+ Những quy ước về ruộng đất: việc phân cấp công điền, công thổ theo
định kì và quy ước về việc đóng góp (tiền và thóc).
+ Quy ước về khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy trì đê đập, cấm lạm
sát trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa bãi.
+ Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch
trong làng. Việc xác định chức dịch trong làng nhằm hạn chế họ lợi dụng
quyền hành và thế lực để mưu lợi riêng.
+ Những quy định về văn hóa tư tưởng, tín ngưỡng. Đó là những quy
ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng xóm, dòng họ, gia đình, láng
giềng, được duy trì tốt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công
11
vào việc sửa chữa, xây dựng đình, chùa, điện, quy định về thể lệ tổ chức lễ
hội, khao vọng, lễ ra làng…
Hương ước còn có những quy định về hình phạt đối với ai vi phạm. Vi
phạm mức độ nào thì nộp phạt hoặc phải làm cỗ ở đình làng để tạ tội với
Thành Hoàng làng. Hình phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi làng.
Có thể nói, hương ước là một bộ luật của làng xã. Về cơ bản, hương
ước chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian tốt đẹp, được hình thành lâu
đời và nếu được chắt lọc có thể phát huy những giá trị tốt đẹp trong cuộc
sống làng xã hiện nay.
Ngoài ra, khi trong làng có người thi cử đỗ đạt là dân làng Đông Đạo lại
tổ chức rước về đình mổ bò, mổ lợn ăn mừng, vinh danh trước Thành Hoàng và
toàn thể dân làng dân làng. Đình làng Đông Đạo trong những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp còn là căn cứ cho cán bộ cách mạng họp bàn kế
hoạch tác chiến, đình được sử dụng làm nơi cất giấu vũ khí lương thực, nơi
tập hợp lực lượng dân quân du kích chống Pháp. Năm 1947, đình được sử
dụng làm trung tâm căn cứ chỉ huy đánh trả các trận càn của dân quân du
kích.
Với đặc điểm của tính tự trị và tính cộng đồng của làng xã, hoạt động
hành chính và quản lí của làng xã được tiến hành có hiệu quả. Đình làng
Đông Đạo với tư cách là trụ sở hành chính đã trở thành biểu tượng của tính tự
trị và sự cố kết cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử của mình.
1.2.2. Chức năng tín ngưỡng
Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ cúng là Thành Hoàng
làng. Đây là vị thần tối linh, có thể bao quát chứng kiến toàn bộ đời sống của
dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khỏe mạnh.
Khi tín ngưỡng Thành Hoàng du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc
cũng nảy sinh ra một số Thành Hoàng mà chức năng cũng giống như ở Trung
Quốc… Các vua triều Nguyễn còn lập miếu thờ Thành Hoàng làng ở tỉnh và huyện.
12
Nhưng khi tín ngưỡng Thành Hoàng về làng, xã thì nó đã biến đổi khác với
tín ngưỡng Thành Hoàng ở Trung Quốc. Như vậy, tín ngưỡng Thành Hoàng ở
Trung Quốc khi du nhập vào làng xã Việt Nam thì các yếu tố văn hóa Hán,
hoặc hiện tượng Hán hóa khác bị cổng làng chặn lại thì nó lại tìm thấy các tín
ngưỡng bản địa có tính tương đồng, nên hội nhập rất thuận lợi với hệ thống
tín ngưỡng đa nguyên của Việt Nam.
Nguồn gốc của Thành Hoàng cũng rất phức tạp. Trước hết là các thần
tự nhiên (thiên thần hay nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị
thần này đều được “khoác áo” nhân thần với các tiểu sử thế tục. Được thờ chủ
yếu là Sơn Tinh (thần núi), Thủy Tinh (thần sông, thần biển). Ngoài ra, các vị
thần núi có tên như Cao Các, Quý Minh được thờ ở nhiều nơi, các thần núi ở địa
phương như: Tam Điệp Sơn, Điệp Sơn được tôn làm Thành Hoàng làng.
