ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG ANH
PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN
RỪNG CỦA NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ CÂN TÔM 2,
THỦY ĐIỆN A LƯỚI, THỪA THIÊN HUẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Hà Nội – Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG ANH
PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN
RỪNG CỦA NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ CÂN TÔM 2,
THỦY ĐIỆN A LƯỚI, THỪA THIÊN HUẾ
Chuyên ngành: Môi trường trong phát triển bền vững
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS LÊ TRỌNG CÚC
Hà Nội – Năm 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn với sự nỗ lực của bản thân cùng với sự giúp
đỡ của gia đình, thầy cô và bạn bè tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Trước hết, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn
chân thành tới: GS.TS. Lê Trọng Cúc đã trực tiếp hướng dẫn tôi rất tận tình, cho tôi
những kiến thức và kinh nghiệm quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ quý báu của UBND xã Hồng
Thượng; Hạt Kiểm lâm huyện A Lưới; Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện A Lưới;
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện A Lưới; Trưởng thôn, Bí thư và người dân
khu tái định cư Cân Tôm 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được học tập, nghiên
cứu, dạy cho tôi những kiến thức thực tiễn vô cùng bổ ích và hoàn thành luận văn
đúng thời hạn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và
Môi trường (CRES), các anh chị trong lớp Cao học K9 – Cres và gia đình đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Do thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để
luận văn được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Phương Anh
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung nghiên cứu của Luận văn này được hình
thành và phát triển từ quan điểm của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
GS.TS Lê Trọng Cúc. Các số liệu và kết quả có được trong Luận văn là trung thực,
không sử dụng số liệu của các tác giả khác chưa được công bố.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Phương Anh
iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vii
MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.2 Đối tượng nghiên cứu 2
1.2.3 Phạm vi nghiên cứu 3
1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
1.4 Kết cấu luận văn 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 5
1.1 Các khái niệm cơ bản 5
1.1.1 Khái niệm tài nguyên rừng 5
1.1.2 Khái niệm về sản phẩm từ rừng 6
1.1.3 Khái niệm về tái định cư và tái định cư do thủy điện 8
1.1.4 Khái niệm về sinh kế 13
1.1.5 Tiêu chuẩn xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ trung bình 14
1.2 Tình hình nghiên cứu về TĐC thủy điện trong nước 14
1.3 Tình hình nghiên cứu tại khu TĐC do thủy điện A Lưới 19
CHƯƠNG 2: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 21
2.1.1 Địa điểm nghiên cứu 21
2.1.1.1 Đặc điểm tự nhiên 21
2.1.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu 24
2.1.1.3 Hiện trạng TĐC tại thôn Cân Tôm 2 25
iv
2.2 Phương pháp nghiên cứu 27
2.2.1 Phương pháp luận 27
2.2.2 Phương pháp nghiên cứu 28
2.2.2.1 Thu thập tài liệu thứ cấp 28
2.2.2.2 Thu thập tài liệu sơ cấp 28
2.2.3 Phương pháp xử lý số liệu 33
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
3.1 Thực trạng tài nguyên rừng của huyện A Lưới 34
3.1.1 Đặc điểm tài nguyên rừng A Lưới qua các năm 34
3.1.2 Thực trạng quản lý và khai thác tài nguyên rừng của huyện A Lưới 38
3.2 Các chủ trương, chính sách liên quan đến TNR và người dân khu TĐC 41
3.3 Phân tích ảnh hưởng của sinh kế người dân khu TĐC đến TNR 45
3.3.1 Đặc điểm của hộ khảo sát tại thôn Cân Tôm 2 45
3.3.2 Tình hình đời sống của người dân khu TĐC Cân Tôm 2 46
3.3.2.1 Tình hình thu hồi tài sản của người dân TĐC Cân Tôm 2 46
3.3.2.2 Tình hình đền bù cho người dân khu tái định cư Cân Tôm 2 48
3.3.2.3 Cơ sở vật chất phục vụ cho người dân khu TĐC Cân Tôm 2 51
3.3.2.4 Sinh kế của người dân trước và sau khi chuyển đến khu TĐC 55
3.3.3 Tầm quan trọng của TNR đối với người dân khu TĐC Cân Tôm 2 60
3.3.3.1 Các sản phẩm người dân khu TĐC Cân Tôm 2 khai thác từ rừng 60
3.3.3.2 Tầm quan trọng của TNR đối với sinh kế của người dân khu TĐC Cân
Tôm 2 64
3.4 Một số đề xuất trong quản lý và sử dụng TNR hợp lý 74
3.4.1 Về phía chính quyền địa phương 74
3.4.2 Về phía người dân khu tái định cư 76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 1 82
