Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thảo luận môn chuyên đề kế toán công cụ tài chính: Cơ sở đo lường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.65 KB, 35 trang )

Cơ sở đo lường Công cụ tài chính.
A. ĐO LƯỜNG.
Theo khuôn mẫu của IASB cho việc soạn thảo và trình bày Báo cáo tài
chính (BCTC) đã nêu: “Đo lường bao hàm việc quy đổi thành tiền các yếu
tố cần được ghi nhận và trình bày trên báo cáo tài chính” , đồng thời thừa
nhận là hiện nay tồn tại một sự đa dạng về các cơ sở đo lường được sử
dụng ở những mức độ khác nhau hoặc có sự kết hợp với nhau.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, khái niệm đo lường trong kế toán có thể
được hiểu như là sự định giá (xét về cơ chế), hoặc là sự đánh giá, tính giá
(xét về phương pháp, nguyên tắc).
B. CƠ SỞ GIÁ GỐC
a. Kế toán trên cơ sở giá gốc.
• Các quan điểm về giá trị, giá cả và phương pháp tính giá đã có nhiều thay
đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau trên các phương diện kinh tế-
chính trị học, quản lý kinh doanh, hạch toán các nghiệp vụ. Dù vậy, do
nhiều lí do khác nhau, việc ghi nhận, xử lý và trình bày các đối tượng kế
toán trên cơ sở giá gốc vẫn được chấp nhận là nền tảng cho đo lường
trong kế toán hơn mấy chục năm qua.
• Một cách tổng quát, cơ sở giá gốc đòi hỏi kế toán phải ghi chép giá trị của
một tài sản được mua theo phí tổn được tính bằng tiền trên cơ sở trao đổi
ngang giá tại thời điểm hòan tất việc mua, và giá trị này được giữ nguyên
kể cả trong trường hợp sau đó giá cả của những tài sản tương tự có thể
thay đổi trên thị trường.
• Cơ sở giá gốc có các đặc trưng:
- Thông qua đo lường giá trị bằng tiền và tôn trọng trao đổi ngang giá
- Sự hi sinh lợi ích trong hiện tại (chi phí mua tài sản) được xem là chắc
chắn và gắn liền với lợi ích tương lai (khả năng sinh lợi của tài sản).
- Có đủ minh chứng về việc thực hiện (chứng từ mua) để đảm bảo tính
pháp lý đáng tin cậy và phù hợp của thông tin về tài sản.
b. Các nhân tố ảnh hưởng.
• Các đặc trưng của cơ sở giá gốc giúp tăng cường độ tin cậy và tính hữu


ích của thông tin kế toán. Qua đó, đảm bảo một cách hợp lí lợi ích của các
bên liên quan. Việc áp dụng kế toán giá gốc đòi hỏi phải tuân thủ nguyên
tắc, yêu cầu của kế toán và phải chịu sự chi phối của nhiều nhân tố khác
nhau.
(1) Yêu cầu khách quan: thông tin kế toán hữu ích phải có độ tin cậy
cao, các thông tin và các số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo
đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo. Giá gốc được
hình thành trên cơ sở sự thương lượng với đầy đủ sự hiểu biết và thỏa
mãn về lợi ích giữa người mua và người bán, việc ghi chép các giao
dịch này hòan toàn có thể kiểm tra được, nên giá gốc đảm bảo được
yêu cầu khách quan.
(2) Nguyên tắc thận trọng: Là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần
thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn,
đòi hỏi người làm kế toán phải cố gắng đảm bảo rằng, thực trạng tài
chính và mức độ thành công (hàm ý kết quả kinh doanh) không được
phóng đại. Điều này giúp củng cố sự tin cậy về các lợi ích (thu nhập, tài
sản) thực hiện trong tương lai được đảm bảo theo số liệu đã ghi chép ở
hiện tại.
(3) Nguyên tắc hoạt động liên tục: việc điều chỉnh giá trị các tài sản
đang sử dụng theo giá thị trường là không phù hợp với mục đích hình
thành tài sản, hơn nữa do không có quan hệ mua bán xảy ra thì giá thị
trường không thể xác lập một cách khách quan. Tuy nhiên, nếu có dấu
hiệu về sự vi phạm nguyên tắc hoạt động liên tục hoặc DN có dự định
bán tài sản thì giá thị trường sẽ thay thế giá gốc sẽ phù hợp hơn.
(4) Nguyên tắc nhất quán: xét về tổng thể thì sử dụng giá gốc sẽ thuận
lợi hơn các phương pháp khác để đảm bảo tính chất so sánh được của
thông tin do đòi hỏi các chính sách, phương pháp kế toán phải được sử
dụng một cách thống nhất và kiên định.
(5) Yêu cầu quản lí nội bộ: khi đối tượng kế toán trở nên đa dạng
thường xuyên biến động thì thông tin kế toán giá gốc trở nên phức tạp,