Thành Hoàng làng thứ hai là các nhân thần, đó là các nhân vật lịch sử
như: Lí Bôn, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo Chiếm số đông
trong các nhân thần là những người ít nổi tiếng hơn như: Quan lại, nho sĩ và
đặc biệt là các tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần
này thực ra là các nhân vật truyền thuyết, mang tính giả lịch sử hơn.
Thành Hoàng làng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa, như tục thờ
cây, thờ đá thời nguyên thủy
Thành Hoàng có thể là người xuất thân hèn kém, có người chết vào giờ
thiêng cũng được thờ làm Thần. Trong lễ hội, người ta thường cử hành “hèm”
để nhắc lại thần tích của các vị Thành Hoàng làng này. Ngoài ra, ở một số
làng nghề thủ công người ta còn thờ tổ nghề gọi là “tiên sư”. Trong miền Nam
các “tiên sư” được thờ ở nhà hậu của đình làng, chỉ có một số ít “tiên sư”
được thờ ở chánh điện.
Tóm lại, các thần làng Việt Nam biểu hiện một hệ thống tín ngưỡng đa
nguyên. Đó là một hệ thống pha lẫn nhiều yếu tố tín ngưỡng sơ khai của cư
dân nông nghiệp (tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ mẹ, các thần sức
13
mạnh tự nhiên…) với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người anh hùng và
có phần ảnh hưởng không nhiều của đạo Phật và đạo Nho.
Đối với ngôi đình Đông Đạo, theo ngọc phả do Hàn lâm viện Đông các
Đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn và theo các sắc phong còn lưu lại trong
đình thì đình Đông Đạo thờ Bạch Hạc Cao Quan Đại Vương, huý là Thổ Lệnh
và Thạch Khanh. Bình sinh hai ông có tài chữa bệnh, khi mất lại rất linh ứng
nên được thờ ở nhiều nơi.
Trong phả ghi: “Hộ quốc an dân, danh hương lưu vạn kiếp. Y thần cứu
thế sáng lạn kỷ thiên thu. Cứu nước yên dân, tiếng thơm muôn đời vạn thuở.
Giúp đời thuốc thánh, rực rỡ đến ngàn thu. Đức lớn trời cho, lối sau đều hiếu
nghĩa. Đạo cao đắc tặng dòng dõi có lòng tin. Đình Đông Đạo tỏ rõ linh thiêng,
cho phép xã Bộ Đông được phụng thờ. Thần hãy giúp đỡ che chở, dân ta hãy
kính lấy”. Ngoài ra theo sách “Văn hóa Vĩnh Phúc” do nhà nghiên cứu Bùi
Đăng Sinh chủ biên thì Bạch Hạc Tam Giang Thống Chế Tôn Thần hay còn
gọi “Tam Giang Bạch Hạc Đại Vương” (Bạch Hạc trước kia thuộc Vĩnh Tường
- Vĩnh Phúc, nay thuộc Việt Trì - Phú Thọ) là vị thần đứng đầu trong các vị
thần nước của bộ Văng Lang xưa. Một số truyện kể và thần tích ở Bạch Hạc,
Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên,… cho rằng thần Tam Giang Bạch Hạc có
tên là Thổ Lệnh. Thổ Lệnh còn có một người anh song sinh đã cùng với Tản
Viên Sơn Thánh dẹp giặc Thục, nên cũng được nhân dân thờ phụng.
Như vậy, vị Thành Hoàng được suy tôn tại di tích đình làng Đông
Đạo là người có công đối với nhân dân, được dân làng biết ơn và tôn làm
Thành Hoàng để mong được sự hiển linh, che chở. Tín ngưỡng thờ Thành
Hoàng làng đem lại cho người dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha đất
tổ bằng những biểu hiện sinh hoạt văn hoá truyền thống. Bảo tồn và phát huy
những di sản văn hoá là trách nhiệm của mỗi người và cũng là để góp phần
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
14
1.2.3. Chức năng văn hóa
Ngoài chức năng hành chính, tín ngưỡng thì đình làng còn có chức năng
về văn hóa. Đình làng là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, nơi các
hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức và cũng là nơi tạo nguồn cảm
hứng cho người dân sáng tạo nên các giá trị văn hóa làng. Với ý nghĩa đó,
đình làng là trung tâm văn hóa, là bảo tàng sống về văn hóa làng của người
Việt Nam.