PHỤ LỤC 2: ẢNH 86
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình vẽ 2.1: Sơ đồ xã Hồng Thượng 22
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu thu nhập của người dân trước TĐC 58
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu thu nhập của người dân sau TĐC 59
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Cơ cấu sử dụng đất của xã Hồng Thượng 23
Bảng 3.1: Diễn biến tài nguyên rừng A Lưới qua các năm 35
Bảng 3.2: Hiện trạng các loài động thực vật rừng A Lưới 37
Bảng 3.3: Cơ cấu diện tích rừng phân theo chủ quản lý 38
Bảng 3.4: Nguyên nhân diện tích rừng thay đổi 39
Bảng 3.5: Đặc điểm của hộ khảo sát 45
Bảng 3.6: Các hạng mục bị thu hồi của người dân khu TĐC Cân Tôm 2 47
Bảng 3.7: Cơ cấu sử dụng tiền đền bù của các hộ dân TĐC 49
Bảng 3.8: Cơ sở vật chất phục vụ người dân khu TĐC Cân Tôm 2 51
Bảng 3.9: Quy mô sản xuất nông nghiệp của người dân 55
Bảng 3.10: Cơ cấu thu nhập của hộ gia đình trước và sau TĐC 58
Bảng 3.11: Các sản phẩm rừng người dân khai thác 61
Bảng 3.12: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, đe dọa trong việc sử dụng và
bảo vệ TNR của người dân 65
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LSNG : Lâm sản ngoài gỗ
SL TB : Số lượng trung bình
SXNN : Sản xuất nông nghiệp
TĐC : Tái định cư
TNR : Tài nguyên rừng
UBND : Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thủy điện A Lưới là dự án thủy điện lớn nhất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên
Huế, được xây dựng trên sông A Sáp, thuộc huyện A Lưới, với tổng vốn đầu tư
3.234 tỷ đồng, công suất lắp máy 170 MW, sản lượng điện bình quân hàng năm ước
đạt 686,5 triệu KWh. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, ngoài việc cung cấp
điện, thủy điện A Lưới sẽ tạo cảnh quan du lịch, cải thiện môi trường, góp phần
nâng cao chất lượng sống cho bà con vùng núi phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, vốn
bị tàn phá nặng nề do bom đạn, chất độc dioxin của quân đội Mỹ trong chiến tranh.
Sau khi công trình thủy điện A Lưới được khởi công xây dựng từ năm 2007 tại
xã Hồng Thượng, các hộ dân bị ảnh hưởng phải di dời đến nơi ở mới để ổn định đời
sống. Khu tái định cư Cân Tôm 2 được xây dựng và người dân đến định cư vào năm
2010. Tổng số hộ hiện nay tại khu tái định cư là 146 hộ với 540 nhân khẩu. Tuy các
hộ dân đã vào khu tái định cư được hơn 3 năm nhưng cuộc sống vẫn chưa ổn định.
Cơ sở hạ tầng được xây dựng như: cầu cống, đường giao thông đều được bê
tông hóa, điện thắp sáng về tới nhà của từng hộ dân. Tuy nhiên, khi người dân vào ở
được 6 tháng thì một số đường đã xuống cấp nghiêm trọng. Ba trường học được xây
dựng xong, trong đó, một trường Trung học cơ sở, một trường Tiểu học và một
trường Mầm non để phục vụ việc học hành cho các cháu thôn TĐC. Một trạm Y tế
được xây dựng cơ bản nhằm phục vụ cho việc khám và chữa bệnh cho nhân dân
trong thôn. Tuy nhiên không có đội ngũ Y, Bác sỹ phục vụ tại trạm. Hiện nay,
phòng học và nhà vệ sinh đã xuống cấp. Vấn đề chất lượng đất canh tác ở khu vực
TĐC Cân Tôm 2 lại rất xấu nên bà con không thể sản xuất kinh doanh được. Cả khu
TĐC có khoảng 12 ha diện tích gieo cấy lúa nước, nhưng để gieo được những mầm
mạ, người dân đã phải vất vả, mất rất nhiều công sức cải tạo, đào bốc đá chất lên
bờ, trong khi năng suất rất thấp. Đất vườn thì cằn cỗi, toàn đá sỏi và trồng cây gì
cũng khó khăn. Đặc biệt, quá trình giao đất lâm nghiệp cho người dân còn gặp phải
những vướng mắc nên nhiều hộ vẫn chưa nhận được đất đền bù này. Một trong
những nguyên nhân là do mâu thuẫn, tranh chấp giữa chủ cũ và chủ mới của khu
2
đất. Khi đó, người dân khu TĐC quay lại phá rừng làm nương rẫy gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tài nguyên rừng (TNR) của địa phương. Tình trạng này đang gây
ra những khó khăn ảnh hưởng đến đời sống của người dân nơi đây và TNR cũng
đang bị tàn phá từng ngày.
Vì vậy, tôi thực hiện đề tài: “Phân tích hiện trạng sử dụng tài nguyên rừng
của người dân tái định cư Cân Tôm 2, thủy điện A Lưới, Thừa Thiên Huế” nhằm
làm rõ những thuận lợi, khó khăn mà người dân địa phương trong quá trình sinh
sống tại khu TĐC và sử dụng TNR gặp phải để đề ra hướng giải quyết cụ thể. Qua
đó giúp cho cuộc sống của người dân ổn định và quản lý, sử dụng TNR một cách
hợp lý theo hướng phát triển bền vững.
1.2 Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung:
Phân tích được hiện trạng sử dụng TNR của người dân TĐC Cân Tôm 2, thủy
điện A Lưới, Thừa Thiên Huế. Từ đó đưa ra một số giải pháp sử dụng và bảo vệ
TNR hiệu quả.
* Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu tình hình đời sống của người dân khu TĐC Cân Tôm 2
- Phân tích hiện trạng sử dụng TNR của người dân khu TĐC Cân Tôm 2
- Đề xuất một số giải pháp trong quản lý và sử dụng TNR hợp lý
1.2.2 Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu các hộ dân chuyển đến khu TĐC Cân Tôm 2 có hoạt
động sinh kế liên quan đến TNR.
Nghiên cứu thực trạng sinh kế của người dân trước và sau khi xây dựng thủy
điện A Lưới. TNR đóng vai trò như thế nào trong sinh kế của người dân và hướng
giải quyết để bảo vệ rừng bền vững.
Dung lượng mẫu: 50 hộ.
Cách chọn mẫu: ngẫu nhiên theo danh sách hộ của thôn.
3
Dựa vào danh sách hộ gia đình của thôn Cân Tôm 2 và tiến hành thảo luận
cùng với bí thư thôn Cân Tôm 2 để lọc ra danh sách những hộ có hoạt động sinh kế
liên quan đến TNR (khoảng 95% hộ dân ở đây tham gia khai thác TNR). Sau đó lựa
chọn ngẫu nhiên 50 hộ trong danh sách đó.
1.2.3 Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian: Luận văn được thực hiện tại khu TĐC Cân Tôm 2, xã Hồng
Thượng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
* Về thời gian: Nghiên cứu các tài liệu, thông tin trong vòng 3-5 năm có liên
quan đến đề tài luận văn.
* Về nội dung:
- Tìm hiểu đời sống của người dân khu TĐC Cân Tôm 2 (sản xuất nông
nghiệp, CSHT phục vụ đời sống của người dân, tình hình thu hồi và đền bù do thủy
điện A Lưới).
- Tìm hiểu hoạt động sử dụng TNR của người dân khu TĐC Cân Tôm 2 (các
sản phẩm khai thác từ rừng; thuận lợi và khó khăn khi sử dụng và khai thác các sản
phẩm từ rừng…)
1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề sử dụng tài nguyên
rừng, tác động của thủy điện đến hoạt động sử dụng tài nguyên rừng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu khoa
học tiếp theo về các vấn đề liên quan.
Phản ánh thực trạng sử dụng tài nguyên rừng của người dân khu tái định cư
Cân Tôm 2 và đề xuất giải pháp thích hợp.
* Ý nghĩa thực tiễn
Tài nguyên rừng của xã Hồng Thượng ngày càng bị thu hẹp do việc xây dựng
thủy điện A Lưới và sử dụng của người dân. Đề tài phân tích những điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và đe dọa trong quá trình sử dụng tài nguyên rừng của địa phương.
Từ đó tìm ra các giải pháp sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng hợp lý.
4
1.4 Kết cấu luận văn
Kết cấu bài luận văn gồm các phần cơ bản sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Địa điểm, thời gian, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm tài nguyên rừng
Theo luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thì Rừng được xem là một hệ
sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng
và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng
là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng
và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng [11].
Rừng cũng là một loại tài nguyên thiên nhiên nhưng nó lại có những đặc thù
riêng, do đó cần phải xem xét rừng dưới các khía cạnh sau:
Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật tái tạo được, có khả năng cung cấp lâm sản
cần thiết cho đời sống con người như: tinh dầu, dầu nhựa, dầu béo, nhựa mủ, lương
thực, thực phẩm, chất màu, chất béo, thuộc da, chất chát, nhiều loại dược liệu
quý…Tất cả các tính năng vốn có của rừng đã làm cho rừng gắn bó mật thiết với sự
phát triển kinh tế - xã hội [11].
Rừng, nếu hiểu đúng bản chất thì nó là nơi tập trung của cả động - thực vật và
vi sinh vật, là một bộ phận không thể thiếu của môi trường sống của con người, đem
lại sự cân bằng sinh thái trong tự nhiên, hạn chế các tác hại do sa mạc hoá gây ra,
điều hoà khí hậu, điều tiết chế độ nước, bảo vệ mùa màng, nâng cao năng suất cây
trồng…
* Phân loại rừng
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng
năm 2004, rừng được phân thành ba loại sau đây [11]:
1. Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất,
chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo
vệ môi trường, bao gồm:
a) Rừng phòng hộ đầu nguồn;
b) Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay;
c) Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển;
d) Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường;
6
2. Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn
hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo
vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp
phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
a) Vườn quốc gia;
b) Khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài -
sinh cảnh;
c) Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam
thắng cảnh;
d) Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học;
3. Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm sản
ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
a) Rừng sản xuất là rừng tự nhiên;
b) Rừng sản xuất là rừng trồng;
c) Rừng giống gồm rừng trồng và rừng tự nhiên qua bình tuyển, công nhận.
1.1.2 Khái niệm về sản phẩm từ rừng
* Gỗ: là vật liệu thiên nhiên được sử dụng khá rộng rãi trong xây dựng và
trong sinh hoạt vì những ưu điểm cơ bản sau: nhẹ, có cường độ khá cao, cách âm,
cách nhiệt và cách điện điện tốt; dể gia công (cưa, xẻ, bào, khoan…), vân gỗ có giá
trị mỹ thuật cao.
