ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT 
 *** 
 
 
 
BÙI SỸ KHÁNH 
 
 
 
 
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở 
GẮN LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ SỰ 
THAM GIA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ 
Ở NƯỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM 
VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI 
 
 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC 
 
 
 
 
 
Hà Nội – 2014 
BÙI SỸ KHÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 
  ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT 
 ***    
BÙI SỸ KHÁNH    
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở 
GẮN LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ SỰ 
THAM GIA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ 
Ở NƯỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM 
VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI  
Chuyên ngành: Luật Quốc tế 
Mã số: 60 38 01 08    
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC  
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Bính    
Hà Nội – 2014 
BÙI SỸ KHÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014   
LỜI CAM ĐOAN  
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của 
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong 
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong 
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã 
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ 
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để 
tôi được bảo vệ Luận văn. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!  
 NGƯỜI CAM ĐOAN   
Bùi Sỹ Khánh          
MỤC LỤC  
LỜI CAM ĐOAN 
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 
MỞ ĐẦU 1 
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP 
QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở GẮN LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ 
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI  
7 
1.1. Khái niệm chung về người Việt Nam định cư ở nước ngoài 7 
1.1.1. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài 7 
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài 10 
1.1.3. Đặc điểm người Việt Nam định cư ở nước ngoài 11 
1.2. Khái niệm chung về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở . 14 
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất 14 
1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử 
dụng đất 18 
1.2.3. Các dạng tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất 20 
1.3. Khái quát các quy định về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng 
đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài qua các thời kỳ . 23 
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993 23 
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003 23 
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay 26 
1.4. Giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà theo kinh nghiệm của Tòa án 
nước ngoài 30 
Chương 2: CƠ SỞ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀNSỞ 
HỮU NHÀ Ở GẮN LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓSỰ THAM 
GIA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ ỞNƯỚC NGOÀI TẠI 
TÒAÁN VIỆT NAM 42 
2.1. Quy định của pháp luật về việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài 
được quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam 42   
2.1.1 Đối tượng và điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài được 
quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam 42 
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu 
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam 51 
2.2. Một số quy định về thủ tục tố tụng trong giải quyết tranh chấp quyền sở 
hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam 60 
2.2.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án Việt Nam trong giải 
quyết tranh chấp tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng 
đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt 
Nam 60 
2.2.2. Thủ tục xem xét giải quyết tại Tòa án nhân dân các cấp 69 
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỆU QUẢ 
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ ỞGẮN 
LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ SỰ THAM GIACỦA NGƯỜI 
VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀITẠI TÒA ÁN VIỆT NAM 94 
3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền 
sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Tòa 
án Việt Nam 94 
3.1.1. Tình hình giải quyết tại Tòa án Việt Nam trong một số năm gần đây . 95 
3.1.2. Một số vướng mắc và những vấn đề thường gặp phải trong quá trình 
giải quyết 98 
3.1.3. Nhận xét chung về thực trạng giải quyết 116 
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp quyền sở 
hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam 121 
3.2.1. Phướng hướng nâng cao hiệu quả giải quyết 121
 3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết 123 
KẾT LUẬN 131 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 133     
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT  
- HĐTP: Hội đồng thẩm phán 
- TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao 
- VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao 
- TAND: Tòa án nhân dân 
- 
TTTP: Tương trợ tư pháp 
- 
ĐƯQT: Điều ước quốc tế 
- 
YTNN: Yếu tố nước ngoài 
- CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa    
 1
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Theo truyền thống văn hóa của người Phương Đông thì có an cư mới 
lạc nghiệp nên mỗi người dân nước ta đều có mong muốn được sở hữu riêng 
một căn nhà hoặc thửa đất để đảm bảo điều kiện cần thiết cho cuộc sống. Vì 
vậy nhà đất là loại tài sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi cá nhân, 
tổ chức và được Đảng, Nhà nước rất quan tâm chú ý điều tiết quyền sở hữu, quyền 
sử dụng sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 
Do những biến động của lịch sử cùng với những sự kiện chính trị to lớn 
của đất nước ta trong thế kỷ 20, đồng thời trong những năm gần đây sự giao 
lưu hợp tác quốc tế mở rộng, đã dẫn đến một bộ phận không nhỏ người dân 
Việt Nam ra nước ngoài công tác, làm ăn, sinh sống. Tuy nhiên, cộng đồng 
người Việt Nam ở nước ngoài vẫn luôn hướng về quê cha đất mẹ với mong 
muốn có ngày trở lại quê hương, về với nguồn cội để sinh sống, cống hiến và 
đóng góp sức lực của mình để phục vụ quê hương đất nước. 
Do đó, thực tế trong nhiều năm qua khi mà pháp luật chưa cho phép 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở, sử dụng đất ở Việt 
Nam thì đã có rất nhiều người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi tiền, vàng 
bạc và các tài sản khác để nhờ người thân thích, bạn bè ở trong nước đầu tư, 
mua hộ nhà và đứng tên hộ trên các giấy tờ đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền 
sử dụng đất. 
Cho đến năm 2001 thì quy định đầu tiên về quyền được mua nhà và 
quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất của người Việt Nam ở nước 
ngoài được ghi nhận (tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai 
năm 2001 và Nghị định 81/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2001). Đến 
khi Luật đất đai 2003 (đã được thay thế bằng Luật đất đai 2013) và Luật nhà ở 
2005 ra đời thì Nhà nước ta đã ghi nhận quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền 
sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (tại Điều 121 Luật Đất 
đai 2003 và Điều 126 Luật Nhà ở 2005). Tuy nhiên theo những quy định này 
thì chỉ một số đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đủ những điều 
kiện nhất định mới được mua nhà gắn liền với quyền sử dụng đất nhưng thực 
tế thì những giao dịch nhờ mua hộ nhà đất và đứng tên hộ trên các giấy    
2
tờquyền sở hữu, quyền sử dụng vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức với nhiều 
đối tượng khác nhau. 