Hình ảnh “Cây đa, bến nước, sân đình” đã đi vào trong tâm hồn của
người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa ở đình làng là lễ hội.
Làng vào hội cũng được gọi là vào đám, là hoạt động có quy mô và gây
ấn tượng nhất trong năm đối với dân làng. Ở các làng quê Việt Nam còn có hội
chùa, hội đền nhưng phần lớn là hội làng được diễn ra ở đình làng gắn với đời
sống của người dân. Vào ngày lễ tết, dân trong làng tới đình thắp hương tế lễ,
cầu mong Thành Hoàng làng và trời đất phù giúp mưa thuận gió hoà để mùa
màng gặt hái thuận tiện và có nhiều phúc lành.
Cho đến nay, cúng đình và lễ hội vẫn là hình thức sinh hoạt cộng đồng
tiêu biểu ấn tượng nhất của làng xã. Trong sinh hoạt tín ngưỡng đó, người dân
vẫn tin vào sự phù hộ của các vị thần trong mùa màng và đời sống. Hội làng ở
đồng bằng Bắc Bộ sau một thời gian bị đứt đoạn đã có sự phục hồi nhanh
chóng, chứng tỏ dân làng vẫn có nhu cầu về tâm linh. Điều đó cũng chứng tỏ
sức sống bền bỉ của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng.
Cũng giống như bao ngôi đình làng khác trên cả nước vào mỗi dịp tiết
xuân về đình làng Đông Đạo lại tổ chức mở hội. Thông thường, lễ hội được
tổ chức từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng hàng năm với sự tham gia của
các quan viên, sắc mục, các giáp, nhân dân trong làng Đông Đạo lại tụ họp
về đình làng để hòa chung niềm vui, đón mừng không khí thiêng liêng mà
ấm cúng trong ngày hội, làm tăng thêm tình cảm gắn kết giữa mọi người.
15
Trong những ngày hội, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn rất nhiều nghi lễ như diễn
lại sự tích về Thành Hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu võ, chọi gà, thổi
cơm thi, đánh đu, bắt vịt dưới ao, tổ tôm điếm… Không khí vui vẻ cả ngày
lẫn đêm (có nơi hai, ba ngày) những hoạt động ở lễ hội đình Đông Đạo đã đáp
ứng nhu cầu văn hóa cho đông đảo người dân từ người già và người trẻ, vui
nhất là những trai gái đương lứa, đây là dịp để họ gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình.
Lễ hội đình làng thực chất là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là
sự giao lưu văn hoá giữa các làng xóm với nhau, là sự kết tinh ý thức hệ tôn
giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể - thờ Thành Hoàng làng trong tâm
thức dân gian, tâm thức truyền thống của người dân. Chúng tôi sẽ đi sâu tìm
hiểu lễ hội đình Đông Đạo trong chương 3 của khóa luận.
Tiểu kết: Đình làng Đông Đạo có lịch sử hơn 400 năm từ thời Hậu Lê
cho đến ngày nay. Chính vì vậy, theo dòng thời gian đây là ngôi đình mang
nhiều giá trị lịch sử sâu sắc, là nơi lưu giữ nhiều lớp phù sa văn hóa, thỏa mãn
đầy đủ các chức năng của một ngôi đình làng. Với những giá trị đó, đình làng
Đông Đạo là niềm tự hào của nhân dân Đông Đạo xưa và nay, xứng đáng là
tài sản quý báu cần được trân trọng và giữ gìn.
