Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP mô HÌNH VAC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
LỚP: QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
KHÓA: 2010
TIỂU LUẬN NHÓM
MÔN HỌC: KỸ THUẬT SINH THÁI ĐÔ THỊ
ĐỀ TÀI:
HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP- MÔ HÌNH VAC
GV : TS Đặng Viết Hùng
HVTH : Phan Đình An
Lê Thị Diệu Hiền
Nguyễn Thị Họp
Lê Thị Trúc Lâm
Nguyễn Trung Thông
Trần Đức Thuận
TPHCM, tháng 3 năm 2011
I HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP
1 ĐỊNH NGHĨA
Nông nghiệp sinh thái là hệ thống quản lý sản xuất toàn diện mà được hỗ trợ,
tăng cường gìn giữ bền vững hệ sinh thái, bao gồm các vòng tuần hoàn và chu kỳ
sinh học trong đất. Nông nghiệp sinh thái dựa trên cơ sở sử dụng tối thiểu các đầu
tư từ bên ngoài nhằm làm giảm ô nhiễm từ không khí, đất và nước, chống sử dụng
các chất tổng hợp như phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu hóa học.
Nông nghiệp hữu cơ (còn gọi là nông nghiệp sinh thái) là hệ thống đồng bộ
hướng tới thực hiện các quá trình với kết quả bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực
phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, nhân đạo với động vật và công bằng xã hội
Mô hình hệ sinh thái nông nghiệp (Đào Thế Tuần, 1984)
2 PHÂN LOẠI
Hình thức phân loại dựa vào:
+ Điều kiện khí hậu
+ Vị trí địa lý


+ Địa hình
3 CẤU TRÚC
Thành phần HSTNN
Các cá thể (cây trồng, vật nuôi, côn trùng…)
Quần thể (Quần thể cây trồng, quần thể cỏ dại, quần thể vi sinh vật, quần thể
động vật đất…)
Hệ sinh thái (Hộ gia đình, tổ chức xã hội liên quan đến quản lý cây trồng và vật
nuôi trong nông nghiệp…)
Các nhân tố (Dinh dưỡng, ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ, gió mùa, tập quán, tín
ngưỡng, tri thức, thể chế, chính sách, thị trường nông lâm sản và gia súc, khả năng
tiếp cận thông tin…)
Các kiểu sinh vật và môi trường trong HSTNN
+ Sinh vật sản xuất
+ Sinh vật tiêu thụ
+ Sinh vật phân hủy
+ Môi trường: đất, nước, không khí
Thành phần, chức năng và các chiến lược tăng cường đa dạng sinh học trong các
hệ sinh thái nông nghiệp
Sơ đồ hệ thống thứ bậc của hệ thống nông nghiệp (nguồn: Fresco, 1986)
4 NGUYÊN LÝ – NGUYÊN TẮC
4.1 Nguyên lý
a. Các yếu tố (như công trình kiến trúc, nhà ở, ao, vườn, đường đi, v.v…) cần
được đặt trong mối quan hệ hỗ trợ nhau tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Đối với
mỗi yếu tố có thể xây dựng chiến lược sử dụng qua phân tích các mặt sau:
Sản phẩm của yếu tố (hay hệ phụ) này có thể được sử dụng cho nhu cầu của
các yếu tố (hay hệ khác) mà không tác động xấu;
Các yếu tố khác có thể cung cấp cho nhu cầu của yếu tố này;
Các yếu tố được sắp đặt cho hệ thống vận hành có hiệu quả nhất và tốt nhất;
b. Mỗi yếu tố đảm nhiệm nhiều chức năng.
Ví dụ: Hồ ao có thể dùng nuôi cá, nuôi vịt, trữ nước, cứu hỏa… Bờ mương

là nơi trồng cây chắn gió, trồng cây ăn quả, là đường đi và nơi chăn thả gia súc…;
c. Các yếu tố trong HSTNN hợp tác chứ không cạnh tranh.
d. Mọi thứ đều sinh lợi (chất thải thành phân bón, nước thải dùng nuôi cá…).
e. Đa dạng hóa trong sản xuất (đa dạng về chủng loại, về chế độ canh tác, về thu
nhập…). Áp dụng hệ thống canh tác đa canh sẽ tạo ra thế ổn định và giúp ta dễ
dạng chuyển hướng trước những biến động về môi trường và xã hội.
f. Tận dụng các đặc tính tự nhiên vốn có của cây trồng, vật nuôi và mối quan hệ
của chúng với đặc điểm cảnh quan thiên nhiên để tạo ra nền NN phát triển bề
vững.
g. Sử dụng được cả các chủng loại đã được thuần hóa và các chủng loại hoang
dã. Bảo đảm các nguồn tài nguyên được sử dụng tiết kiệm, bảo toàn, tái tạo, tự
điều chỉnh và tái sinh (với tài nguyên có khả năng tái sinh).
h. Giúp mọi người tin ở mình, mọi người ai cũng đều có khả năng tự tìm ra các
giải pháp thích hợp để cải thiện chất lượng cuộc sống.
4.2 Nguyên tắc
Thực chất của NN sinh thái là hệ luân canh phỏng theo HST của rừng tự nhiên
với những nguyên tắc sau:
a. Tính đa dạng:
Trong rừng tự nhiên hầu như không có vấn đề dịch bệnh nghiêm trọng. Nguyên
nhân là do ở đó có tính đa dạng cao về loài cây, động vật và vi sinh vật. Còn hệ
canh tác NN có tính đa dạng rất thấp. Tính đa dạng đảm bảo được cân bằng sinh
thái (sự ổn định), còn độc canh là hệ canh tác đơn điệu, không ổn định và rất mẫn
cảm với những đổi thay của điều kiện môi trường. Tăng sự đa dạng của HSTNN
còn làm tăng thu nhập của nông trại, giảm nhẹ nguy cơ mất mát năng suất và các
rủi ro khác. Những phương pháp canh tác bảo đảm tính đa dạng của NN bao gồm:
(1) trồng nhiều loài hay nhiều giống của cùng một loài trên cùng một đơn vị diện
tích; (2) luân canh; (3) trồng cây lưu niên ở khu vực giáp ranh; (4) đa dạng trong
các hệ phụ (nhiều ngành nghề kinh doanh NN khác nhau: chăn nuôi, thuỷ sản, nuôi
ong, nghề phụ ), và (5) lai tạo giống.
b. Đất là một vật thể sống