Từ đó, đã phát sinh nhiều tranh chấp về nhà, đất giữa người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài với người đứng tên hộ tại Việt Nam. Thực tiễn giải 
quyết tại Tòa án cho thấy các tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở, quyền sử 
dụng đất vốn đã phức tạp, kéo dài thì các tranh chấp về quyền sở hữu nhà gắn 
liền với quyền sử dụng đất đối với các trường hợp mua hộ, nhờ đứng tên hộ 
của người Việt Nam định cư tại nước ngoài lại càng phức tạp, khó khăn hơn. 
Đã có rất nhiều vụ án phải xử đi xử lại nhiều lần, kéo dài nhiều năm, thậm chí 
quan điểm giải quyết của các cấp Tòa án còn chưa thống nhất. Có thể xác 
định rằng giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà gắn liền với 
quyền sử dụng đất đối với các trường hợp nhờ mua hộ, đứng tên hộ có sự 
tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một trong những loại 
việc khó khăn phức tạp nhất và là khâu còn yếu trong công tác giải quyết các 
tranh chấp dân sự có YTNN của ngành TANDViệt Nam. Nó bắt nguồn từ 
nhiều nguyên nhân nhưng quan trọng nhất vẫn sự chồng chéo, thường xuyên 
thay đổi của hệ thống pháp luật về nhà ở, đất đai về địa vị pháp lý của người 
Việt Nam định cư ở nước ngoài và đặc biệt còn thiếu những văn bản hướng 
dẫn về công tác xét xử, giải quyết hậu quả pháp lý của của các giao dịch này. 
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định pháp luật 
về việc người người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà 
ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam, thẩm quyền giải quyết của 
Tòa án; thực trạng giải quyết tranh chấp này
 trong hệ thống Tòa án và kinh 
nghiệm một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp 
nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp, đảm bảo quyền và 
lợi ích hợp pháp của công dân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực 
tiễn hiện nay. Qua đó tạo động lực lòng tin và tiếp tục thu hút nguồn lực của 
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về Việt Nam sinh sống đầu tư, góp 
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Và nâng cao hiệu quả 
giải quyết tranh chấp cũng đồng thời góp phần vào việc “
Xây dựng nền tư 
pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng 
bước hiện đại, vục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành    
3
có hiệu quả và hiệu lực cao
” như Đảng ta đã nhấn mạnh tại Nghị quyết số 
49/NQ-TW của Bộ Chính trị
. 
Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài đề tài: “Giải quyết tranh chấp quyền sở 
hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam và kinh nghiệm nước ngoài” làm 
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. 
2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của Đề tài 
Quyền được mua và sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất của 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các vấn đề về giải quyết tranh chấp 
quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất ở luôn thu hút được sự quan tâm của 
đông đảo không những cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài mà còn cả 
người dân trong nước cũng như giới nghiên cứu khoa học pháp lý. Về quyền 
có nhà ở đã có một số công trình nghiên cứu như: Quyền và nghĩa vụ của 
người nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam, TS Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí 
dân chủ và pháp luật, số 10/2004; Các quy định của pháp luật về việc cho 
phép tố chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua 
và sở hữu nhà ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Phạm Thị Mai Duyên, 
Người hướng dẫn: TS Nguyễn Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội 2009; 
Pháp luật về việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền 
mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam, Khóa luận tốt 
nghiệp, Phạm Thị Tuyến, Người hướng dẫn: TS Nguyễn Quang Tuyến, 
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005. 
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì tranh liên quan đến bất động 
sản là nhà và đất ở có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài 
là vụ việc dân sự có YTNN và thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc 
tế Việt Nam, về vấn đề này đã có một số công trình nghiên cứu như: Giải 
quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài bằng Tòa án Việt Nam thực 
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Văn Năm, Người hướng dẫn 
TS. Trần Văn Thắng, Khoa Luật ĐHQGHN 2007; Pháp luật quốc tế và pháp 
luật nước ngoài về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài bằng 
Tòa án – những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Lê 
Quang Minh, Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Bá Diến, Khoa Luật 
ĐHQGHN.    
4
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tổng quát các quy phạm pháp luật về việc 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở gắn liền với 
quyền sử dụng đất ở Việt Nam và về giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà 
ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư 
ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam, thì cho đến nay chưa có một đề tài khoa 
học nào nghiên cứu được công bố, mà mới chỉ có một vài bài viết khai thác 
những khía cạnh khác nhau như: Vài suy nghĩ về Điều 125, 126 Luật nhà ở, 
Võ Quốc Tuấn, Tạp chí Tòa án, 02/2013; Một vụ kiện tranh chấp nhà mà một 
bên đương sự là ngưởi Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, Thanh Tú, Tạp 
chí Tòa án, 09/2006. Do đó việc nghiên cứu một cách tổng thể các quy định 
của pháp luật về việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở 
hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam và việc giải quyết các 
tranh chấp đó cũng chính là cơ hội để luận văn này có thể góp phần đóng góp 
cho khoa học pháp lý hiện nay. 