Ở nước ta, gỗ là vật liệu rất phổ biến. Rừng Việt Nam có nhiều loại gỗ tốt và
quý vào bậc nhất thế giới. Khu Tây Bắc có nhiều rừng già và có nhiều loại gỗ quý
như: trai, đinh, lim, lát, mun, pơmu. Rừng Việt Bắc có lim, nghiến, vàng tâm. Rừng
Tây Nguyên có cẩm lai, hương…
* Lâm sản ngoài gỗ (LSNG):
Hội nghị lâm nghiệp do Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc triệu tập tháng
6 năm 1999 đã đưa ra và thông qua một khái niệm và định nghĩa về LSNG: “Lâm
sản ngoài gỗ (Non timber forest product) bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc
sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng, đất có cây rừng (wooded lands) và cây ở
7
ngoài rừng”. Thuật ngữ này phải dịch sang Tiếng Việt là “Lâm sản ngoài gỗ cây”,
nhưng để đơn giản vẫn dùng thuật ngữ lâm sản ngoài gỗ (LSNG). Với định nghĩa
này, LSNG bao gồm cả động vật, gỗ nhỏ và củi và rộng hơn so với định nghĩa
trước. Trong tài liệu sách báo nước ngoài, hiện tại cả hai thuật ngữ NWFP và NTFP
vẫn được dùng [2].
Lâm sản ngoài gỗ (non-timber forest product): bao gồm các nguyên liệu có
nguồn gốc sinh vật, không phải là gỗ, được khai thác từ rừng để phục vụ con người.
Chúng bao gồm thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh dầu, nhựa,nhựa mủ, tanin, thuốc
nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (động vật sống hoặc các sản phẩm của chúng), củi
và các nguyên liệu thô như tre, nứa, mây, song, gỗ nhỏ và sợi (JennH.DeBeer, 2000).
Phân nhóm LSNG theo công dụng: Trên thế giới cũng đã có nhiều
khung phân loại LSNG được đề xuất. Có khung phân loại dựa vào dạng sống của
cây tạo ra các sản phẩm như nhóm cây gỗ, cây bụi, cây thảo, dây leo gỗ, dây leo
thảo Có khung phân loại dựa vào công dụng và nguồn gốc của các LSNG, như
khung phân loại được thông qua trong Hội nghị tháng 11/1991 tại Băng Cốc. Trong
khung này, LSNG được chia làm 6 nhóm:
- Các sản phẩm có sợi: Tre nứa, song mây, lá, thân có sợi và các loại cỏ.
- Sản phẩm làm thực phẩm:
+ Các sản phẩm nguồn gốc thực vật: thân, chồi, rễ, củ, lá, hoa, quả, quả hạch,
gia vị, hạt có dầu và nấm.
+ Các sản phẩm nguồn gốc động vật: mật ong, thịt động vật rừng, cá, trai ốc,
tổ chim ăn được, trứng và côn trùng.
- Thuốc và mỹ phẩm có nguồn gốc thực vật.
- Các sản phẩm chiết xuất: gôm, nhựa, nhựa dầu, nhựa mủ, tamin và thuốc
nhuộm, dầu bó và tinh dầu.
- Động vật và các sản phẩm từ động vật không làm thực phẩm: tơ tằm, động
vật sống, chim, côn trùng, lông mao, lông vũ, da, sừng, ngà, xương và nhựa cánh
kiến đỏ.
8
- Các sản phẩm khác: như lá Bidi (lá thị rừng dùng gói thuốc lá ở Ấn Độ) [2].
Phân loại LSNG theo giá trị sử dụng như sau:
- Nhóm LSNG dùng làm nguyên liệu công nghiệp.
- Nhóm LSNG dùng làm vật liệu thủ công mỹ nghệ.
- Nhóm LSNG dùng làm lương thực, thực phẩm và chăn nuôi.
- Nhóm LSNG dùng làm dược liệu.
- Nhóm LSNG dùng làm cảnh.
LSNG đa dạng về giá trị sử dụng do đó nó có vai trò quan trọng đối với đời
sống xã hội:
+ LSNG có tầm quan trọng về kinh tế và xã hội. Chúng có giá trị lớn và có thể
tạo ra nhiều công ăn việc làm.
+ LSNG có giá trị đối với sự giàu có của hệ sinh thái rừng. Chúng đóng góp
vào sự đa dạng sinh học của rừng. Chúng là nguồn gen hoang dã quý, có thể bảo tồn
phục vụ gây trồng công nghiệp.
+ LSNG hiện bị cạn kiệt cùng với sự suy thoái của rừng bởi ảnh hưởng của sự
tăng dân số, mở rộng canh tác nông nghiệp, chăn thả gia súc không kiểm soát, khai
thác gỗ, thu hái chất đốt.
1.1.3 Khái niệm về tái định cư và tái định cư do thủy điện
a. Tái định cư (TĐC)
Tái định cư là việc phải di chuyển đến một nơi khác để sinh sống, đây là thuật
ngữ chung liên quan tới bị thu hồi đất, mất đất, mất chỗ ở, mất tài sản, mất nguồn
thu nhập hay mất những phương tiện kiếm sống khác.
Theo khái niệm của Ngân hàng Phát triển Châu Á (1995), tái định cư được
phân loại dựa trên thiệt hại của người tái định cư [7]:
- Thiệt hại về tài sản sản xuất, bao gồm đất đai, thu nhập và đời sống.
- Thiệt hại về nhà ở, có thể là toàn bộ cộng đồng và các hệ thống, dịch vụ kèm theo.