Đất không phải chỉ đơn giản có vai trò vật lí (làm giá đỡ, giữ nước và chất dinh
dưỡng), mà đất còn là một vật thể sống, ở đó có hằng hà sa số các vi sinh vật đất.
Hoạt động của các vi sinh vật này quyết định độ phì nhiêu và “sức khoẻ” của đất.
Là một vật thể sống nên đất rất cần được nuôi dưỡng, chăm sóc. Những điều kiện
sau đây bảo đảm cho đất sống: (1) cung cấp thường xuyên chất hữu cơ cho đất, (2)
phủ đất thường xuyên để chống xói mòn, (3) khử hay giảm thiểu tối đa các yếu tố
gây hại trong đất (hoá chất NN).
c. Tái chu chuyển
Trong rừng tự nhiên có một vòng chu chuyển dinh dưỡng dựa vào đất. Mọi cái
bắt đầu từ đất và cuối cùng lại trở về với đất. Do vòng chu chuyển này mà mọi cái
đều có vị trí trong tự nhiên, mọi cái đều cần cho nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Vòng chu
chuyển này là vấn đề mấu chốt trong sử dụng hợp lí tài nguyên. Còn trong NN,
vòng chu chuyển này luôn bị rối loạn và từ đó làm nảy sinh nhiều vấn đề. Trong
đất NN, hầu như mọi sản phẩm của cây trồng đều bị lấy đi khỏi đất khi thu hoạch.
Chỉ có một số ít chất khoáng được bổ sung dưới dạng bón phân hoá học; do đó độ
phì của đất dễ bị cạn kiệt.
Trong trường hợp chăn nuôi “thương mại”, người ta cố càng nhốt nhiều vật
nuôi trong một diện tích giới hạn càng tốt; con giống, thức ăn, các loại hoá chất
kích thích và tăng trọng cũng như các vật tư cần thiết cho dịch vụ thú y đều từ bên
ngoài. Thu nhập có thể tăng, nhưng tạo ra hiện tượng quá thừa chất hữu cơ cục bộ
do các loại chất thải, và điều đó là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.Và như
vậy là xét trong toàn cục thì đó là lối sản xuất không bền vững.
Xu hướng chuyên môn hoá trong sản xuất cũng làm người ta thiếu tỉnh táo khi
xem xét mối quan hệ giữa ngành chuyên môn hoá ấy với các thứ khác, với điều
kiện môi trường và tài nguyên xung quanh.Vấn đề quan trọng là phải tìm cách tái
lập được vòng chu chuyển: tạo ra mối quan hệ đúng đắn giữa các thành phần của
hệ (cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản, cây rừng ) để có lợi cho từng thành phần nhưng
đồng thời có lợi cho toàn bộ. Tái chu chuyển là điểm mấu chốt trong việc sử dụng
tài nguyên ngoài đồng, trong vườn, và giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn lực bên
ngoài.

d. Cấu trúc nhiều tầng
Nguồn lực thực sự tạo ra sinh khối là năng lượng ánh sáng mặt trời, nước mưa
và khí CO2. Sản lượng sinh khối trong rừng tự nhiên luôn luôn cao hơn sản lượng
trên đất NN. Nguyên nhân là thảm thực vật nhiều tầng ở rừng có thể sử dụng tối đa
các nguồn lợi; còn cấu trúc của hệ canh tác thường là nằm ngang nên không thể sử
dụng với hiệu suất cao các tài nguyên này.Nếu ánh sáng mặt trời và nước mưa
được đất NN sử dụng thích đáng thì chúng có thể mang lại nhiều lợi ích cho đất.
Nếu không, chính chúng lại là nguyên nhân gây hạn hán, lụt lội, xói mòn đất. Khí
hậu nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều càng cần xây dựng ở đây nền NN có cấu trúc
nhiều tầng.
Chu trình dinh dưỡng trong hệ sinh thái nông nghiệp (nguồn: Tivy, 1987)
5 SỰ TRAO ĐỔI NĂNG LƯỢNG VÀ VẬT CHẤT
Trong nội bộ hệ sinh thái nông nghiệp cũng có sự trao đổi năng lượng và vật
chất như sau:
Ruộng cây trồng trao đổi năng lượng với khí quyển bằng cách nhận năng
lượng bức xạ mặt trời, thông qua quá trình quang hợp của lá xanh, tổng hợp nên
chất hữu cơ. Đồng thời cây trồng có sự trao đổi khí CO
2
với khí quyển, nước với
khí quyển và đất, đạm và các chất khoáng với đất. Trong các sản phẩm của cây
trồng như lúa, màu, thức ăn gia súc có tích luỹ năng lượng, prôtein và các chất
khoáng. Tất cả các sản phẩm đó là năng suất sơ cấp của hệ sinh thái.
Năng lượng và vật chất trong lương thực - thực phẩm được cung cấp cho khối
dân cư. Ngược lại, con người trong quá trình lao động cung cấp năng lượng cho
ruộng cây trồng, ngoài ra các chất bài tiết của người (phân, nước tiểu) được trả lại
cho đồng ruộng dưới dạng phân hữu cơ. Một phần lương thực và thức ăn gia súc từ
đồng ruộng cung cấp cho trại chăn nuôi và vật nuôi gia đình. Vật nuôi chế biến
năng lượng và vật chất của cây trồng thành các sản phẩm chăn nuôi, đó chính là
năng suất thứ cấp của hệ sinh thái. Các chất bài tiết của vật nuôi được trả lại cho
đồng ruộng qua phân bón. Các vật nuôi lớn (trâu, bò ) cũng cung cấp một phần

năng lượng cho đồng ruộng qua cày kéo.
Giữa người và gia súc cũng có sự trao đổi năng lượng và vật chất qua sự cung
cấp sản phẩm chăn nuôi làm thức ăn cho người và việc sử dụng lao động vào chăn
nuôi.
6 MÔ HÌNH ĐIỂN HÌNH HNNST ĐẤT DỐC
Kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên đất dốc (SALT) là hệ sinh thái canh tác
nhằm sử dụng đất dốc được bền vững đã được Trung tâm đời sống nông thôn
Minđanao (Philipin) tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ năm 1970, đã có một số
mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc bền vững được ghi
nhận và ứng dụng tại Việt Nam:
+ Mô hình SALT 1: Mô hình này bố trí trồng những băng cây ngắn ngày xen
kẽ với những băng cây dài ngày sao cho phù hợp với đặc tính và yêu cầu đất đai
của các loài cây đó và đảm bảo thu hoạch đều đặn. Các băng này được trồng theo
đường đồng mức, giữa những băng cây trồng chính rộng từ 4-6m còn có những
băng hẹp trồng cây cố định đạm để giữ đất chống xói mòn, làm phân xanh hoặc lấy
gỗ. Cây cố định đạm được trồng dày theo hàng đôi, khi cây cao 1m thì cắt bớt
cành, lá xếp vào gốc. Cơ cấu cây trồng trong mô hình thường là 75% cây nông
nghiệp, 25% cây lâm nghiệp (trong cây nông nghiệp thì 50% là cây hàng năm,
25% là cây lâu năm). Đây là mô hình canh tác đất dốc đơn giản, người nông dân có
thể thu nhập cao hơn gấp 1,5 lần so với cách trồng sắn thông thường. Kỹ thuật này
làm giảm xói mòn 50% so với hệ thống canh tác vùng cao theo tập quán.
Phần cứng gồm lâm phần trên đỉnh với những cây rừng, cây ăn quả hoặc các
cây trồng dài ngày khác và những băng kép cây bộ đậu đa mục đích (cây keo đậu,
cây đậu công, cây cốt khí, ) trồng theo đường đồng mức để làm phân xanh, thức
ăn gia súc, chống xói mòn, giữ ẩm, tạo điều kiện sinh thái hài hoà và giảm sâu hại
+ Mô hình SALT 2- Mô hình kỹ thuật nông súc kết hợp đơn giản: ở mô hình
này người ta bố trí trồng trọt kết hợp với chăn nuôi bằng cách dành một phần đất
trong mô hình để canh tác nông nghiệp cho chăn nuôi. Việc sử dụng đất dốc được
thực hiện theo phương thức nông-lâm-súc kết hợp. Ở Philipin người ta thường nuôi
dê để lấy thịt, sữa. Một phần diện tích khác được dành để trồng cỏ và cây làm thức