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài 
Mục đích nghiên cứu 
Khi tiếp tiếp cận, nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề: “Giải quyết tranh 
chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam và kinh nghiệm 
nước ngoài”, người viết tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật và 
trên cơ sở tổng hợp những ý kiến khác nhau bàn về vấn đề này nhằm mục 
đích chỉ ra những ưu điểm, cũng như những nhược điểm còn chưa phù hợp, 
những vướng mắc khi áp dụng pháp luật vào giải tranh chấp quyền sở hữu 
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định 
cư ở nước ngoài tại Tòa án. Thông qua quá trình nghiên cứu các cơ sở lý luận 
và thực tiễn việc giải quyết các tranh chấp này tại Tòa án, đề xuất một số kiến 
nghị nhằm định hướng phát triển và khắc phục những nhược điểm còn chưa 
phù hợp đó. Mong rằng qua việc nghiên cứu, phân tích của đề tài góp phần 
làm sáng tỏ hơn các quy định của pháp luật về việc người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt 
Nam và giải quyết các tranh chấp đó tại Tòa án. 
Nhiệm vụ nghiên cứu 
Để đạt được những mục đích đã đặt ra thì khi nghiên cứu phải đạt được 
những nhiệm vụ sau đây: 
   5
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về người Việt Nam định cư 
ở nước ngoài, quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất ở và quá trình 
phát triển các quy định của pháp luật cho phép người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài được phép sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt 
Nam làm cơ sở lý luận cho việc tiếp cận nội dung pháp lý về việc giải quyết 
tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia 
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài bằng Tòa án Việt Nam. 
- Nghiên cứu quy định của pháp luật và kinh nghiệm xét xử của một số 
nước trên thế giới về giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với 
quyền sử dụng đất. 
- Phân tích những quy định pháp luật hiện hành về việc người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở 
Việt Nam; về trình tự thủ tục giải quyết các tranh chấp này tại Tòa án. 
- Phân tích thực trạng hoạt động xét xử các tranh chấp quyền sở hữu 
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định 
cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam, với việc đánh giá qua số liệu thống kê 
và một số vụ án điển hình cụ thể. 
- Phân tích đánh giá, tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của 
việc giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có 
sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam 
- Đề xuất một số kiến nghị về những giải pháp nhằm góp phần giúp các 
cơ quan chức năng tháo gỡ khó khăn nói chung cũng như hoàn thiện các quy 
định của pháp luật về giải quyết loại tranh chấp này. 
Phạm vi nghiên cứu 
Trong các tranh chấp về quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng 
đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được giải quyết 
tại Tòa án Việt Nam thì tranh chấp về việc đòi lại tài sản là quyền sở hữu nhà 
ở gắn liền với quyền sử dụng đất là tranh chấp có số lượng lớn và phức tạp 
nhất hiện nay. 
Do đó,đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu phân tích các quy định 
của pháp luật hiện hành làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp quyền sở 
hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam    
6
định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam đối với các quan hệ pháp luật đòi 
lại tài sản là quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời 
phân tích thực tiễn giải quyết các tranh chấp đòi lại tài sản lưà quyền sở hữu 
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Tòa án các cấp trong thời gian 
qua.Qua đó đưa ra những đề xuất để nâng cao hiệu quả hoạt động của việc 
giải quyết loại tranh chấp này tại Tòa án Việt Nam. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản 
của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển 
kinh tế và hội nhập quốc tế về việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước 
ngoài được quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất và giải quyết 
các tranh chấp đó phát sinh trong giai đoạn hiện nay. 
Luận văn vận dụng các phương pháp luận của triết học Mác - Lê Nin, Lý 
luận của Nhà nước và pháp luật trong điều kiện thực tế hiện nay. Bên cạnh đó 
Luận văn còn sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh, đối chiếu, 
tổng hợp, khảo sát thực tiễn để giải quyết vấn đề đặt ra. 
5. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn 
được nghiên cứu thành 03 Chương: 
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tranh chấp quyền sở hữu 
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định 
cư ở nước ngoài 
Chương 2: Cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn 
liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài tại Tòa án Việt Nam 
Chương 3: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết 
tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia 
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Tòa án Việt Nam.    
7 
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 
VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở 
GẮN LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ SỰ THAM GIA 
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI 
1.1. Khái niệm chung về người Việt Nam định cư ở nước ngoài 
1.1.1. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài 
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận dân cư không 
nhỏ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một động lực lớn phát triển 
kinh tế - xã hội cho đất nước. Với tư cách là một chủ thể khi tham gia vào các 
quan hệ pháp luật, khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài được đề 
cập tới trong nhiều văn bản pháp luật và dần được hoàn thiện. 
Trước đây, thuật ngữ “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” đã được 
nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước ta sử dụng nhưng chưa có sự thống 
nhất. Từ năm 1982 trở về trước, trong các văn bản pháp quy, người ta thường 
sử dụng thuật ngữ “Việt kiều”, “người Việt Nam ở nước ngoài”, “người Việt 
Nam sinh sống ở nước ngoài”…. Thuật ngữ “người Việt Nam định cư ở nước 
ngoài” được sử dụng trong Quyết định số 84-HĐBT ngày 28/07/1983 của Hội 
đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Việt kiều Trung 
ương. Từ đó, thuật ngữ này được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp 
luật ở nước ta như Chỉ thị số 16-HĐBT ngày 28 tháng 10 năm 1988 của Hội 
đồng Bộ trưởng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại các nước xã 
hội chủ nghĩa, Quyết định số 567-TTg ngày 18 tháng 11 năm 1993 của Thủ 
tướng Chính phủ về việc mời chuyên gia, trí thức người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài tham gia tư vấn, Quyết định số 59-TTg ngày 1 tháng 4 năm 1994 
của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết cho người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài hồi hương về Việt Nam…Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này 
vẫn chưa được xác định rõ, nhiều sự giải thích chỉ nằm trong một số văn bản 
hướng dẫn mà lại thiếu thống nhất, không chính xác, do đó dẫn đến nhiều 
cách hiểu khác nhau. 
Đến năm 1998, với sự ra đời của Luật quốc tịch Việt Nam thì thuật ngữ 
“người Việt Nam định cư ở nước ngoài” mới được giải thích rõ ràng. Theo    
8
quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, Người Việt 
Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư 
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. 