- Thiệt hại về các tài sản khác.
- Thiệt hại về các nguồn tài nguyên của cộng đồng như môi trường sinh sống,
văn hóa và hàng hóa.
9
Ngoài ra, tái định cư còn được định nghĩa là quá trình trong đó con người tự
nguyện hay bị tác động, di chuyển từ địa bàn cư trú này sang địa bàn cư trú khác
trong một khoảng thời gian nhất định, có thể là tạm thời hay vĩnh viễn. TĐC là quá
trình di chuyển và thay đổi cuộc sống của con người, không chỉ là quá trình chuyển
dịch vật chất mà còn là quá trình cắt bỏ các quan hệ cũ và tạo lập các quan hệ mới.
TĐC đã làm thay đổi các mối quan hệ giữa mỗi người với môi trường xã hội xung
quanh, với các quan hệ chính như: công ăn việc làm, chỗ ở, nơi học hành, điều kiện
đi lại và sự tiếp cận các dịch vụ, quan hệ láng giềng, [3]. Đặc biệt, quá trình TĐC
còn tác động và gây ra những biến đổi trong quan hệ cộng đồng, quan hệ dòng họ,
quan hệ tộc người và liên quan đến nhiều vấn đề văn hóa, xã hội như giáo dục, y tế,
phong tục tập quán,
Các hình thức tái định cư:
Cho đến nay, việc di dân TĐC của các công trình phát triển kinh tế - xã hội
nói chung, đặc biệt là di dân ở các công trình xây dựng nhà máy thủy điện nói riêng
được thực hiện theo 4 hình thức là: Di vén, di vén xen ghép, di dân tập trung và di
dân tự chọn (tự di chuyển) [4].
- Hình thức di vén: Là quá trình di dân tại chỗ, đôi khi mang tính tự phát của
người dân vùng ngập lụt, theo mức nước dâng mà họ di chuyển dần lên nơi cao hơn.
Hình thức TĐC này là trường hợp bố trí địa bàn TĐC thuận lợi về quy mô diện tích,
nguồn nước sinh hoạt, đất sản xuất, đáp ứng nhu cầu cho khối dân cư phải di
chuyển từ lòng hồ lên vị trí cao hơn và không bị ngập lụt, nhưng vẫn ở xung quanh
hồ chứa. Trường hợp này ít bị thay đổi về điểm ngụ cư và khoảng cách giữa nơi ở
cũ và nơi ở mới không xa. Do đó một phần diện tích đất không bị ngập hoặc bán
ngập có khả năng sản xuất thuộc quyền sở hữu của họ, tránh được sự tranh chấp về
đất đai. Tuy nhiên hình thức di dân này còn có những hạn chế là dân cư sống phân
tán, khó đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng [4].
- Hình thức di vén xen ghép: Là hình thức di dân vùng lòng hồ lên sinh sống
chung với người dân địa phương trong xã hay khác xã. Hình thức này tạo sự đoàn
kết giữa người dân di cư và người dân sở tại. Nhược điểm của phương pháp này là
10
người dân sở tại phải chia sẻ một phần diện tích canh tác vốn đã hạn chế. Mặt khác
người dân di cư đến mặc nhiên được thừa hưởng các công trình phúc lợi xã hội như
đường giao thông, trạm y tế, trường học và các cơ sở hạ tầng khác. Trong khi đó
người dân sở tại chỉ được đền bù một phần đất mà chia sẻ cho người dân TĐC. Sự
chênh lệch về mức ưu đãi giữa hai nhóm người này nảy sinh mâu thuẫn giữa người
cũ và người mới đến, nhất là họ không cùng dân tộc.
- Hình thức di dân tập trung: Là hình thức đưa một số lượng người dân bị ảnh
hưởng từ (25 – 30 hộ) đến một nơi ở mới mà hầu như chưa có cơ sở hạ tầng và chưa
có người dân sở tại sinh sống, hoặc nếu có thì cũng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Hình
thức này có ưu điểm là hoàn toàn chủ động trong việc quy hoạch bố trí dân cư phù
hợp với quy mô, nguyện vọng của người dân và yêu cầu xây dựng khu kinh tế mới.
Nhưng hình thức này khó khăn là phải đầu tư lớn cho công tác khảo sát điều kiện tự
nhiên, quỹ đất, nước,… và đặc biệt là đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Một khó
khăn nữa là định hướng phát triển kinh tế xã hội hoàn toàn mới, về lựa chọn giống
cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với điều kiện tại đây [4].
- Hình thức di dân tự chọn: Là hình thức mà các hộ phải di chuyển được nhận
toàn bộ tiền đền bù, sau đó họ tự lo kiếm nơi ở mới và các sinh kế cho mình. Hình
thức này ít được khuyến khích với cộng đồng dân tộc vùng sâu, vùng xa do hiệu
quả đạt được thấp.
b. Tái định cư do thủy điện
Di dân TĐC trong các công trình thuỷ điện thường là di dân bắt buộc để giải
phóng mặt bằng, thi công công trình thuỷ điện. Các công trình thuỷ điện đều mang
tính quan trọng quyết định đối với sự phát triển của địa phương, khu vực và quốc
gia. Tuy nhiên, chúng cũng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa mục đích phát triển quốc
gia lâu dài với quyền lợi của các cộng đồng và cá nhân - những người chịu bất lợi
trước tiên. Các dự án này đều có thể tác động bất lợi tới những người đang sử dụng
các nguồn tài nguyên như đất đai, nguồn nước hay các loại tài nguyên thiên nhiên
khác và các phương tiện kinh tế, xã hội, văn hoá và tôn giáo liên quan.