thiếu tính kịp thời, không đáp ứng được các yêu cầu quản lí trong việc
kiểm soát, ra quyết định…Giá cố định (hay giá hạch toán) là sự thay thế
phù hợp trong ghi chép.
(6) Mức giá chung thay đổi:Trong nền kinh tế siêu lạm phát, thông tin
của kế toán giá gốc trở nên không còn phù hợp, đòi hỏi phải có sự điều
chỉnh thích hợp; sự thay đổi này, được tiến hành trong khuôn khổ các
quy định pháp lí liên quan, không phải là một sự vi phạm về nguyên tắc
giá gốc đã đề ra nhưng sẽ làm cho tính hữu ích của thông tin kế toán
được cải thiện.
(7) Các đối tượng kế toán mới: Nền kinh tế toàn cầu hiện đem lại nhiều
cách thức giao dịch, đối tượng mới cần được kế toán phản ánh, chẳng
hạn các công cụ tài chính, nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài, gia
tăng lợi nhuận đầu tư và thiết lập sự bảo vệ trước những rủi ro về giá
cả, lãi suất. Tình hình này làm cho kế toán trên giá gốc trở nên khó
triển khai thực hiện được.
c. Thực trạng kế toán giá gốc ở Việt Nam hiện nay
• Luật Kế toán (2003)
“Giá trị của tài sản được tính theo giá gốc, bao gồm chi phí mua, bốc
xếp, vận chuyển, lắp ráp, chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp
khác đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng”.
Như vậy, cơ sở giá gốc đề cập gắn liền với việc ghi nhận giá trị tài
sản được mua, nhìn chung còn đơn giản, thiếu tính hệ thống nên có thể
ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của Luật do không thể thi hành hoặc thi
hành không đầy đủ.
• Chuẩn mực kế toán
Cơ sở giá gốc được áp dụng chính thức trong việc ghi nhận giá trị ban
đầu của các đối tượng tài sản như hàng tồn kho, tài sản cố định, bất
động sản, các khoản đầu tư…Nhưng các phương pháp tính giá không
được quy định đầy đủ, minh bạch làm giảm tính chất ổn định của môi
trường kế toán.

Ví dụ: trong đoạn 28 của VAS 4- Tài sản cố định chỉ đề cập ngắn gọn về
việc phải tuân thủ các quy định của nhà nước về đánh giá lại giá trị tài
sản mà không đưa ra các nguyên tắc, phương pháp đánh giá lại tài sản
thường rất phức tạp.
 Việc thiếu chuẩn mực quan trọng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện
đo lường kế toán trên cơ sở giá gốc đối với nhiều đối tượng như:
các công cụ tài chính, trợ cấp Chính phủ, tổn thất tài sản.
• Chính sách cơ chế, phương pháp đo lường kế toán liên quan
Việc tồn tại chính sách hai giá khiến cho việc ghi nhận giá gốc theo
biểu giá chính thức không đảm bảo yêu cầu khách quan, hệ quả là các
nội dung về chi phí, doanh thu và lãi lỗ có thể thiếu độ tin cậy, ngoài ra,
còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.
• Vấn đề chuyển giá và chống chuyển giá.
- Kế toán giá gốc cũng chịu thử thách rất lớn trong việc cung cấp
thông tin trung thực, đáng tin cậy do xuất hiện các hoạt động
chuyển giá mà các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia tìm cách áp
dụng để thu được lợi nhuận tối đa về cho tập đoàn qua việc tăng
thu nhập, né thuế thu nhập hoặc được chia lợi nhuận theo tỉ lệ góp
vốn cao trong các liên doanh, trên cơ sở định giá thấp hơn giá thị
trường các mặt hàng xuất khẩu từ nước chủ nhà và định giá cao
hơn giá thị trường các mặt hàng nhập khẩu vào nước chủ nhà.
- Điều này đồng nghĩ với việc nâng giá (gốc) đầu vào, giảm giá bán
đầu ra của các yếu tố sản xuất trong các giao dịch nội bộ giữa các
thành viên của tập đoàn được đặt tại nhiều quốc gia có biểu thuế
khác nhau sao cho có lợi nhất. Kĩ thuật chuyển giá ngày càng phức
tạp và mở rộng, đòi hỏi phải có cơ chế chống chuyển giá hiệu quả
nhằm tránh thất thu thuế, đưa giá thành và giá bán trở lại tương
xứng với thực chất hao phí đã bỏ ra.
• Các vấn đề khác.
Ngòai những nội dung trên, còn nhiều vấn đề khác liên quan đến việc