Thống nhất với quy định của Luật quốc tịch, Nghị định 81/2001/NĐ-CP 
của Chính phủ ngày 5/11/2001 quy định về việc Người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam quy định: Người Việt Nam định cư ở nước 
ngoài theo Nghị định này là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, 
làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài đã được quy định tại Luật quốc tịch Việt 
Nam ngày 1/1/1999 (Điều 2). 
Sau đó, tại Khoản 1 Điều 65 Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06 
tháng 09 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành 
Luật Nhà ở 2005 cũng định nghĩa: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là 
công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu 
dài ở nước ngoài theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 20/5/1998 
(có hiệu lực từ 1/1/1999)”. Trong đó, công dân Việt Nam là người có quốc 
tịch Việt Nam bao gồm hai trường hợp họ là những người có quốc tịch Việt 
Nam làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài và chưa nhập quốc tịch của bất 
kỳ nước nào hoặc họ là những người còn giữ quốc tịch Việt Nam nhưng đã 
nhập quốc tịch nước ngoài; còn người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống 
lâu dài ở nước ngoài thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. 
Khi Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 ra đời thay thế Luật Quốc tịch 
Việt Nam năm 1998, quy định về người Việt Nam định cư ở nước ngoài rõ 
ràng và chi tiết hơn. Khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 kế 
thừa quy định của Luật Quốc tịch năm 1998, đồng thời luật mới bổ sung định 
nghĩa về người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người đã từng có quốc 
tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc 
huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. 
Với Công dân Việt Nam: theo Điều 5 Luật quốc tịch thì người có quốc 
tịch Việt Nam là công dân Việt Nam; công dân Việt Nam được Nhà nước Việt 
Nam bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn nghĩa vụ công dân với Nhà 
nước và xã hội theo quy định của pháp luật; Nhà nước Việt Nam có chính sách 
để công dân Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện hưởng các quyền công dân và 
làm các nghĩa vụ công dân phù hợp với hoàn cảnh sống xa đất nước.    
9
Với người gốc Việt Nam định cư lâu dài ở nước ngoài, theo quy định 
tại khoản 4 Điều 3 Luật quốc tịch hiện hành thì: người gốc Việt Nam định cư 
ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh 
ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con cháu 
của họ đang cư trú sinh sống lâu dài ở nước ngoài. 
Trước đây, khi hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong 
nước (đã hết hiệu lực thi hành), tại phần I thông tư số 02/2005/TTLT/BKH-
BTP-BNG-BCA ngày 25/5/2005 hướng dẫn việc người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam theo nghị định số 
51/1999/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong 
nước đã nêu chi tiết hơn về người Việt Nam định cư ở nước ngoài như sau: 
- Người có quốc tịch Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài; 
- Người có gốc Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài; 
- Người có cha đẻ, mẹ đẻ, hoặc ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại 
hiện nay có, hoặc đã từng có quốc tịch Việt Nam. 
Theo quy định tại Điều 13 Luật Quốc tịch năm 2008 và Mục 5 Nghị 
định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch thì: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài 
mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước 
ngày 1/7/2009 thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và phải đăng ký với cơ quan 
đại diện của Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam trong thời hạn 
đến hết ngày 1/7/2014. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam được thực hiện 
đến hết ngày 1/7/2014. Hết thời hạn này, nếu không đăng ký giữ quốc tịch 
Việt Nam thì công dân đó sẽ mất quốc tịch Việt Nam. Trong trường hợp công 
dân đó muốn có quốc tịch Việt Nam thì phải làm thủ tục xin trở lại quốc tịch 
Việt Nam theo quy định của pháp luật. 
Tuy nhiên tại Luật số 56/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Luật Quốc tịch Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 26/6/2014 đã sửa đổi bổ sung 
khoản 2 Điều 13 của Luật Quốc tịch 2008 như sau: 
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt 
Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực 
thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.    
10
 - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam 
mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam thì đăng ký với cơ quan 
đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc tịch Việt Nam và 
cấp Hộ chiếu Việt Nam. 
Do đó yêu cầu về việc đăng ký để giữ quốc tịch của người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài được bãi bỏ. Vì vậy những người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài mang quốc tịch nước ngoài hay không mang quốc tịch nước ngoài 
đến trước thời điểm ngày 26/6/2014 (ngày có hiệu lực của Luật quốc tịch sửa 
đổi)vẫn còn quốc tịch Việt Nam thì sẽ tiếp tục được mang quốc tịch Việt 
Nam. Như vậy quy định của Luật quốc tịch đã tạo điều kiện thuận lợi cho 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài vì điều kiện sống phải nhập quốc tịch 
nước ngoài nhưng vẫn giữ được quốc tịch Việt Nam (tức mang từ 02 quốc 
tịch trở lên). 
Như vậy, khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm hai 
nhóm chủ thể là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài và người gốc Việt 
Nam định cư ở nước ngoài. Vì vậy, một người còn quốc tịch Việt Nam (công 
dân Việt Nam) hay đã thôi quốc tịch Việt Nam và nhập quốc tịch nước khác 
(người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài) thì theo quy định 
trên họ vẫn được coi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. 
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài 
Cách đây hàng trăm năm đã có người Việt Nam ra nước ngoài sinh 
sống. Vào thế kỷ thứ XII, do hoàn cảnh đất nước, một nhánh con cháu họ Lý 
sang Hàn Quốc lập nghiệp. Thế kỷ thứ XVII có người Việt Nam sang làm ăn 
tại Campuchia. Thế kỷ thứ XVIII đến đầu thế kỷ thứ XIX, người Việt Nam 
sang lánh nạn và làm ăn tại Campuchia, Lào, Thái Lan, Trung Quốc. 