16
CHƢƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐÌNH LÀNG ĐÔNG ĐẠO
Bất cứ ngôi đình nào cũng thờ Thành Hoàng của làng. Đây là yếu tố bắt
buộc, Thành Hoàng của mỗi làng có thể là khác nhau nhưng tựu chung đều là
những người được cho là có công lao to lớn đối với làng và được sự ghi nhận
của dân làng. Đình làng còn là gương mặt của nền kiến trúc Việt cổ. Nó
không chỉ là công trình oai nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê
Việt Nam nghèo nàn thời quân chủ, mà còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những
đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc bởi ít phải chịu ảnh hưởng của kiến trúc
ngoại sinh. Tại đây ghi lại sự phát triển vượt bậc của nghệ thuật kiến trúc -
điêu khắc, các nghệ nhân đã dùng đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn của mình
để khắc họa lên những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của người
dân Việt Nam vào các tác phẩm. Chính vì vậy đã tạo cho đình làng một không
gian thoáng mát, linh thiêng và hội tụ những giá trị nghệ thuật cao đẹp.
2.1. Đối tƣợng thờ phụng
Theo ngọc phả do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính biên
soạn và theo các sắc phong còn lưu lại trong đình thì đình Đông Đạo thờ Bạch
Hạc Cao Quan Đại Vương, huý là Thổ Lệnh và Thạch Khanh. Bình sinh hai
ông có tài chữa bệnh, khi mất lại rất linh ứng nên được thờ ở nhiều nơi.
Lịch sử hành trang của Bạch Hạc Cao Quan Đại Vương: Từ thời hậu
Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) ở Hoan Châu (tức vùng Nghệ An ngày nay) có nhà
ông Trần Thiệu, vợ là Nguyễn Lân - nhà rất giàu có, vợ chồng nhất mực trung
hậu, đức độ hơn người, luôn giúp người nghèo, cứu kẻ khó, diệt trừ hung ác…
Khi tuổi đã cao mà vẫn chưa có con, ông bà liền đi cầu tự ở nhiều nơi, trong
đó có chùa Yên Hoa và đền ở núi Ứng Sơn làm lễ đều được thần báo mộng,
thế rồi bà Nguyễn Lân có thai.
17
Sau 13 tháng thai nghén, đến ngày 10 tháng 3 mùa xuân năm Tân Hợi
bà Nguyễn Lân sinh ra một bọc nở ra hai người con trai toả ra một mùi hương
thơm ngát. Ông bà Trần Thiệu lấy làm vui mừng lắm liền đặt tên cho con
mình: Lan là anh, em là Ngọc. Lớn lên hai anh em Lan - Ngọc ăn nói từ tốn,
cử chỉ khoan hoà, kính trọng người lớn và rất có hiếu với cha mẹ.
Năm lên 9 tuổi hai anh em theo học ông Lý Đường tiên sinh, học trong
3 năm thiên kinh vạn quyển đều hiểu, thông minh tài giỏi hơn người, bạn bè
đều kính phục và coi như thánh đồng giáng thế. Một hôm hai anh em báo với
bạn bè rằng: “Phú quý công danh ta coi như giấc mộng, chi bằng ta đi vãng
cảnh bồng lai tiên cảnh, tiêu dao các nơi cho thoả chí trai”.
Năm hai anh em 19 tuổi thì ông bà Trần Thiệu và Nguyễn Lân qua đời,
hai anh em để tang và thờ phụng trong 3 năm. Chờ hết tang, hai ông đi chu du
thiên hạ đúng như lời hai ông nói khi còn nhỏ.
Lại nghe trên núi Tản, huyện Thanh Châu, đạo Hưng Hoá, xứ Sơn Tây
có nhiều thần tiên quần hội liền đến ghé thăm, quả nhiên thấy phong cảnh
thần diệu tối linh. Hai ông lên núi thì gặp một thiền sư ngồi trên bàn đá có
thanh đồng đứng hầu, hai ông bái lạy và tấu trình ý nguyện của mình muốn từ
bỏ giàu sang phú quý để đến với đức Phật từ bi quảng đại giúp đời cứu người.
Thiền sư liền đem cỗ đầu người ra tiếp và hỏi han hai ông có dám ăn không.