ăn cho dê.
+ Mô hình SALT 3 - Mô hình kỹ thuật canh tác nông- lâm kết hợp bền
vững: Mô hình kỹ thuật canh tác này kết hợp một cách tổng hợp việc trồng rừng
qui mô nhỏ với việc sản xuất lương thực, thực phẩm. Cơ cấu sử dụng đất thích hợp
là 40% danh cho nông nghiệp và 60% cho lâm nghiệp. Bằng cách đó đất đai được
bảo vệ có hiệu quả đồng thời cung cấp được nhiều lương thực, thực phẩm, gỗ củi
và các sản phẩm khác, tăng thu nhập cho nông dân. Thực chất mô hình này cũng là
sự điều hoà phối hợp và mở rộng qui hoạch hợp lý các mô hình trên nhưng có sợ
chú trọng đặc biệt tới phát triển rừng. Mô hình này có thể mở rộng cho một hộ có
quĩ đất đai tương đối rộng (khoảng 5-10ha) trên nhiều dạng địa hình, hay qui mô
lớn hơn cho một nhóm hộ.
+ Mô hình SALT 4 - Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp - cây ăn quả
qui mô nhỏ. Trong mô hình này các loài cây ăn quả nhiệt đới được đặc biệt chú ý
do sản phẩm của nó có thể bán để thu tiền mặt và cũng là những cây lâu năm nên
dễ dàng duy trì được sự ổn định và lâu bền hơn về môi trường sinh thái so với cây
hàng năm. Đối với cây ăn quả yêu cầu đất đai phải tốt hơn, có đầu tư thâm canh
cao hơn (về biện pháp làm đất, bón phân, chọn giống). Do đó, giúp nông dân hiểu
biết hơn về khoa học và kỹ thuật. Mô hình này có ý nghĩa lớn, ngoài lương thực,
thực phẩm thu được còn có sản phẩm của cây cố định đạm chống xói mòn, cải tạo
đất, đặc biệt là có thêm sản phẩm hàng hoá, hoa quả bán thu tiền mặt, mua sắm
thêm các vật dụng cần thiết khác.
Hiện nay đã phát triển một số mô hình cải biên từ các loại mô hình SALT
như:
- Rừng + Nương + Vườn + Ruộng + Mặt nước
- Rừng + Nương + Vườn + Ruộng
- Rừng + Nương + Vườn
Trong đó mô hình thứ nhất hoàn thiện hơn cả vì có rừng bố trí ở đỉnh dốc
hoặc sườn núi dốc rất mạnh. Nương ở sườn dốc vừa, dốc mạnh, vườn có thể đặt tại
chân dốc hoặc nơi dốc nhẹ, ruộng làm tại nơi thấp bằng và mặt nước ao hồ ở nơi
thấp trũng nhất. Mô hình 2 cũng như mô hình 1 nhưng thiếu mặt nước nên không

hoàn thiện bằng. Tuy nhiên tính phổ biến lại cao hơn và nhiều nơi có thể sử dụng.
Mô hình 3 không có ao hồ và đồng ruộng nhưng lại là mô hình cơ bản nhất do có
tính phổ biển cao. Vì vậy đây cũng là mô hình mà hộ nào cũng có thể áp dụng
được.
II HỆ SINH THÁI VAC
1 ĐỊNH NGHĨA
VAC là các chữ đầu viết tắt của hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng. ở miền núi và
trung du, đôi khi người ta còn gắn thêm chữ R là Rừng vào tổ hợp từ viết tắt này,
thành hệ sinh thái RVAC. Vườn chỉ các hoạt động trồng trọt; Ao chỉ các hoạt động
nuôi trồng thuỷ sản; Chuồng chỉ các hoạt động chăn nuôi trên cạn. Đây là các hoạt
động kết hợp với nhau trong một hệ sinh thái khép kín, trong đó có cả con người.
Các sản phẩm của V (rau, đậu, củ, quả), của A (cá, tôm, cua), của C (thịt, trứng,
sữa) được sử dụng để nuôi người hoặc để bán; và các chất thải của hệ phụ nọ sẽ
được sử dụng như nguồn dinh dưỡng của hệ phụ kia.
Thực ra thì hệ sinh thái VAC vốn là truyền thồng canh tác lâu đời của người
nông dân Việt nam. Nhân dân ta đã khai thác vườn, ao theo chiều sâu, tận dụng tối
đa tài nguyên đất, ánh sáng, nhiều tầng, nhiều loài, mô phỏng theo kiểu của hệ sinh
thái rừng nhiệt đới. Hệ sinh thái VAC là một mô hình hiệu quả thể hiện chiến lược
tái sinh: tái sinh nguồn năng lượng mặt trời qua quang hợp của cây trồng, tái sinh
các chất thải (vật thải của công đoạn sản xuất này là nguyên liệu cho quy trình sản
xuất khác). Chiến lược tái sinh này còn làm thanh sạch môi trường.
Mô hình VAC
2 PHÂN LOẠI VAC THEO VÙNG
2.1 VAC vùng đồng bằng Bắc bộ.
a) Đặc điểm
Đất hẹp ( tận dụng diện tích, bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng vật nuôi).
Mức nước ngầm thường thấp (đề phòng úng, nhất là về mùa mưa đối với những
cây không chịu được úng).
Khí hậu: Nắng, gió tây về mùa hè và các đợt gió về mùa đông bắc lạnh, ẩm và
hanh khô về mùa đông.

b) Mô hình VAC :
Nhà ở: đặt về phía bắc khu đất và quay về hướng nam vừa mát vừa bảo đảm cây
trồng trong vườn được hưởng ánh sáng đông, tây suốt ngày.
Các công trình phụ nên thiết kế sao cho ánh sáng chiếu được vào chuồng gia
súc (đảm bảo vệ sinh, hạn chế dịch bệnh). Nhà ở và công trình phụ không phủ
bóng râm lên cây trồng trong vườn.Trước nhà có giàn cây (đậu ván, thiên lý) vừa
mát, vừa có thêm thu hoạch. Mép sân có vườn hoa, trên để các chậu hoa cây cảnh.
Vườn: ở trước nhà, trong vườn bố trí cơ cấu cây trồng thích hợp để tận dụng đất
đai, năng lượng mặt trời và đáp ứng yêu cầu tiêu thụ. Thường có một hay hai loại
cây chính trồng xen với nhiều loại cây khác có những yêu cầu về điều kiện sinh
thái khác nhau: Tầng trên là cây ưa ánh sáng, tầng dưới là cây chịu bóng (riềng,
gừng, mùi tàu ), dưới là rau ngót; có nơi trồng táo xen chanh, hoặc khi đốn táo
trồng rau đậu; khi cây lưu niên chưa khép tán thì trồng rau đậu, khi cây khép tán
trồng cây chịu bóng râm; chuối, đu đủ trồng rải rác quanh vườn, quanh nhà ở nơi ít
gió và độ ẩm, đủ ánh sáng. Góc vườn cạnh bể chứa nước, trồng một vài luống rau
cải, xà lách, đậu cô ve một số rau gia vị như tía tô, rau thơm, ớt ) và một số cây
thuốc thông thường. Nếu có khu vườn nhân giống nên đặt gần ao để tiện nước tưới.
Ao: nên sâu 1,5 – 2 m bờ cao đắp kỹ chống rò rỉ ( nếu có điều kiện có thể vỉa
gạch). Nên thiết kệ hệ thống dẫn nước và tiêu nước. Xung quanh bờ ao trồng
chanh, dưới thấp trồng khoai nước; không gian được tận dụng bằng các giàn bầu,
bí, mướp; không để ao bị cớm. Tùy diện tích ao và điều kiện thức ăn mà xác định
cơ cấu các loại cá nuôi thích hợp. Một phần mặt ao thả bèo hoặc rau muống để
nước ao đỡ bị nóng trong mùa hè và lạnh về mùa đông; vừa có rau muống để ăn
vừa có bèo và bóng mát cho cá.
Chuồng: nuôi gia súc, gia cầm: nên đặt cạnh bếp hay nhà kho vào cạnh
ao.Chuồng lợn gia đình nếu nuôi ít lợn nên làm hai bậc; bậc cao cho lợn ăn và
nằm, bậc thấp để chứa phân. Chuồng gà có thể đặt ở phía trên chuồng lợn có ô
riêng để nuôi gà thịt và có ô riêng để nuôi gà đẻ. Cạnh chuồng phải có nền ủ phân
và hố chứa nước giải, nước phân. Nếu ủ phân và hố nước phân phải che mưa nắng.
2.2 VAC vùng trung du, miền núi:

a) Đặc điểm.
Diện tích đất rộng có điều kiện mở rộng vườn nhưng đất dốc, thường bị thoái
hóa ( tuy có nơi đất còn tốt, tầng đất dày); cần chú ý bảo vệ đất.Ít bão nhưng rét
hơn đồng bằng, có nơi có sương muối.
Nước tưới thường gặp khó khăn, nhưng có khi về mùa mưa lại có lũ lớn.
b) Mô hình VAC:
Nhà ở: Xây dựng ở nơi đất tương đối bằng phẳng, tiện đi lại, gần nguồn nước
và tránh luồng gió mạnh, những nơi có lũ cần chú ý đề phòng lũ ( xây dựng ở nơi
cao).
Vườn: Thường có 3 dạng: Vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng.
+ Vườn nhà: vườn quanh nhà, thường ở chân đồi, đất bằng và tương đối bảo
đảm được độ ẩm. Vườn nhà thường trồng những cây ăn quả cần được chăm sóc
thường xuyên và được bảo vệ chu đáo như cam, quýt, mít, chuối, đu đủ. Ngoài cây
ăn quả còn có vườn rau ở cạnh ao để tiện tưới nước. Vườn rau có rào bao quanh
phòng gia súc, gia cầm phá hoại và thường trồng những rau thông thường để tự
túc, mùa nào thức ấy: rau cải, rau ngót, rau đay, rau dền, mồng tơi, xu hào, cà chua,
đậu cô ve góc vườn trồng một số rau gia vị, hành, tỏi, xương xông, mùi tàu, rau
thơm, rau răm, rau mùi; quanh nhà trồng một số cây thuốc thông dụng ( gừng,
nghệ, tía tô, kinh giới, bạc hà, địa liền, sài đất, ngải cứu )
+ Vườn đồi: nằm trên nền đất thoải ít dốc, thường trồng cây ăn quả lưu niên
( mơ, mận, hồng, cam, bưởi ) hay cây công nghiệp dài ngày (chè, cà phê xen
cây ngắn ngày ), cây họ đậu như lạc, đậu tương, cây lấy củ ( khoai lang, sắn, rong
riềng ) hoặc cây dược liệu (gừng, riềng, sa nhân ) vừa phủ đất vừa có thu hoạch;
trong nhiều trường hợp xen vào cây ăn quả và cây công công nghiệp còn trồng rải
rác một số cây gỗ họ đậu (keo, muồng ) hay trẩu, trám có bóng mát.
Để chống xói mòn trong vườn trồng cây theo đường đồng mức có hệ thống
mương nhỏ và bờ cản nước xen kẽ chạy theo đường đồng mức (tùy theo độ dốc
nhiều ít mà khoảng cách giữa các mương hẹp rộng khác nhau, từ 10 – 20m.)
Có thể san đất thành bậc thang ngoài rìa các bậc thang trồng dứa để giữ đất, chống
xói mòn, canh tác lâu dài ổn định.

+ Vườn rừng: thường thiết kế trên các loại đất có độ dốc cao ( từ 20 – 30
độ). Vườn rừng là loại vườn có cấu trúc cây trồng phỏng theo cấu trúc cây rừng
nhiệt đới ( nhiều tầng, nhiều lớp và nhiều loại cây xen nhau) nhưng được chăm sóc
tu bổ, như kiểu vườn (thâm canh) cho hiệu quả kinh tế cao hơn.
Trong những vườn rừng này có nơi còn lại một số khoảng rừng thứ sinh ở
trên cao. Người ta giữ lại những khoảng rừng đó, tu bổ chăm sóc và trồng bổ sung
cây lấy gỗ (lát hoa, mỡ ) hoặc cây vừa lấy gỗ, vừa thu quả như trám, trẩu, hoặc
cây đặc sản ( quế).
Thông thường rừng thứ sinh bị khai thác hết và người ta quy hoạch trồng
cây lấy gỗ ( bạch đàn, mỡ, cây bồ đề xen keo ), cây đặc sản. Trong những năm
đầu khi cây lấy gỗ chưa khép tán trồng xen cây lương thực ( như sắn, lúa nương,
đậu tương ) nếu đất còn tốt hoặc trồng cây phân xanh họ đậu.
Với chính sách giao đất khóan rừng diện tích vườn rừng mở rộng ( từ 1 – 2 – hàng
chục ha) và khoảng cách với nhà ở xa dần, ta có những “trại rừng” vườn trại.
Ao: ao cá đào riêng ở trước nhà hay ở chân đồi cạnh suối để lấy nước nuôi cá.
Tùy điều kiện địa hình và nguồn nước, có nơi đắp đập giữ nước để nuôi cá và tăng
độ ẩm cải tạo môi trường (nếu có điều kiện có thể kết hợp chạy thủy điện nhỏ). Có
nơi nuôi cá lồng trong suối hay nuôi cá nước chảy ( đào một nhánh suối và cắm
đăng hay xếp đá hai đầu để nuôi cá).
Chuồng: chuồng gia súc, gia cầm đặt gần nhà phía cuối gió và được che kín
chống rét cho gia súc về mùa đông. Nền chuồng được nện chặt hay lát gạch và xi
măng, độn rơm rác để giữ nước giải và phân. Cạnh chuồng có hố hay nền ủ phân
có mái che.
2.3 VAC vùng ven biển
a Đặc điểm
Đất cát thường bị nhiễm mặn.
Hay bị bão gió mạnh làm di chuyển cát.
Tưới khó, vì nước ngấm nhanh, nhưng cũng có nơi mức nước ngầm cao.
b Mô hình VAC:
Ngoài cùng về phía biển là một hàng phi lao trồng dày để chắn gió.