áp dụng kế toán giá gốc để cung cấp thông tin hữu ích cho người sử
dụng như quan điểm về đánh giá tổn thất tài sản (impairment), chính
sách tỉ giá hối đoái, trình độ quản lí kinh doanh nội bộ, hoạt động đào
tạo nhân sự kế toán-kiểm toán còn phải được giải quyết về lí luận lẫn
thực hành nghề nghiệp.
d. Kết luận
Cơ sở giá gốc được xem là nền của đo lường kế toán trong nhiều năm
qua, và kế toán giá gốc đã thực hiện rất tốt chức năng cung cấp thông
tin hữu ích và đáng tin cậy cho người sử dụng tại các quốc gia, tuy
nhiên trong xu hướng phát triển và hội nhập toàn cầu hiện nay, cơ sở
giá gốc đã bộc lộ nhiều hạn chế. Và mặc dù chưa thể phủ nhận vai trò
của giá gốc trong kế toán nhưng rất cần xem xét lại và bổ sung bởi
những cơ sở khác một cách phù hợp hơn.
Thay đổi bằng giá trị hợp lý
Với mục tiêu giải quyết các tồn đọng kể trên và hơn hết quyết tâm đưa kế toán
nước ta dần tiệm cận với các chuẩn mực kế toán - kiểm toán quốc tế trong bối
cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay, cần xem xét và thay đổi nguyên tắc giá trị
hợp lý thay cho nguyên tắc giá gốc.
Với việc sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở đo lường thích hợp khi ghi nhận ban đầu
của tài sản và nợ phải trả, thông tin do kế toán cung cấp sẽ bảo đảm hai đặc tính
chất lượng quan trọng: tính thích hợp và tính đáng tin cậy. Tính thích hợp được
xác định là chất lượng của thông tin hay mức độ ảnh hưởng của thông tin đến
quyết định kinh tế của người sử dụng. Tính thích hợp được đánh giá trên
phương diện, thông tin thích hợp để hỗ trợ đối tượng sử dụng đánh giá hoạt
động của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán tương lai. Còn tính
đáng tin cậy thể hiện, thông tin kế toán phải trình bày trung thực các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh theo đúng bản chất một cách khách quan, thận trọng và đầy
đủ.
Thêm nữa, với trình tự xác định giá trị hợp lý theo 3 cấp độ được quy định trong
chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) số 13: từ các dữ liệu tham chiếu là