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, một số người Việt Nam đi 
du học, làm công chức tại Pháp hoặc bị động viên đi phu, đi lính tại một số 
thuộc địa của Pháp. Trong thời kỳ chiến tranh, có thêm một số người ra đi 
lánh nạn kiếm sống, theo chồng hồi hương hoặc đi tu nghiệp, du học ở nước 
ngoài. Tuy nhiên trước năm 1975 số lượng người Việt Nam ở nước ngoài 
không lớn, mới chỉ khoảng 160 - 200 nghìn người ở 10 nước, phần đông có tư 
tưởng sinh sống tạm thời, chờ điều kiện thuận lợi trở về nước.    
11
Từ sau năm 1975, đã có sự thay đổi sâu sắc về số lượng, thành phần, 
tính chất cũng như địa bàn sinh sống của cộng đồng người Việt Nam ở nước 
ngoài, số người ra đi (di tản trước tháng 04/1975, vượt biên trong các năm 
1978-1980, theo chương trình ra đi có trật tự và các chương trình nhân đạo 
1980-1996) đã lên tới khoảng 2 triệu người, chủ yếu tới Mỹ, Úc, Canada, 
Nhật Bản, các nước Tây Âu và Bắc âu Thêm vào đó sau năm 1980, một số 
khá đông sinh viên, thực tập sinh và lao động Việt Nam ở các nước Liên Xô 
và Đông Âu cũ ở lại làm ăn [21]
. 
Đến nay, theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng 4 triệu người Việt Nam 
đang sinh sống ở khoảng 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các 
nước công nghiệp phát triển: Hoa Kỳ khoảng 1,5 triệu người; Pháp khoảng 
300 nghìn người; Úc, Canada mỗi nước khoảng 250 nghìn; Campuchia, Thái 
Lan, Đức, Nga - mỗi nước khoảng 100 nghìn; Đài Loan 100 nghìn; Hàn Quốc 
75 nghìn; Anh, Czech mỗi nước khoảng 40 nghìn; Ba Lan 30 nghìn; Lào 20 
nghìn; Trung Quốc, Bỉ, Thuỵ Điển - mỗi nước trên dưới 10 nghìn Phần 
đông bà con có cuộc sống ngày càng ổn định và hòa nhập vào xã hội nơi cư 
trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, xã hội ở nước sở tại
.
 Cuộc sống 
của cộng đồng người Việt có ảnh hưởng ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ 
giữa các nước sở tại với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng 
trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp 
đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng đáng kể người Việt tại một số địa 
bàn như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia, các nước Tây Á… 
Như vậy, có thể thấy những người Việt Nam đầu tiên đặt nền móng cho 
quá trình hình thành cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài cách 
đây hàng trăm năm, trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử cho đến trước 
năm 1975 cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài không có nhiều 
biến động với số lượng ít. Sau sự kiện năm 1975 vì nhiều lý do cộng đồng 
người Việt Nam ở nước ngoài tăng lên nhanh chóng, nếu trước năm 1975 
khoảng 200.000 người thì sau năm 1975 con số đã lên tới 2 triệu người
.
 Cho 
tới nay cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã khoảng 4 triệu 
người [21]. 
1.1.3. Đặc điểm người Việt Nam định cư ở nước ngoài    
12
Trong những năm gần đây, xu hướng phát triển của cộng đồng người 
Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng ổn định, hội nhập vào xã hội ở đất 
nước sở tại, tiếp thu những giá trị văn hóa của nước sở tại nhưng vẫn giữ gìn 
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước có vị trí trong việc làm cầu 
nối cho quan hệ giữa nước ta với nước sở tại. Hiện nay, đời sống của phần lớn 
kiều bào ta ở mức trung bình so với người dân nước sở tại. Số người giàu có 
tiêu chuẩn của nước sở tại ngày càng tăng. Các doanh nghiệp của kiều bào ta 
ngày càng lớn mạnh vừa tích lũy vừa mở rộng làm ăn, bà con đã bước đầu 
xây dựng được cơ sở cho cuộc sống ổn định lâu dài ở hầu hết các nước và 
vùng lãnh thổ. 
Mặc dù tiềm lực kinh tế còn chưa lớn, nhưng cộng đồng người Việt 
Nam có tiềm năng tri thức đáng kể và rất đa dạng. Hàng trăm nghìn người 
được đào tạo ở trình độ đại học hoặc công nhân kỹ thuật bậc cao ở các nước 
công nghiệp phát triển, có điều kiện tiếp cận với thông tin và thành tựu mới 
về quản lý, khoa học và công nghệ. Một số người giữ vị trí quan trọng trong 
các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, doanh nghiệp và các tổ chức 
quốc tế. 
Một thế hệ tri thức mới là những người gốc Việt đang hình thành và 
phát triển, nhất là ở các nước, khu vực như Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản tập 
trung nhiều ở lĩnh vực như luật học, tin học , lý học, hóa học, điện tử, quản lý 
và chứng khoán… 
Người Việt Nam sinh sống ở các nước thường tập trung thành những 
khu vực, thị trấn, khu phố riêng nên tạo được môi trường thuận lợi cho việc 
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và sinh hoạt truyền thống. Tuy vậy, nhiều gia 
đình thường phải vật lộn kiếm sống và ít có cơ hội về nước nên chưa có điều 
kiện chăm lo giữ gìn các giá trị văn hóa Việt Nam. Do ở nước ngoài nhiều 
năm nên trong các gia đình 3-4 thế hệ thường có hiện tượng ông bà, cha mẹ 
còn nói với nhau bằng Tiếng Việt, nhưng con cháu nói được rất ít hoặc chỉ 
nghe hiểu mà không nói, không viết được bằng tiếng Việt. Cộng đồng người 
Việt hình thành từ năm 1975 trở lại đây, tuy phần lớn mới có 2-3 thế hệ 
nhưng thế hệ sinh trưởng ở nước ngoài cũng đang ngày càng nói ít bằng tiếng 
Việt. Do đó nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng Việt và nhu cầu về 
tiếng Việt ngày càng ít đi [21].    