Vườn: Vườn chia thành ô vuông có bờ cát bao quanh, trên trồng phi lao rất
dày kết hợp với trồng mây làm nhiêm vụ phòng hộ. Có nơi lấy đất ở trong vườn để
đắp bờ bao đồng thời hạ thấp mặt vườn để tăng độ ẩm. Có nơi trồng tre làm hàng
rào bảo vệ quanh vườn. Trong trường hợp này quanh vườn giáp bờ tre đào mương
vừa để chứa nước nuôi cá, giữ độ ẩm vừa để hạn chế rễ tre ăn vào trong vườn hút
hết chất màu.
Trong vườn trồng cây ăn quả ( táo, na, dứa, xoài ) và dâu tằm xen lạc,
vừng, kê, khoai lang, củ đậu, dưa hấu những cây lưu niên đều được tỉa cành giữ
cho tán thấp để hạn chế ảnh hưởng của gió. Đậu, lạc vừa là cây phủ đất, giữ độ ẩm
vừa góp phần cải tạo đất.
Ao: Đào cạnh vườn, nuôi cá, tôm, trên bờ trồng dừa.
Chuồng: chuồng lợn, chuồng bò ở cạnh nhà, chuồng vịt trên bờ ao.
2.4 VAC đồng bằng Nam Bộ
a) Đặc điểm:
Đất thấp mức nước ngầm cao, mùa mưa dễ bị úng.
Tầng đất mặt mỏng và tầng dưới thường bị nhiễm mặn, nhiễm phèn.
Khí hậu có hai mùa rõ rệt; mùa mưa dễ bị ngập úng, mùa khô dễ bị thiếu nước.
b) Mô hình VAC:
Vườn: do mặt đất thấp nên việc lập vườn thực hiện bằng cách đào mương lên
liếp. Mương đào để lấy đất tôn cao mặt vườn vừa là hệ thống tưới tiêu đồng thời có
thể nuôi cá. Kích thước của liếp và mương phụ thuộc vào chiều cao của đỉnh lũ, độ
dày của tầng đất mặt, độ sâu của tầng đất phèn. Loại cây trồng và chế độ canh tác
trong vườn.
Thường những nơi đỉnh lũ cao, tầng đất mặt mỏng và tầng phèn nông thì lên
liếp đơn. Ngược lại những vùng đất có tầng mặt dày, đỉnh lũ vừa phải thì lên liếp
đôi. Bề mặt và chiều sâu của mương phụ thuộc vào chiều cao của liếp và độ sâu
xuất hiện của tầng sinh phèn. Thường thì bề rộng của mương bằng 1/2 bề mặt của
liếp (liếp đơn thường rộng khoảng 5m , liếp đôi rộng khoảng 10).
Trong trường hợp tầng đất mặt mỏng, lớp đất dưới không tốt thậm chí có
chút ít phèn, thì lớp đất mặt khi đào mương được đắp thành băng hay mô trên liếp,

sau đó lớp đất dưới được đắp vào phần còn lại của mặt liếp (thấp hơn mặt băng hay
mô đất mặt); lớp đất này được trồng những cây chịu chua phèn ( dứa, so đũa sau
một thời gian khi đã rửa chua sẽ trồng các loại cây như cam, quýt, nhãn, sầu riêng,
măng cụt )
Quanh vườn có đê bao quanh để bảo vệ vườn trong mùa lũ, ngăn mặn và giữ
nước ngọt trong mùa nắng. Đê bao cũng dùng làm đường giao thông vận chuyển
và trồng cây chắn gió.
Đê bao cần đắp rộng và vững chắc, chiều cao căn cứ vào đỉnh lũ cao nhất
trong vùng. Đê bao có cống chính để lấy nước vào mương.
Cơ cấu cây trồng trong vườn tùy thuộc vào điều kiện đất đai, nguồn nước, chất
lượng nước và yêu cầu thị trường. Nhiều nơi trồng dừa, dưới dừa là cây ăn trái
(cam, quýt, bưởi ) trồng xen khoai, rau, đậu khi cây chưa khép tán, gần đây do
biến động một số nơi đã chặt dừa trồng nhãn và sầu riêng.
Ao: Trong hệ sinh thái VAC này mương giữ vai trò của ao nhưng cũng có
nơi ngoài mương còn đào ao cạnh nhà.
Chuồng: Chuồng lợn, bò ở gần nhà. Có nơi làm chuồng lợn trong vườn,
cạnh mương. nước rửa chuồng sau khi được xử lý chảy vào mương, có nơi đặt
chuồng gà ngang qua mương, phân gà rơi xuống mương làm thức ăn cho cá.
Hệ thống VAC-B (vườn-ao-chuồng-biogas)
3 CƠ CẤU CHỨC NĂNG CỦA HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP (VAC)
Một hệ sinh thái nông nghiệp (VAC) thường gồm có 3 bộ phận chính và có tác
động qua lại tương hỗ với nhau, đó là Làm vườn – Nuôi cá – Chăn nuôi. Chức
năng của mỗi bộ phận được thể hiện qua các dòng vật chất và năng lượng trong hệ
sinh thái, cụ thể như sau:
Sản phẩm của vườn không những cung cấp cho hộ nông dân mà cung cấp thức
ăn cho hoạt động chăn nuôi và nuôi cá.
Ao cá cung cấp nước tưới và bùn bón cho cây, một phần khác còn làm thức ăn
bổ sung cho gia súc
Hoạt động chăn nuôi sẽ cung cấp phân bón trồng trọt và nuôi cá, đồng thời bổ
sung chất dinh dưỡng cho việc cải tạo đất trồng.

Kỹ thuật làm VAC dựa trên chiến lược tái sinh: tái sinh năng lượng mặt
trời thông qua quang hợp của cây trồng và tái sinh chất thải, làm sạch môi
trường. Năng lượng mặt trời thông qua quang hợp được tái tạo dưới dạng năng
lượng chứa trong sản phẩm thực vật dùng làm thức ăn cho người và gia súc, củi
đun và nguyên liệu cho tiểu thủ công nghiệp. Các chất thải được đưa vào
những chu trình sản xuất mới và cũng được biến thành những sản phẩm hữu
ích.
Kỹ thuật VAC là điển hình của hệ thống nông nghiệp hữu cơ (organic
farming) ở đó, người ta sử dụng rất ít hóa chất (do gần nhà ở), ít máy móc, sức
lao động chủ yếu là người trong nhà, và sử dụng tối đa nguồn thức ăn, vật
tư tại chỗ.
4 THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
4.1 Thuận lợi
Đây là một mô hình mang tính khép kín đạt hiệu quả rất cao. Vì :
Tận dụng hiệu quả các chất thải của từng loại.
Các thành phần trong mô hình có mối quan hệ với nhau, rất thuận lợi cho một
nền kinh tế nông nghiệp bền vững, lâu dài và hạn chế ô nhiễm môi trường trong
chăn nuôi và tiết kiệm trong nông nghiệp: phân (gia súc, gia cầm) từ chuồng dùng
làm phân bón bón cho ruộng hay làm nguyên liệu tạo khí biogas sử dụng cho sinh
hoạt, nước phân làm thức ăn cho cá, cho vườn. Ao cung cấp nước tưới cho vườn và
bùn bón cây. Vườn trồng một số thức ăn xanh (như rau muống) là thức ăn cho vật
nuôi đặc biệt là lợn rất tốt.
Khai thác được hiệu quả đất đai trên cùng một diện tích: ao nuôi thì nuôi cá
như: có thể nuôi nhiều loại cá theo các tầng nước khác nhau, vườn thì trồng nhiều
loại cây khác nhau như: trồng theo nhiều tầng, trồng xen, trồng gối cho cây leo lên
giàn. Đây là tiền đề nhằm phát huy được giá trị kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Mô hình lấy ngắn nuôi dài: nuôi gia súc, gia cầm hay trồng các loại rau, đậu,
hoa màu có thời gian sinh trưởng ngắn để thu hoạch sớm bán lấy tiền đầu tư lâu dài
cho cây ăn trái.
Tạo ra nguồn sản phẩm có chất lượng cao