Điều quan trọng là phải cân nhắc lợi ích đạt được với cái giá phải trả cho các
ảnh hưởng này bằng cách xem xét các phương án triển khai hoặc không phải di dân,
11
hoặc chỉ gây gián đoạn nhỏ về kinh tế - xã hội và tìm ra cách để hoà hợp những
quyền lợi và mâu thuẫn nói trên. Trường hợp không tránh khỏi TĐC, phải tiến hành
các biện pháp cụ thể nhằm đạt được các nội dung như sau:
Bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của những người bị di chuyển do dự án; Giảm
và đền bù những thiệt hại về tiềm năng kinh tế của người bị ảnh hưởng, của nền
kinh tế khu vực và địa phương;
Hỗ trợ phát triển tiềm năng kinh tế, xã hội và văn hoá cho các cộng đồng và
người bị ảnh hưởng.
Các công trình thuỷ điện chủ yếu được đầu tư xây dựng ở bên các con sông có
địa hình đồi núi cao. Mục đích xây dựng nhằm lợi dụng địa thế tự nhiên để hình
thành các hồ chứa nhân tạo. Một nhà máy thuỷ điện không chiếm nhiều diện tích
nhưng hồ chứa nước để đảm bảo vận hành nhà máy chiếm diện tích rất lớn, từ vài
km
2
đến hàng trăm km
2
(diện tích hồ thuỷ điện Hoà Bình là 208 km
2
, Sơn La là 224
km
2
). Điều đó cũng có nghĩa là có diện tích đất tương ứng bị mất đi, hơn nữa, đó
chủ yếu là diện tích canh tác đã ổn định lâu đời (do điều kiện đất ở đây gần nguồn
nước, trong thung lũng và được canh tác lâu đời chủ yếu là đất tốt).
Số lượng người dân phải TĐC và bị ảnh hưởng một phần từ các dự án thuỷ
điện thông thường cũng rất lớn. Đại đa số người dân TĐC rất nghèo, trình độ nhận
thức thấp và thiếu ăn hàng năm. Các dự án TĐC này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển
của các huyện cũng như của toàn tỉnh và có khả năng sẽ làm cho chính quyền địa
phương gặp khó khăn hơn trong việc đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra [8].
* Quan điểm chung cho tái định cư do thủy điện:
Quan điểm chung trong việc bố trí TĐC bắt buộc là phải đảm bảo cho người
dân chuyển cư có cuộc sống tốt hơn nơi cũ, đây là quan điểm nhất quán của chính
phủ cho mọi dự án phát triển có liên quan tới TĐC bắt buộc hiện nay [15].
- Tái định cư phải đảm bảo tính cộng đồng
Đồng bào các dân tộc ở miền núi có tính cộng đồng rất cao. Mỗi người, mỗi
gia đình đều gắn bó với dòng tộc, làng bản của mình. Khi di chuyển TĐC cần chú ý
bố trí cả cộng đồng (làng, bản, dòng họ,…) đến sống ở cùng một địa điểm. Hạn chế
việc tách rời các hộ, các nhóm hộ hiện nay.
12
Việc xác định chính xác và số lượng dân bị ảnh hưởng TĐC của dự án là một
trong những yêu cầu quan trọng của dự án TĐC. Các yếu tố ảnh hưởng chính là tỷ
lệ tăng dân số và tính bảo toàn cộng đồng đã được chú ý đến. Tất cả các bản chỉ
ngập một phần đều được tính đến tính bảo toàn cộng đồng.
- Tái định cư cho các hộ nông nghiệp phải dựa trên cơ sở đất sản xuất
Nhân dân phải di chuyển hầu hết là dân nông nghiệp, với hộ sản xuất khi bị
TĐC bắt buộc nếu không có đủ đất sản xuất thì không thể phục hồi được thu nhập,
không đảm bảo được cuộc sống.
Khi lập phương án TĐC phải dựa trên cơ sở tiềm năng đất đai để phù hợp với
đặc điểm của cộng đồng bị ảnh hưởng và là yếu tố cơ bản quyết định tính thực thi
của dự án TĐC, phương châm TĐC cho các hộ nông nghiệp là “đất đổi đất” có
nghĩa là các khu vực TĐC phải khai thác đầy đủ đất sản xuất giao cho các hộ TĐC
đảm bảo về số lượng và chất lượng. Việc khai thác đất sản xuất có thể bằng hình
thức khai hoang, cải tạo hoặc trưng dụng lại đất của nông dân sở tại.
- Quy hoạch tái định cư phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương
Để có tính khả thi cao, phương án TĐC phải được lồng ghép phù hợp với định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Việc bố trí dân cư TĐC phải phục
vụ cho việc hình thành các vùng kinh tế trong điểm và kế hoạch sắp xếp, ổn định
dân cư trên địa bàn, kế hoạch TĐC cũng cần phải phù hợp với kế hoạch phát triển
cơ sở hạ tầng của địa phương nhằm khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có cho phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và TĐC nói riêng.