Hai ông trả lời là có. Thấy vậy thiền sư lấy hai vật quý đem cho hai ông và
dặn rằng: “Ta cho hai ngươi một chiếc gậy tre, đầu trên cứu người sống lại,
đầu dưới trừ kẻ ác, còn bầu đá dùng để chữa bệnh, người nào có bệnh ác khó
chữa thì lấy gậy gõ vào bầu đá, hễ trong bầu đá có vật gì chạy ra thì lấy vật đó
ngâm vào rượu cho người bệnh uống sẽ khỏi”. Hai ông lạy tạ thiền sư và xin
được đi theo thiền sư thì thiền sư đã biến mất tự lúc nào. Để tỏ lòng biết ơn
thiền sư hai ông bèn lấy tên hiệu là Thổ Lệnh và Thạch Khanh, từ đó hai ông
đi chu du thiên hạ.
18
Một hôm đến trang Câu Phúc, huyện Châu Loan, phủ Hà Bắc thấy
địa thế đẹp, hai ông dừng chân rồi lên núi Ung Sơn nằm nghỉ. Khi ấy ở
trang Câu Phúc có gia đình ông Quách Nghiêm, vợ là Nguyễn Thị Trinh
rất là giàu có và sống hạnh phúc, nhưng con trai họ là Quách Huy bị mắc
chứng bệnh phong, đã đón nhiều thầy, uống nhiều thuốc thang mà vẫn
không khỏi. Một hôm Quách Nghiêm nằm mơ thấy một ông già bảo rằng:
“Muốn khỏi bệnh ấy, sáng sớm mai ra quán thấy người cầm gậy trúc và
bầu đá thì đón về, người ấy sẽ chữa khỏi bệnh”. Quách Nghiêm tỉnh dậy
biết là có thần báo mộng, nên hôm sau cùng người nhà ra chỗ quán thấy
hai ông cầm gậy trúc và thạch bầu bèn tiến đến mà tâu rằng: “Nay tôi có
con trai bị bệnh phong, xin hai ông rủ lòng thương cứu cho”. Thổ Lệnh và
Thạch Khanh vào nhà Quách Nghiêm cầm gậy trúc gõ vào bầu đá ba cái,
thấy con rắn bò ra liền bắt lấy ngâm rượu cho Quách Huy uống, uống
xong thì khỏi bệnh tức khắc. Quách Nghiêm cả mừng mở tiệc thiết đãi, lại
lấy mười cân vàng để tạ ơn, hai ông từ chối không nhận và bảo rằng: “Ta
học đạo cứu người trong khi hoạn nạn, nay ta cho tên hiệu cùng một
quyển sách, nên lập miếu mà thờ, hễ có ác tật hãy cúng tên hiệu của
chúng ta là Cao Quan Đại Vương, ta sẽ cứu khỏi”.
Sau đó hai ông tiếp tục nhàn du thiên hạ, một hôm lên núi Nghĩa Lĩnh
và nghỉ lại qua đêm ở đấy thấy báo mộng có người đọc thơ rằng:
Dục tầm vãng đáo Tam Thanh quán
Kim đắc thành danh hậu hiển thần.
Tạm dịch:
Muốn tìm đến quán Tam Thanh
Nay tiếng đã thành sau sẽ hiển linh.
Sáng hôm sau hai ông trở về đến trang Bạch Hạc, thấy phong cảnh đẹp
đẽ, hai dòng sông giao nhau, núi non ở thế rồng chầu hổ phục, người qua lại
19
đông vui, lại có một quán nhỏ. Sau khi hỏi một điền phu thì mới biết đây là
quán Tam Thanh (Sau này dựng đền Bạch Hạc Tam Giang - nơi hội tụ của
Hạc Trắng ở ngã ba sông), hai ông định trở về núi cũ thì đột nhiên trời đổ
mưa to gió lớn, rồi một đám mây vàng từ phương tây bay tới, trong đó có
thanh đồng ngọc nữ, quản miếu cầm ca, kình nghê vạn thú, hai ông lên theo
đám mây và biến mất, ấy là ngày 25 tháng 9. Từ đó rất là linh nghiệm, những
nơi thờ tự hai ông hễ ai có bệnh đến cầu đều khỏi.