Phù hợp với điều kiện đất đai và phong tục sản xuất của người nông dân VN.
4 Khó khăn:
- Nếu nông hộ mới áp dụng mô hình lần đầu tiên thì kinh nghiệm chưa có
nhiều có thể phí phạm tiền bạc, không dúng mục đích, làm tăng chi phí mà lợi
nhuận thì không cao.
- Giá cả không ổn định: Ví dụ như rau nhút, đầu vụ rau nhút bán giá 2.800 -
3.000 đồng/kg và cuối vụ bán giá 1.200-1.500 đồng/kg (Hoà Bình, 2008). Điều này
là trở ngại lớn cho nông hộ và làm cho lợi nhuận nông hộ bị giảm đi.
- Hợp đồng giữa người mua và người bán luôn gặp trở ngại chủ yếu là do
không thực hiện hợp đồng hay thực hiện chậm hợp đồng khi đã ký kết vì giá giảm.
Điều này theo Trường Văn (2006) là do sản phẩm chưa ổn định lắm còn bấp bênh
nên đua luật pháp vào việc này thì chưa được tốt do đó cần phải có thời gian làm
ăn lần lần mới điều chỉnh bằng luật pháp bởi vì tất cả những hợp đồng rất lỏng lẻo,
không có ràng buộc chế tài gì cả.
- Hạn chế về vốn, kỹ thuật, thiếu thông tin
+ Hạn chế về vốn, đây là phần khó khăn thường gặp ở nông hộ nông thôn: Những
người làm kinh tế VAC, muốn mở rộng sản xuất, đầu tư các mô hình mới luôn phải
trăn trở về nguồn vốn (Trung tâm thông tin khoa học công nghệ Quốc Gia, 2007).
Còn theo Nguyễn Trần Thức (2008) thì hàng quản lý chưa đạt kết quả tốt, thiếu
nguồn quỹ, vốn hỗ trợ sản xuất.
+ Về kỹ thuật thì cơ sở hạ tầng còn yếu, thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ thật sự.
Cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ. Lực lượng khuyến nông còn hạn chế, xử lý kém khi
xảy ra bệnh, dịch.
+ Thiếu hay không nhanh nhạy thông tin, quy mô nhỏ lẻ và hoạt động phân tán,
thiếu sự liên kết nên dễ bị thương lái ép giá. Điều này theo Phương Văn (2008)
hiện nay trên 80% hộ sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam thường có thói quen bán
hàng trực tiếp cho thương lái và chịu sự chi phối trực tiếp của thương lái về giá cả
(tình trạng phổ biến là bị thương lái ép giá). Chỉ có chưa đầy 10% hộ tiêu thụ thông
qua hình thức hợp tác xã và khoảng 8% hộ mang sản phẩm của mình bán tại các
chợ địa phương. Sở dĩ có tình trạng trên vì phần lớn nông dân tin tưởng vào các

thương lái hơn là các thông tin từ tivi, đài, báo… Mặc dù mỗi năm, nhà nước vẫn
đầu tư hơn 100 tỷ đồng cho hoạt động khuyến nông, song chỉ có 3% trong số đó
được dùng vào thông tin khuyến nông.
- Chưa xác định được vị trí của các thành phần trông hệ thống và phân bố đất
đai hợp lý, chưa chọn được giống cây và con để nuôi trồng, chưa có bản đồ thiết kế
chi tiết về vườn cây chuồng nuôi, chưa xây dựng được hệ thống đường xá và hàng
rào bảo vệ trong hệ thống VAC dẫn tới những khó khăn trong quá trình vân chuyển
cây con cũng như vật nuôi, gây ra khó khăn trong quá trình chăm sóc.
- Mỗi loại địa hình và quy mô cụ thể mà ta xây dựng một loại kiểu ao khác
nhau.Có thể là ao đơn, ao song song hoặc ao xen.Nước trong ao không đáp ứng đủ
tiêu chuẩn dễ mang lại bệnh dịch.
- Vệ sinh chuồng trại chưa tốt vật nuôi dễ bị nhiễm bệnh.
- Phân chia cây cối trong hệ thống chưa phù hợp.
5 VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH
5.1 Mô hình sinh thái nông nghiệp trong nước:
a Kinh tế trang trại - điểm nhấn của kinh tế Phú Giáo
Với những lợi thế cơ bản về thổ nhưỡng, khí hậu, nhân công, trong những năm
qua Phú Giáo đã tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại (KTTT). Và đây
cũng là điểm nhấn của kinh tế Phú Giáo, góp phần nâng cao mức sống người dân
và làm thay đổi diện mạo nông thôn của huyện.
Những kết quả khả quan
Trong bức tranh tổng thế của kinh tế huyện Phú Giáo, KTTT đang nổi lên như
là một phương thức sản xuất bền vững và quan trọng của huyện. Dựa vào những
lợi thế cơ bản về thổ nhưỡng, thời gian qua nông dân huyện Phú Giáo đã biết phát
huy tối đa những lợi thế để hình thành nên những trang trại hiện đại và ổn định sản
xuất.
KTTT huyện Phú Giáo đang xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi vật nuôi đặc
sản với hiệu quả kinh tế cao
Trong các hình thức trang trại hiện nay thì mô hình trang trại trồng trọt, nhất là
trồng cao su, đã thể hiện được tính ưu việt trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình.