- Cộng đồng sở tại được hưởng lợi từ kế hoạch tái định cư
Người dân sở tại phải san sẻ bớt nguồn tài nguyên đất đai, nguồn nước,… cho
người dân TĐC. Người dân TĐC được thừa hưởng một phần cơ sở hạ tầng và dịch
vụ hiện có. Để tránh sự xung đột có thể xảy ra giữa dân cũ và dân mới, kế hoạch
TĐC nhất thiết phải chú ý xuất phát từ quan điểm “cộng đồng sở tại cùng hưởng lợi”.
Nói một cách cụ thể mọi phương án bố trí TĐC đến lợi ích của người dân sở
tại. Các công trình đầu tư phát triển thủy lợi, xây dựng hệ thống điện, cấp nước sinh
13
hoạt, xây dựng trường học,… luôn luôn phải tính đến nhu cầu của người dân sở tại
để tính toán, quy hoạch.
Tóm lại, các quan điểm nói trên cho thấy việc tổ chức TĐC cho các hộ buộc
phải di chuyển theo kế hoạch của nhà nước cần phải đảm bảo cho họ có điều kiện
sinh hoạt, sản xuất để nhanh chóng phục hồi và tiến tới nâng cao thu nhập, đảm bảo
cho người dân TĐC sống trong một môi trường xã hội hòa hợp với môi trường xã
hội xung quanh. Muốn đạt được mục tiêu trên, công tác TĐC cần phải có chính
sách, chủ trương cụ thể đối với người dân buộc phải di chuyển hợp lý.
1.1.4 Khái niệm về sinh kế
Theo khái niệm của DFID đưa ra thì: “Sinh kế là sự tập hợp các nguồn lực và
khả năng của con người có được kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ
thực thi nhằm để kiếm sống cũng như để kiếm sống cũng như để đạt được các mục
tiêu và ước nguyện của họ” [9].
Khái niệm về sinh kế của hộ hay một cộng đồng là một tập hợp các nguồn lực
và khả năng của con người kết hợp với những quyết định và những hoạt động mà họ
sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn. Hay
nói cách khác, sinh kế của một hộ gia đình hay một cộng đồng còn được gọi là kế
sinh nhai của hộ gia đình hay cộng đồng đó [14].
Để duy trì sinh kế, mỗi hộ gia đình thường có các kế sách sinh nhai khác nhau.
Chiến lược sinh kế của hộ phải dựa vào năm loại nguồn lực (tài sản) cơ bản sau:
- Nguồn nhân lực: bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức khoẻ
con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những chiến lược tìm
kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai của họ. Ở mức độ gia
đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất lượng nhân lực có sẵn.
- Nguồn lực xã hội: là những nguồn lực định tính dựa trên những gì mà con
người đặt ra để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm uy tín của
hộ, các mối quan hệ xã hội của hộ.
14
- Nguồn lực tự nhiên: là cơ sở các tài nguyên thiên nhiên của hộ hay của cộng
đồng, được trông cậy vào để sử dụng cho mục đích sinh kế như đất đai, nguồn
nước, cây trồng, vật nuôi, mùa màng
- Nguồn lực vật chất: bao gồm tài sản hộ gia đình hỗ trợ cho sinh kế như nhà
ở, các phương tiện sản xuất, đi lại, thông tin
- Nguồn lực tài chính: là những gì liên quan đến tài chính mà con người có
được như: nguồn thu nhập tiền mặt, tiền tiết kiệm, tín dụng và các nguồn khác như
lương bổng, nguồn hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài cho hộ gia đình và cho cộng đồng.
Chiến lược sinh kế cộng đồng cũng dựa trên năm loại nguồn lực trên nhưng
mang ý nghĩa rộng hơn cho cả cộng đồng, đó là số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực của cộng đồng; thể chế chính trị, phong tục, tập quán, uy tín của cả cộng đồng;
điều kiện tự nhiên của địa bàn cộng đồng sinh sống; các cơ sở hạ tầng xã hội hỗ trợ
cho sinh kế như giao thông, hệ thống cấp nước, hệ thống ngăn, tiêu nước, cung cấp
năng lượng, thông tin
1.1.5 Tiêu chuẩn xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ trung bình
Hộ nghèo và hộ cận nghèo được xác định căn cứ theo Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Ban hành
chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng giai đoạn 2011 – 2015” như sau [13]:
- Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập trung bình từ 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng.
- Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập trung bình từ 501.000 đồng
đến 6500.000 đồng/người/tháng [13].