13
Nhiều người Việt Nam ra đi từ những năm 1975 còn mặc cảm với quá 
khứ của mình. Do chưa có điều kiện tiếp cận với những thông tin trung thực 
về sự thay đổi ở quê nhà nên những người này còn ít nhiều có thành kiến với 
cuộc sống trong nước. So với cộng đồng kiều dân khác trên thế giới thì đây là 
đặc điểm khá điển hình của cộng đồng kiều bào ta. 
Tại tất cả các nước Phương tây, cuộc sống của kiều bào tương đối ổn 
định, mặc dù mức độ hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo 
dục… còn thấp hơn so với cộng đồng người Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc…Một 
số người Việt ở Mỹ, Đức, Úc được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng trong 
chính quyền như: Trợ lý Bộ trưởng, thành viên trong nhóm cố vấn tổng thống, 
nghị sỹ bang…Những người có thái độ trung gian chiếm phần lớn trong cộng 
đồng, dù lúc này hay lúc khác bị các thế lực cực đoan lôi kéo đe dọa nhưng 
nhìn chung bà con tránh liên quan đến hoạt động chính trị mà chỉ tập trung 
làm ăn, khi có điều kiện thì về nước thăm thân nhân, giúp gia đình, đi du lịch 
hoặc có cơ hội thì đầu tư…dư luận chung ngày càng quan tâm hơn đến chính 
sách của Nhà nước đối với kiều bào. Đa số bà con ở các nước, nhất là Mỹ 
hoan nghênh ủng hộ Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đã ký kết. 
Nhiều người, nhất là giới trẻ hăng hái, tích cực đầu tư hoặc giới thiệu bạn bè, 
các đối tác đầu tư kinh doanh vào Việt Nam. Các hội người Việt Nam và các 
tổ chức nghề nghiệp, quốc tế, đồng hương, từ thiện ở Mỹ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, 
Nhật … đã và đang có những hoạt động thiết thực hướng về quê hương đất 
nước [22]. 
Cuộc sống của những người Việt Nam sống ở Nga và Đông âu có 
những bước phát triển nhất định, nhưng chưa ổn định. Nhiều người không có 
ý định lập nghiệp lâu dài, thêm vào đó, dòng người nhập cư mới từ Việt Nam 
tiếp tục vào khu vực này làm cho cộng đồng thêm phức tạp, phải đối mặt với 
nhiều khó khăn, nhất là về địa vị pháp lý và an ninh cộng đồng. Tình trạng 
phạm pháp trong cộng đồng như: tàng trữ sử dụng, làm giấy tờ giả mạo, cạnh 
tranh chèn ép nhau trong kinh doanh… khiến bà con không yên tâm làm ăn và 
ảnh hưởng đến quan hệ đối với cộng đồng nước sở tại. 
Cuộc sống của bà còn người Việt Nam ở các nước láng giềng, nhất là 
Lào, Trung Quốc đang có điều kiện phát triển thuận lợi và ổn định. Chính 
quyền Thái Lan đã giải quyết cho những người thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 nhập 
   14
quốc tịch Thái Lan và cấp giấy tờ định cư cho những người thuộc thế hệ thứ 
nhất. Ở Camphuchia tuy đời sống vật chất của của kiều bào ta còn gặp nhiều 
khó khăn nhưng hơn các nước láng giềng khác nhưng cuộc sống tinh thần của 
người Việt Nam tại đây đang được cải thiện đáng kể.[21] 
Đáng chú là cho dù người Việt sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới 
nhưng cộng đồng người Việt luôn hướng về quê hương, mong muốn cho quê 
hương hội nhập, phát triển hơn nữa. Tuy nhiên có một bộ phận đồng bào do 
chưa hiểu đúng về tình hình trong nước, nên còn có thái độ dè dặt, hay tiêu 
cực với tình hình trong nước, thậm chí một số người đi ngược lại lợi ích 
chung của toàn dân tộc. Sự đóng góp của bà con kiều bào vào quá trình xây 
dựng và bảo vệ đất nước còn ít, chưa phán ánh đúng tiềm năng của cộng đồng 
người Việt Nam ở nước ngoài. 
Qua đây chúng ta thấy so với các cộng đồng thiểu số khác, cộng đồng 
người Việt ở nước ngoài là cộng đồng trẻ, năng động thông minh, nhanh 
chóng hòa nhập với đời sống nước sở tại, nhiều người đã có những thành 
công lớn trong hoạt động kinh doanh, học hàm, học vị, địa vị xã hội, nghiên 
cứu khoa học…tuy nhiên cộng đồng người Việt ở nước ngoài là cộng đồng 
phức tạp về thành phần xã hội, xu hướng chinh trị, đa dạng về nghề nghiệp, 
tôn giáo dân tộc, đặc biệt là bị phân hóa bởi sự khác biệt về giai cấp, chính 
kiến và hoàn cảnh ra đi cũng như cư trú ở các địa bàn khác nhau, tính liên kết 
gắn bó trong cộng đồng còn chưa cao. 
1.2. Khái niệm chung về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử 
dụng đất 
 1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất 
Thứ nhất: Về nhà ở và quyền sở hữu nhà ở: 
Theo từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, nhà ở được quan 
niệm là“Chỗ ở và sinh hoạt của một gia đình” Trên phương diện pháp lý, Điều 1 
Luật Nhà ở năm 2005 định nghĩa: Nhà ở là “công trình xây dựng với mục đích 
để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân” [74]. 