Đến thời Đường Cao Tông (628 - 683), niên hiệu Vĩnh Huy (650 - 655),
Lý Thường Minh làm đô hộ đất Phong Châu thấy vùng đất này kéo dài tới
ngàn dặm, có sông núi vây quanh Đại Thánh linh quán (hay Thông Thánh
quán) ở ven sông Bạch Hạc, đặt tượng Tam Thanh ở trong quán để phụng
thờ nhưng lại không biết thờ ai, bèn thắp hương khấn rằng: "Vị thổ thần ở
đây nếu như linh ứng thì mau hiện rõ hình tướng mà ta theo đó tạc tượng
đặt ở am phụng thờ". Canh ba đêm ấy mộng thấy có 2 vị dị nhân, diện mạo
phi phàm, phong tư nhàn nhã, đều mang theo quân hầu. Thường Minh hỏi
rằng: "Các ngài họ tên gì, xin cho ta được rõ?" Hai người xưng danh là Thổ
Lệnh và Thạch Khanh. Thường Minh lại xin hai ngài đọ tài nghệ cao thấp,
nếu ai thắng sẽ được đặt ở am trước, dứt lời Thạch Khanh liền dùng thuật
khinh công phi thân như chớp ra bến sông, nhưng khi đến nơi đã thấy Thổ
Lệnh đứng ở đó rồi. Thường Minh theo giấc mộng, căn cứ vào hình dáng
mà sai thợ tạc tượng thờ, Thổ Lệnh được đặt ở am trước, còn Thạch Khanh
đặt ở sau và phong cho là "Linh thông hiển ứng Đại Vương". Thần uy linh
hiển hách, người trong châu đều kính sợ, hương hoả cúng thờ, hai ngài
chính là vị thần phúc của 3 con sông tại ngã ba Bạch Hạc. Phàm dân chúng
đến cầu đảo đều rất ứng nghiệm.
Đến đời Trần được phong là “Trung dực võ liệt phụ quốc hiển uy
vương” từ đó về sau các đời vua đều ban sắc phong thần, ban mỹ tự cho thần
20
Bạch Hạc Tam Giang. Thống kê theo danh mục của Ban quản lý di tích tỉnh
Vĩnh Phúc, toàn tỉnh có 22 di tích thờ Bạch Hạc Tam Giang. Trong đó chủ
yếu tập trung trên địa bàn 2 huyện Yên Lạc và Vĩnh Tường, đây là 2 địa
phương nằm trong lưu vực của sông Hồng. Huyện Lập Thạch và Tam Đảo
không có di tích nào, cũng là điều dễ hiểu bởi đây là "địa bàn" của các vị sơn
thần, các vị tướng lĩnh thời kỳ Hùng Vương. Tại Vĩnh Yên, có duy nhất đình
Đông Đạo là thờ Bạch Hạc Tam Giang, đây được cho là nơi còn "sót lại" của
hệ thống này khi đã đi sâu vào trong nội địa.
Có những giả thiết khác nhau cho rằng việc thờ Bạch Hạc Tam Giang
bắt nguồn từ Đạo giáo bởi địa điểm thờ đầu tiên là Thông Thánh quán ở thôn
Việt Trì, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây, nay là phường Bạch
Hạch, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên về sau lại thấy xuất hiện
thờ tự tại các đình làng của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Có thể nhận
định rằng đây là một diễn trình hợp lý, đây là biểu hiện của sự đi xuống -
thoái trào của Đạo giáo (Bắt đầu từ thế kỷ XV, XVI) khi trải qua thời kỳ
hưng thịnh và thời kỳ Tam giáo đồng nguyên. Việc xuất hiện đình làng trong
thời kỳ này đã đưa một số vị thần của Đạo giáo trở thành Thành Hoàng làng
của người Việt, mặt khác cũng có một số quán Đạo giáo đã biến đổi chức
năng thành đình làng.
Đời nhà Trần, Trần Hưng Đạo đi đánh quân Nguyên xâm lược, qua đây
cầu thấy có linh ứng, bèn gia phong làm “Hộ quốc bảo dân Đại Vương” và
sắc phong cho nhân dân các địa phương đời đời thờ tự.
Cùng với nhiều nơi khác, nhân dân Đông Đạo rước thần hiệu Bạch Hạc
Cao Quan Đại Vương tôn làm Thành Hoàng thờ tại đình làng để mong được
sự hiển linh, che chở.