Song song đó, mô hình trang trại chăn nuôi cũng đang được chú trọng với hình
thức chăn nuôi tập trung, theo hướng hiện đại và bảo đảm vệ sinh môi trường.
Cùng với đó vài năm gần đây trên địa bàn huyện cũng đang xuất hiện mô hình kinh
tế trang trại tổng hợp theo mô hình VAC và bước đầu đã thể hiện được ưu thế
trong việc phát huy nguồn lực, có nhiều tiềm năng phát triển. Bên cạnh đó, các chủ
trang trại trên địa bàn cũng đã chú trọng đến việc chăn nuôi những vật nuôi đặc
sản, có giá trị kinh tế cao như heo rừng lai, nhím, ba ba
Nhìn chung các mô hình KTTT trên địa bàn huyện Phú Giáo thời gian qua đã
huy động được nguồn nội lực trong dân về vốn, lao động, góp phần phủ xanh đất
trống, cải thiện môi trường, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động; góp
phần tích cực vào việc xóa đói giảm nghèo ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng
nông thôn của huyện.
Người nông dân tài hoa của huyện Phú Giáo: xuất thân từ quân ngũ, với bản
chất của anh bộ đội Cụ Hồ, ông Phùng Văn Thức (ấp Đồng Tâm, xã Tam Lập,
huyện Phú Giáo) đã vượt qua khó khăn, xây dựng thành công mô hình trang trại
(TT) tổng hợp đạt hiệu quả kinh tế cao. Ông là một nông dân điển hình của huyện
Phú Giáo trong thời kỳ mới, thời kỳ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị
Trung ương 6 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Nông dân điển hình Phùng Văn Thức chăm sóc ao cá rô đồng trong TT của gia
đình
Anh Đặng Văn Nhã, ở ấp Mỹ Phú 3, xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình, tỉnh
Vĩnh Long (2007) trong năm 2006 với trên diện tích 5 ha đang cho trái ổn định anh
thu hoạch gần 85 tấn trái, bán trên 500 triệu đồng. Bên cạnh vườn cây anh còn khai
thác nguồn cỏ trên đất liếp để nuôi bò, tận dụng mặt nước ao mương để nuôi tôm,
cá tự nhiên. Hiện tại anh nuôi gần 10 con bò thịt mỗi năm xuất chuồng vài ba con,
kết hợp cả trăm ký cá tự nhiên thu hoạch trong ao mương, nên gia đình cũng có
thêm 20 – 25 triệu đồng/năm. Trong 5 năm gần đây bình quân mỗi năm thu nhập
gần 550 triệu đồng, sau khi trừ chi phí sản xuất còn tích lũy trên 300 triệu
đồng/năm.
b Mô hình VACR tại nông trường Sông Hậu:

Nằm trên vùng đất trũng, chẳng những bị nhiễm phèn mà lại còn bị hoang
hoá nhiều năm từ trong chiến tranh, chưa có kinh mương thuỷ lợi. Nông Trường đã
hoàn thành việc cải tạo đồng ruộng, xây dựng công trình thủy lợi với hệ thống bờ
bao, kênh tưới, tiêu nước, kết hợp giao thông hoàn chỉnh, cơ giới hoá đa phần
trong sản xuất nông nghiệp.
Trên diện tích 4.160 ha ruộng, Nông trường Sông Hậu đã trồng được hai vụ
lúa mỗi năm với năng suất trên 10 tấn/năm, kết hợp nuôi cá ruộng, mỗi năm thu
hoạch được khoảng 300 kg cá/ha, cao hơn đáng kể so với bình quân trong vùng.
Nông trường có 350 ô chuồng nuôi heo với hơn 3.000 con, hàng năm xuất chuồng
từ 300 - 350 tấn heo và hàng ngàn con heo giống; đàn gà và vịt giống có hơn hơn
200.000 con Ngoài ra, nông trường còn cung cấp hàng chục nghìn con giống cho
nông dân ngoài nông trường. Dọc theo đường giao thông và kênh thuỷ lợi, nông
trường đã trồng trên 5.000.000 cây lấy gỗ tạo nguồn nguyên liệu cho xưởng chế
biến đồ gỗ gia dụng. Nông trường còn trồng cây ăn trái như xoài và các loại cây ăn
trái khác, sản xuất nấm rơm, trồng các loại rau đậu, gừng v.v để tạo nguồn
nguyên liệu chế biến nông sản xuất khẩu.
c Mô hình VACR vùng cao:
Trên nhà là vườn rừng, dưới nhà là ruộng, ao thả cá. Hai ha ruộng và mấy
sào ao, mảnh vườn của gia đình Lý Phù Quáng nhờ rừng mà có nước, gieo trồng
được quanh năm. Những chân ruộng bậc thang trên đất dốc cho anh đến 12 tấn
thóc mỗi năm, bằng cả sản lượng lúa của một đội sản xuất trước đây. Tận dụng
nguồn nước từ rừng, Lý Phù Quáng dựa vào địa hình khe lạch đắp thêm nhiều
khoảnh ao nhỏ để thả cá. Nguồn thu nhập ổn định trên là cơ sở để Lý Phù Quáng
phát triển chăn nuôi, trong chuồng nhà anh lúc nào cũng có 2 con lợn nái, 4 đến 5
con lợn thịt. Rừng còn là bãi chăn thả đàn trâu bò trên 20 con, mỗi năm bán 5-7
con cũng là một khoản thu nhập đáng kể cho gia đình. Cũng dựa vào rừng, Lý Phù
Quáng đã trồng được 6 ha thảo quả, 1/3 diện tích đã cho thu hoạch. Thảo quả đã
giúp gia đình Quáng giàu có nhất bản; mức thu nhập mỗi năm trên 70 triệu đồng,
trong đó thảo quả cho thu tới 50 triệu đồng. Anh mở rộng diện tích cây thảo quả,
cây ăn quả trồng xen kẽ giữa khu rừng đại ngàn sau nhà tăng thêm độ bền vững và

hữu ích của cả khu rừng.
Trần Hồng Thanh xã Phú Nhuận huyện Bảo Thắng, Lào Cai, gương kinh tế
giỏi. Gia đình anh nhận 30 ha rừng để trồng khoanh nuôi bảo vệ, thực hiện phương
châm lấy ngắn nuôi dài, trồng xen canh. Những năm đầu cây còn nhỏ, đất còn
nhiều màu mỡ, anh trồng xen ngô, sắn vừa phục vụ đời sống gia đình, vừa kết hợp
chăn nuôi. Trong chuồng anh thường nuôi từ 25 – 30 con lợn mỗi năm xuất chuồng
mỗi năm 2 lứa thu trên 150 triệu đồng. Số tiền thu được anh lại đầu tư trồng rừng
đến nay rừng của anh đã khép tán với 25ha quế 17 tuổi, 5ha mỡ 10 tuổi đã đến kỳ
khai thác, với 20 sào lúa nước nhờ áp dụng những phương pháp canh tác mới bằng
những giống lúa năng suất cao chất lượng tốt nên hàng năm cho thu trên 3 tấn thóc,
giải quyết lương thực cho cả gia đình anh. Trồng một đồi cỏ voi nuôi trâu, bò có
30 con trâu sinh sản hàng năm cho gần chục con nghé con và gần 200 con bò cá
loại hàng năm cho sinh sản khoảng 50 con bê con. Ngoài ra gia đình anh còn có
gần 300 con gà vịt, để tận dụng hết phế thải từ trâu, bò lợn anh đào ao thả cá với
3ha anh thả cá trắm cỏ, mè, rô phi, cá quả mỗi năm thu gần 20tấn cá các loại.
Không những thế anh còn đầu tư cho sản xuất nông lâm nghiệp, sẵn có vốn anh
đầu tư mua 2 máy xay xát, mở dịch vụ bán phân bón, lương thực, thực phẩm, đồng
thời tận dụng những sản phẩm phụ từ máy xay xát để phát triển chăn nuôi.
5.2 Mô hình nông nghiệp sinh thái ở nước ngoài:
a Nông nghiệp sinh thái ở Trung Quốc:
Kinh tế nông nghiệp Trung Quốc trải qua hơn 2000 năm ứng dụng mô hình
VAC đã khiến cả Thế Giới phải chú ý. Xuất phát từ mô hình trang trại nhỏ, VAC
được phát triển dưới áp lực về nhu cầu thực phẩm, ngũ cốc cho giá trị cao sản và
gia tăng thu nhập. Với lợi thế như :
Tạo ra chu trình sinh thái kín, tái sử dụng nguồn nguyên liệu, giảm thiểu ô
nhiễm hữu cơ….Gia tăng việc cung cấp lương thực, tạo thêm công ăn việc làm,
giảm chi phí đầu vào
Trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm chăn nuôi kết hợp khu vực Châu Á Thái
Bình Dương ở vùng Wuxi, Trung Quốc đã phát triển hơn một thập kỷ qua, bằng
với kinh nghiệm về nghiên cứu nước và các lĩnh vực khác đã mở nhiều lớp huấn