1.2 Tình hình nghiên cứu về TĐC thủy điện trong nước
Cho đến nay các công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề TĐC thủy điện đã
được công bố rất nhiều ở nước ta, trong đó có một số công trình nghiên cứu tiêu
15
biểu đã thể hiện được những tác động của di dân TĐC do xây dựng công trình thủy
điện tác động đến các mặt đời sống xã hội của cộng đồng dân cư như:
Theo Bùi Ngọc Thông (2002) trong Báo cáo về “Phương án di dân TĐC thủy
điện Sơn La” đã cho rằng: Công tác TĐC là một bộ phận của dự án xây dựng và
phải được nghiên cứu ngay từ giai đoạn tiền khả thi. Vấn đề TĐC cũng phức tạp
không kém các vấn đề kỹ thuật xây dựng công trình và thường có tỷ lệ thất bại cao
hơn. Nguyên nhân thất bại là chưa chuẩn bị kỹ lưỡng địa bàn tiếp nhận dân, làm ồ ạt
theo tiến độ xây dựng. Các công trình cho sản xuất, đời sống không được xây dựng,
hoặc không phù hợp với phong tục tập quán từng vùng, từng dân tộc. TĐC cho
người dân vùng lòng hồ thủy điện Sơn La là một vấn đề kinh tế - xã hội có ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong vùng bị ngập,
làm đảo lộn cuộc sống của người dân trên quy mô rộng lớn ở vùng bị ngập và ngoài
vùng bị ngập (nơi dân chuyển đến). TĐC không chỉ đơn thuần là tạo ra những điểm
dân cư mới, chỗ ở mới mà phải xem xét toàn diện và phải thực hiện đồng bộ các
mặt đời sống vật chất và tinh thần gắn chặt với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
chiến lược phát triển nguồn lực, kế hoạch sử dụng đất đai, chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, phân bố lại mặt bằng dân cư trên địa bàn. TĐC còn phải đảm bảo được ổn
định chính trị và giải quyết tốt chính sách xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao thu
nhập, tạo ra tích lũy để tái sản xuất mở rộng, hướng tới phát triển bền vững. TĐC
còn phải gắn với bảo tồn di tích văn hóa, di tích lịch sử, di tích cách mạng, danh lam
thắng cảnh, bảo tồn và phát triển thuần phong mỹ tục, phong tục tập quán, bảo vệ
những giá trị văn hóa phi vật thể [12].
Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Thị Vòng, Trang Hiếu Dũng, Nguyễn Tất Cảnh
(2011) với nghiên cứu “Công tác TĐC dự án thủy điện Sơn La dưới góc độ phong
tục và tập quán canh tác của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc”. Đề tài đã chỉ ra sự
thay đổi về phong tục và tập quán canh tác của đồng bào dân tộc bị ảnh hưởng bởi
các chương trình TĐC. Người dân khi đến định cư tại điểm TĐC mới trên địa bàn
huyện Tủa Chùa và thị xã Mường Lay phải làm quen với phương thức canh tác mới
không phù hợp với tập quán canh tác tại nơi ở cũ. Tại điểm TĐC huyện Tủa Chùa
16
hình thức canh tác chủ yếu là nương rẫy cố định với rất ít diện tích đất sản xuất,
bình quân mỗi hộ, song dân TĐC ở đây lại có tập quán là canh tác nương rẫy luân
canh quay vòng. Tại khu TĐC thị xã Mường Lay hình thức canh tác nương rẫy cố
định là chính, không có đất chuyên lúa, song dân TĐC tại đây lại có tập quán canh
tác lúa nước, có sự thâm canh cao. Cấu trúc bản làng đã bị thay đổi giữa khu vực
TĐC với khu vực dân cư phải di chuyển, cụ thể trong khu TĐC Huổi Lóng, Huổi
Lực huyện Tủa Chùa và khu TĐC thị xã Mường Lay các hộ dân tập trung hơn.
Hình thức di dân tại chỗ tại điểm TĐC Huổi Lóng huyện Tủa Chùa được xem là
phù hợp với tập quán canh tác của người dân nơi đây vì đa phần nương rẫy cố định
và đất phục vụ cho canh tác du canh vẫn còn nguyên vẹn, tuy nhiên cuộc sống nhìn
chung vẫn còn rất khó khăn [10].
Đề tài “TĐC và sự biến đổi dời sống người Mã Liềng” (Nghiên cứu trường
hợp bản TĐC Cà Xen, xã Thanh Hóa, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Bình) (năm
2011) của Phạm Thị Hường. Đề tài đã làm rõ được một số vấn đề thay đổi trong đời
sống của người Mã Liềng, TĐC đã tạo ra những tác động trên tất cả các lĩnh vực từ
những cái có thể đo lường, định lượng được như sở hữu đất đai, SXNN, trao đổi
buôn bán, khai thác tài nguyên đến những cái không thể định lượng được như đời
sống cộng đồng, quan hệ tộc người, phong tục tập quán, tín ngưỡng và cả hệ thống
cơ sở hạ tầng. Thay đổi được phương thức canh tác từ chỗ canh tác nương rẫy sang
làm lúa nước và vườn hộ, từ chỗ chăn nuôi hoang dã sang chăn nuôi chuồng trại. Từ
chỗ phó mặc và bất lực trước bệnh tật của gia súc, gia cầm bà con đã có những hoạt
động chăm sóc theo kỹ thuật. Tuy nhiên, bên cạnh những biến đổi mang tính tích
cực vẫn còn tồn tại những yếu tố mang tính tiêu cực, đặc biệt là những biến đổi
trong đời sống văn hóa – xã hội, trong đó nổi bật lên là những quan hệ cộng đồng,
quan hệ họ hàng, quan hệ tộc người nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng lâu dài đến cuộc
sống của người dân trong tương lai, đó là “sự lỏng hóa” khối cộng đồng cũ bởi
những mâu thuẫn giữa cư dân mới và cư dân cũ. Bên cạnh đó dù mang tính chất tạm
thời nhưng trong quá trình TĐC người dân đang phải đối mặt với những vấn đề liên