Điều 3 Nghị định số 71/2010/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định 
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở quy định có các loại nhà ở sau: nhà 
ở tự do tạo lập, nhà ở thương mại, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ.    
15
 Theo quy định của pháp luật, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có 
quyền sở hữu thông qua hình thức mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đổi nhà 
ở hoặc được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong các dự án phát 
triển nhà ở của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (đối với dự án tại 
các khu vực được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức bán 
nền theo quy định của pháp luật đất đai) để mua xây dựng nhà ở cho bản thân 
và các thành viên trong gia đình tại Việt Nam. 
Quyền sở hữu là một trong những tiền đề vật chất cho sự phát triển 
kinh tế, vì quyền sở hữu chính là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một 
chủ thể được thực hiện trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài 
sản. Theo Điều 164 Bộ Luật dân sự 2005: “Quyền sở hữu bao gồm quyền 
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy 
định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba 
quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”. 
 Thứ 2. Về quyền sử dụng đất: 
Theo sách: “Từ điển luật học” Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà 
xuất bản tư pháp năm 2006 thì “Quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể, 
được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được 
Nhà nước giao, cho thuê hoặc chuyển giao từ những chủ thể khác thông qua 
việc chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho…từ 
những chủ thể khác có quyền sử dụng đất”. 
Với tư cách là đại diện chủ sở hữu, nhà nước có đầy đủ quyền chiếm 
hữu sử dụng định đoạt. Trong các quyền năng đó, quyền sử dụng có ý nghĩa 
hơn cả, trực tiếp đem lại lợi ích cho chủ sở hữu, nhưng nhà nước không trực 
tiếp sử dụng đất mà gián tiếp sử dụng thông qua các tổ chức, cá nhân trong xã 
hội bằng cách cho thuê đất, giao đất, công nhận quyền sử dụng cho người trực 
tiếp sử dụng đất. 
Thực vậy quyền sử dụng mà chúng ta phải hiểu ở đây là quyền tự 
nhiên, khi con người chiếm hữu đất đai thì họ phải sử dụng đất để khai thác 
các tính năng của đất đai mà chưa quan tâm đến hình thức sở hữu nó, thông 
qua hành vi sử dụng đất mà con người thỏa mãn các nhu cầu của mình, tạo ra 
của cải vật chất cho xã hội.    
16
Ngoài ra quyền sử dụng đất còn là một quyền năng pháp lý được pháp 
luật ghi nhận và bảo vệ.Từ khi Hiến pháp năm 1980 ra đời thì đất đai thuộc sở 
hữu toàn dân, nhà nước vừa là người đại diện chủ sở hữu và là người quản lý. 
Trong giai đoạn 1980 - 1987 nhà nước chưa xác lập một cách đầy đủ quyền 
sở hữu chủ của mình đối với đất đai, đặc biệt là đất đai đang thuộc quyền 
chiếm hữu, sử dụng của các tổ chức cá nhân. Việc khẳng định toàn dân sở 
hữu đất đai chỉ là một khẳng định mang tính pháp quy. Tuy nhiên chúng ta có 
thể thấy rằng các quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng đất trong giai đoạn này 
chưa được quan tâm thỏa đáng. Pháp luật dường như mới chỉ quan tâm đến 
lợi ích của Nhà nước mà chưa quan tâm đến quyền lợi của người đang chiếm 
hữu sử dụng đất từ trước đó. Thực trạng này tạo ra việc người dân chưa khai 
khác hết các tiềm năng của đất nên dẫn đến cuộc khủng hoảng trong sản xuất 
nông nghiệp trong những năm 1980. Đến luật đất đai năm 1987 mới bắt đầu 
xác lập mối quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu với người trực tiếp sử dụng 
đất.Luật đã quy định cụ thể về quyền nghĩa vụ của người sử dụng đất, từ đó 
chế định về quyền sử dụng đất hình thành. Từ đó đất đai thuộc sở hữu toàn 
dân, trên cơ sở ghi nhận quyền sử dụng là một hình thức mà đại diện chủ sở 
hữu là Nhà nước. Nhà nước công nhận quyền sừ dụng cho các tổ chức, hộ gia 
đình cá nhân được quyền khai thác công năng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất. 
Tuy nhiên do nhu sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu sử dụng 
đất ngày càng trở nên bức xúc thì việc quy định về cấm mua bán chuyển 
nhượng đất đã trở thành một rào cản trong quá trình phát triển kinh tế. Trước 
tình hình đó Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 1993 ra đời đánh dấu 
một bước tiến mới trong ghi nhận quyền của chủ sử dụng đất. Một mặt tiếp 
tục ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, 
thừa nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất hợppháp một mặt cho phép người sử 
dụng đất có quyền chuyển quyền sử dụng đất như chuyển nhượng, chuyển 
đổi, tặng cho, thừa kế góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên việc sử 
dụng quyền của mình không phải là tự do mà giới hạn trong những điều kiện 
nhất định có sự quản lý của Nhà nước. Đây là một bước đột phá lớn trong 
hành lang pháp lý về quyền sử dụng, tạo tiền đề cho việc phát triển thị trường 
quyền sử dụng đất, tạo động lực người sử dụng có điều kiện phát huy tối đa 
hiệu quả của việc sử dụng đất. Đồng thời từ đó mà pháp luật thừa nhận đất đai 
có giá trị bằng việc Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, và quyền sử    
17
dụng đất đã định được bằng giá trị, từ đất quyền sử dụng đất mới được đưa 
vào trong các giao dịch dân sự. Tiếp đó Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi 
bổ sung năm 2013 đã tiếp tục quy định hoàn thiện hơn về quyền và nghĩa vụ 
đối với người sử dụng đất. 