kuyện hàng năm cho các sinh viên khắp nơi như Châu Phi, khu vực châu Á Thái
Bình Dương, châu Âu và khu vực Mỹ La-tinh. Trung tâm FFRC (Nghiên cứu về cá
nước ngọt), thành viên của Trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm chăn nuôi kết
hợp khu vực Châu Á Thái Bình Dương chuyên nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ về lĩnh vực VAC truyền thống của Trung Quốc, xuất phẩm của họ “Nuôi
trồng kết hợp ở trung Quốc”chuyên về giải thích các mô hình ở Trung Quốc và
việc áp dụng cho từng địa phương với các điều kiện khác nhau”
Ví dụ điển hình là cho việc phát triển mô hình nuôi trồng kết hợp là việc gia
tăng số lượng cừu Huzhou sẽ làm tăng lượng phân bón cho cây dâu tằm, sâu tằm
nhờ thế mà cũng phát triển theo, những con sâu kém chất lượng được dùng để nuôi
cá, trong khi đó vào mùa thu, lá cây dâu tằm khi rụng sẽ dùng để nuôi cừu trong
mùa đông
b VACR tại Thái Lan
Một nữ nông dân Thái Lan dành toàn bộ thời gian và tiền bạc để làm giàu
cho đất. Phương pháp của bà góp phần giảm khí thải carbon, yếu tố chính gây ra
biến đổi khí hậu toàn cầu. Chính phủ Thái Lan coi trang trại của bà là mô hình mẫu
về nông nghiệp bền vững.
Bà Pratum Suriya, 58 tuổi, sống tại quận Mae Rim, tỉnh Chiang Mai, Thái
Lan từng là một giáo viên hóa học trung học suốt 26 năm. Mọi chuyện thay đổi khi
bà biết đến mơ ước về nền nông nghiệp bền vững của nhà vua Thái Lan vào năm
1999. Bà quyết định vay ngân hàng để mua đất làm trang trại bất chấp sự phản đối
của gia đình, đặc biệt từ người cha bởi vì trong quan niệm của ông và nhiều người
dân Thái Lan, nông dân không phải là một nghề đáng coi trọng. Nhưng cô giáo
Pratum không từ bỏ mong muốn biến ước mơ của nhà vua thành hiện thực. Hai
năm sau, bà sở hữu 0,56 ha đất trang trại.
Năm đầu tiên làm trang trại hoàn toàn thất bại và bà lỗ rất nhiều. Bởi vậy,
đến năm thứ hai, bà rút kinh nghiệm cải tạo đất trước khi gieo trồng. “ Tôi mang
đất đi phân tích” – người nông dân được đồng nghiệp yêu mến gọi là cô giáo
Pratum chia sẻ. “Kết quả là đất có nhiều axít và thiếu chất hữu cơ”.
Khi đó, cựu giáo viên quyết định ứng dụng kiến thức hóa học để giảm axít

và tăng chất hữu cơ trong đất. Bà thường ủ rơm, phân gia súc cùng với 4 cặp giun
đực cái để làm phân tự nhiên. Ngoài ra, nhiều khi, bà không cho giun vào để lấy
nấm mang bán sau 20 ngày ủ. Bà còn trồng xen kẽ vụ lúa và vụ đậu nành để đất
thêm màu mỡ. Trong nông trại, bà trồng khoảng hơn 70 loại cây, đến nay, có
khoảng 200 cây (roi, chôm chôm, me….). Như vậy, bà vừa có thêm sản phẩm để
bán vừa khiến đất có thêm chất màu. Đặc biệt, vào mùa đậu nành, bà thường trồng
cỏ có rễ sâu tới 3-4m xen với đậu nành. Cỏ tăng thêm khoáng chất trong đất, nhờ
đó, đậu nành phát triển tốt hơn.
Những phương pháp đó giúp giảm dần việc sử dụng phân hóa học theo từng
năm. Và cách đây ba năm, bà không còn phải sử dụng phân hóa học. Song song
với những biện pháp phục hồi đất, bà cũng đưa các loại máy gieo hạt xay xát… để
giảm thời gian, tiết kiệm nhân công khi gieo trồng và thu hoạch.
Đất dần dần phục hồi. Nông trang dần dần sinh lợi. Sau 5 năm, bà trả hết nợ
và đủ tiền để mở rộng trang trại lên hơn 3ha. Trong đó, 30% diện tích đất dành trữ
nước (nuôi cá), 30% trồng lúa, 30% trồng rau và cây trái, 10% nuôi gia súc (gà,
trâu).
Mỗi năm, trang trại mang về cho gia đình bà 500.000 bạt, như vậy, mỗi
người trong gia đình bà nhận được bình quân 100.000 bạt/năm (cao hơn 36% so
với thu nhập trung bình của người dân Thái Lan - 64.000 bạt/năm).
Khi đến thăm trang trại của bà vào tháng hai, một nhà khoa học nghiên cứu
về nông nghiệp bền vững người Úc Les Anwyl cho biết: Sản phẩm sạch thường có
giá cao hơn các sản phẩm sản xuất theo phương pháp truyền thống. Nông trang của
bà Pratum là một ví dụ điển hình về việc thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nhà khoa học Les giải thích: Cây cối lấy năng lượng từ mặt trời và CO¬2 từ không
khí, biến chúng thành glucose, chất sau đó chuyển hóa thành chất hữu cơ trong đất.
Nhờ đó, đất giữ nhiều nước và màu mỡ mà không cần phân hóa học. 200 cây trong
trang trại của bà Pratum giúp hấp thụ khí thải carbon đang gia tăng trong không khí
và làm giàu cho đất.
III KẾT LUẬN


Nông nghiệp sinh thái không làm suy thoái đất, không làm ô nhiễm môi
trường, trên cơ sở sử dụng hợp lí tài nguyên. Hay nói cách khác, NNST chủ trương
bảo vệ môi trường, tạo dựng môi trường trong lành và sử dụng một cách hợp lí tài
nguyên thiên nhiên. Mục đích của NNST là kiến tạo một hệ thống bề vững về mặt
sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khẳ năng thỏa mãn nhu cầu của con người
mà không là suy thoái tài nguyên và không làm nhiễm bẩn môi trường, là tối ưu
hóa tính bền vững và sức sản xuất của các hệ thống với quan hệ chặt chẽ phụ thuộc
lẫn nhau như đất trồng trọt, cây trồng, động vật và con người.
Mục đích chính của nông nghiệp sinh thái nhằm tạo ra Nông nghiệp bền vững
sử dụng đất tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu
năm, súc vật, đất, nước và nhu cầu của con người, xây dựng những cộng đồng chặt
chẽ và có hiệu quả.

×