Như vậy chế định về quyền sử dụng đất được xem như một hình thức 
thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai.Theo đó Nhà nước với tư cách đại 
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai có quyền định đoạt toàn bộ đất đai trên 
phạm vi toàn quốc về mặt pháp lý. Nhà nước có đầy đủ ba quyền năng của 
chủ sở hữu theo luật định. Tuy nhiên Nhà nước lại không trực tiếp sử dụng 
đất mà lại thông qua quyền định đoạt tối cao của mình cho các tổ chức cá 
nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng đất bằng hình thức giao đất, cho thuê đất, 
công nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất ổn định trực tiếp lâu dài 
được xác lập bằng các hành vi chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp. 
Như vậy quyền sử dụng đất là quyền khai thác những thuộc tính có lợi 
từ đất một cách hợp pháp thông qua các hành vi sử dụng đất hoặc chuyển 
quyền đó cho người khác. Quá trình hình thành vận động và phát triển của 
quyền sử dụng đất vừa diễn ra một cách tất yếu khách quan, vừa tuần tự có sự 
gắn kết với chế định toàn dân sở hữu đất đai mà Nhà nước là người đại diện. 
Các quy định này vừa có tính ổn định vừa có sự thay đổi tuy thuộc vào sự 
phát triển của xã hội. Từ chỗ chỉ ghi nhận người sử dụng đất có 05 quyền 
chuyển quyền sử dụng đất đến nay đã mở rộng thêm quyền cho thuê lại, góp 
vốn bằng quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2003. 
Tóm lại, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất của người 
Việt Nam định cư ở nước ngoài là quyền của người Việt Nam định cư ở nước 
ngoài được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt nhà ởgắn liền với quyền sử dụng 
đất đó và được hưởng hoa lợi ích từ việc sử dụng đất hợp pháp. Tuy nhiên, 
những quyền này được biểu hiện như thế nào còn phụ thuộc rất nhiều vào ý 
chí nhà nước. Tuỳ vào từng thời kỳ mà Nhà nước có những chính sách với 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài cho phù hợp, vì thế một trong ba quyền 
năng cơ bản của chủ sở hữu có thể tuyệt đối hay bị giới hạn phụ thuộc vào 
quy định cụ thể của pháp luật trong từng giai đoạn. Đặc biệt với tài sản là nhà 
ở gắn với quyền sử dụng đất là một tài sản lớn và các chính sách với nhà ở sẽ    
18
tác động rất lớn tới kinh tế - xã hội, thì việc thận trọng khi ban hành các quy 
định pháp luật là điều dễ hiểu. 
1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với 
quyền sử dụng đất 
Tranh chấp là những bất đồng mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa 
các bên trong một xã hội nhất định được pháp luật điều chỉnh. Đây là cách 
hiểu phổ biến dưới góc độ pháp lý, bởi thực ra mối quan hê ở đây là quan hệ 
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. 
Trong quan hệ quyền sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất là một 
dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh những đặc điểm chung của 
một tranh chấp dân sự, tranh chấp về nhà ở gắn đất đai còn mang những đặc 
điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, 
tranh chấp kinh tế Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây: 
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với 
quyền sử dụng đất đai chỉ có quyền sở hữu tài sản trên đất là nhà ở còn đối 
với đất, chủ thể chỉ có quyền quản lý và quyền sử dụng đất mà không phải là 
chủ thể của quyền sở hữu đất đai. Quyền sử dụng đất của các chủ thể được 
xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của Nhà nước hoặc được 
Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng, mua nhà gắn liền với quyền sử 
dụng đất từ các chủ thể khác hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng 
đất hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của tranh 
chấp đất đai là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người 
quản lý hoặc người sử dụng đất. 
Thứ hai, nội dung của tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn liền với 
quyền sử dụng đất rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản lý và sử dụng 
nhà, đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú với việc 
sử dụng nhà đất vào mục đích để ở nhưng cũng được các chủ thể sử dụng vào 
nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử dụng khác nhau. 
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng nhà, đất không 
đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Mà nhà, đất đai 
đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến 
động theo quy luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng nó    
19
không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá 
trị sinh lời của đất (thông qua các hành vi kinh doanh bất động sản). Tất 
nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng nhà ở gắn liền với đất phong phú và 
phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh quan hệ này cũng trở 
nên gay gắt và trầm trọng hơn. 
Thứ ba, tranh chấp về nhà ở gắn với quyền sử dụng đất đai phát sinh 
gây hậu quả xấu về nhiều mặt như: Có thể gây mất ổn định về chính trị, phá 
vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự 
quản lý hành chính về nhà ở, đất đai, tác động không tốt tới sự phát triển kinh 
tế xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên 
tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội, nhất là 
đối với tranh chấp liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người 
nước ngoài thì còn ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao, việc thu hút các nguồn 
lực từ bên ngoài. 
Ngoài những đặc điểm nêu trên thì tranh chấp quyền sở hữu nhà ở gắn 
liền với quyền sử dụng đất có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở 
nước ngoài cũng có những đặc trưng riêng: 
Theo quy định tại Điều 405 Bộ luật TTDS thì vụ việc dân sự có YTNN 
là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đương sự là người nước ngoài, 
người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các 
đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, 
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước 
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [42]. Vì vậy, đối 
với các tranh chấp dân sự có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước 
ngoài được coi là vụ việc có YTNN. 
Các tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở, gắn liền với quyền sử dụng đất 
có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài vừa có đặc điểm 
chungcủa tranh chấp nhà đất nói chung, vừa có đặc trưng riêng của nó, bởi 
YTNN hay chính sự có sự tham gia của một hoặc các bên là người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Riêng đối với quan 
hệ đòi lại tài sản là quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất thì 
thường đương sự là người Việt Nam ở nước ngoài với đương sự là người Việt 
Nam thường có mối quan hệ thân thích, hoặc bạn bè, cùng hội cùng thuyền