giá chào bán đến bằng chứng thị trường quan sát được và các dữ liệu tham
chiếu là bằng chứng thị trường không quan sát được cho thấy việc xác định giá
trị hợp lý sẽ góp phần giảm thiếu thấp nhất mức độ rủi ro cho các doanh nghiệp
thông qua việc tối đa hóa dùng dữ liệu đầu vào quan sát được và hạn chế tối đã
dữ liệu không quan sát được.
Thông tin có thể thích hợp nhưng có thể không đáng tin cậy do sự ghi nhận giá
trị có thể dẫn đến việc hiểu thông tin sai lệch và ngược lại, vì thế cần sớm ghi
nhận giá trị hợp lý trong việc sửa đổi và bổ sung Luật Kế toán sắp tới. Nguyên
tắc này được luật hóa sẽ trở thành căn cứ pháp lý để điều chỉnh và chế tài hoạt
động kế toán và các mối quan hệ có liên quan đến kế toán, vốn được coi là căn
cứ quan trọng để xem xét, đánh giá hoạt động kinh doanh - tài chính và đề ra
các quyết định cần thiết của các doanh nghiệp.
C. GIÁ TRỊ HỢP LÍ
Bên cạnh những nhược điểm của giá gốc, làm cho tính hữu ích của thông tin
không cao. Giá trị hợp lý dần dần được quan tâm và sử dụng rộng rãi của nhiều
nước trên thế giới. Giá trị hợp lý phát triển mạnh mẽ cùng với sự hình thành và
phát triển của các thị trường hoạt động, và ngày nay, giá trị hợp lý được mở
rộng áp dụng cho các công cụ tài chính.
I. Khái quát Giá trị hợp lý
1.Khái niệm
- Giá trị hợp lý là một thuật ngữ bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ cuối những
năm 1990, khi Ủy ban soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) nghiên cứu
ban hành mới và sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế liên quan đến các lĩnh
vực như: Nông nghiệp, Bất động sản đầu tư, thanh toán trên cơ sở cổ phiếu,
công cụ tài chính
Sau nhiều lần thảo luận Dự thảo Chuẩn mực về Giá trị hợp lý, Tháng 5/2011,
IASB chính thức phát hành IFRS 13 - Đo lường Giá trị hợp lý (Fair Value
Measurement), có hiệu lực từ 01/01/2013. Trong đó, giá trị hợp lý được định
nghĩa như sau:
“Giá trị hợp lý là giá trị sẽ nhận được khi bán một tài sản hay giá trị thanh toán

để chuyển giao một khoản nợ phải trả trong một giao dịch có tổ chức giữa các
bên tham gia thị trường tại ngày đo lường”.
Như vậy, có thể hiểu: giá trị hợp lý là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể
được trao đổi trong một giao dịch hiện tại giữa những người tham gia tự
nguyện, không có sự ép buộc, có đầy đủ sự hiểu biết về trao đổi cũng như những
đặc điểm của tài sản và nợ phải trả đang giao dịch.
2. Sử dụng giá trị hợp lý trong các chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành
a. Có thể khái quát việc sử dụng giá trị hợp lý trong các chuẩn mực kế toán quốc
tế hiện hành theo một số khía cạnh nổi bật như sau:
+ Thứ nhất, giá trị hợp lý được sử dụng để đánh giá và ghi nhận ban đầu .
+ Thứ hai, Giá trị hợp lý được sử dụng sau ghi nhận ban đầu.
+ Thứ ba, Ghi nhận chênh lệch phát sinh do sự biến động của giá trị hợp
lý.
b. Chuẩn mực quốc tế quy định về việc sử dụng giá trị hợp lý
IAS 39 : Công cụ tài chính: Ghi nhận và đo lường
Các quy định về sử dụng giá trị hợp lý
- Ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý tại thời điểm đầu tư hoặc phát hành công
cụ tài chính.
- Sau ghi nhận ban đầu, các công cụ tài chính được ghi nhận tuỳ theo từng loại
công cụ cụ thể. Tài sản tài chính được chia thành 4 loại:
(1). Nợ phải thu và cho vay
(2). Khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn
(3). Tài sản tài chính ghi nhận theo giá trị hợp lý qua báo cáo kết quả kinh
doanh.
(4) Tài sản tài chính sãn sàng để bán
Trong đó, tài sản tài chính thuộc nhóm (3) được ghi nhận theo giá trị hợp lý, sự
thay đổi về giá trị hợp lý được ghi nhận vào thu nhập hoặc chi phí trên báo cáo
lãi, lỗ. Tài sản tài chính thuộc nhóm (4) được ghi nhận theo giá trị hợp lý với sự
biến động giá trị hợp lý được ghi nhận vào vốn chủ sở hữu…
II. Phương pháp xác định giá trị hợp lý:

I. Một số khái niệm và vấn đề liên quan
Để có thể đưa ra phương pháp xác định giá trị hợp lý thích hợp, người định giá
cần xem xét những vấn đề sau:
1. Thu nhập thông tin từ thị trường:
Trong quá trình xác định giá trị hợp lý cần phải tham khảo những thông tin và
dữ liệu được lấy từ thị trường bao gồm thị trường hối đoái, thị trường hàng
hóa, tài sản, thị trường môi giới và thị trường trực tiếp không qua trung gian.
Khi ước tính giá tính hợp lý doanh nghiệp phải dựa vào các thông tin hiện tại,
đó là:
- giá niêm yết trên thị trường trong hiện tại
- thông tin về lãi suất
2. Kỹ thuật định giá:
Sau khi có được thông tin từ thị trường, doanh nghiệp sử dụng các kỹ
thuật định giá nhằm mục đích ước tính giá khi bán một tài sản hoặc khi chuyển
giao một khoản công nợ trong một giao dịch tự nguyện giữa các bên tham gia
thị trường tại ngày xác định giá trị theo điều kiện thị trường hiện tại. Ba kỹ
thuật định giá được sử dụng rộng rãi là phương pháp giá thị trường, phương
pháp chi phí và phương pháp thu nhập. Doanh nghiệp phải sử dụng các kỹ thuật
định giá một cách nhất quán với một hoặc nhiều phương pháp nêu trên. Tuy
nhiên, những thay đổi trong kỹ thuật định giá hoặc việc áp dụng kỹ thuật này (ví
dụ thay đổi trong việc xác định khi nào nên sử dụng kết hợp nhiều kỹ thuật định
giá hoặc thay đổi trong việc điều chỉnh một kỹ thuật định giá nào đó) sẽ trở nên
phù hợp hơn nếu thay đổi đó giúp xác định được giá trị bằng đúng giá trị hợp lý
hoặc giá trị đại điện hơn. Ví dụ, thay đổi trong các trường hợp sau:
(a) Các thị trường mới phát triển;
(b) Các thông tin mới trở nên sẵn có;
(c) Các thông tin được sử dụng trước đây không còn sẵn có nữa;
(d) Sự cải thiện trong các kỹ thuật định giá; hoặc
(e) Sự thay đổi của điều kiện thị trường.
3: Hệ thống phân cấp giá trị hợp lý

Văn bản thảo luận về các phương pháp đo lường có sử dụng giá trị hợp lý của
IASB năm 2005 đề nghị cách xác định giá trị hợp lý trong ghi nhận ban đầu của
giá trị tài sản theo 3 cấp độ: giá thị trường, mô hình hay kỹ thuật xác định giá
trị hợp lý, và giá hiện hành của tài sản. Theo chuẩn mực “Chuẩn mực báo cáo
tài chính Đo lường giá trị hợp lý (IFRS13)”, trình tự xác định giá trị hợp lý theo
3 cấp độ: cao nhất (cấp độ 1) đến thấp nhất (cấp độ 3). Căn cứ vào những thông
tin và những giả định đang có, người định giá sẽ xem xét có thể xác định giá trị
hợp lý ở cấp độ nào. Cấp độ càng cao thì ước tính càng đáng tin cậy.
Hệ thống phân cấp giá trị hợp lý này đưa ra quyền ưu tiên cao nhất cho giá
niêm yết (chưa điều chỉnh) trong thị trường hoạt động đối với cùng một nhóm tài
sản hoặc công nợ (các yếu tố đầu vào cấp 1) và quyền ưu tiên thấp nhất cho các
yếu tố đầu vào không thể quan sát được (các yếu tố đầu vào cấp 3). Sự sẵn có
của các yếu tố đầu vào có liên quan và tính chủ quan của các yếu tố này, có thể
có ảnh hưởng đến việc lựa chọn các kỹ thuật định giá phù hợp. Tuy nhiên, hệ
thống phân cấp giá trị hợp lý ưu tiên các yếu tố đầu vào sử dụng trong các kỹ
thuật định giá, chứ không phải các kỹ thuật định giá sử dụng để xác định giá trị
hợp lý.
Các yếu tố đầu vào được phân cấp thành ba (03) loại sau:
- Cấp độ 1: Các yếu tố đầu vào là giá niêm yết (trước điều chỉnh) của các tài
sản hay nợ phải trả đồng nhất trong các thị trường hoạt động (active market)
mà tổ chức có thể thu thập tại ngày đo lường.
“ Đồng nhất” có nghĩa là: Đối với tài sản: có cùng đặc điểm, tính chất, cùng
tình trạng cũ - mới, cùng nước sản xuất, cùng năm sản xuất…Đối với nợ phải
trả: có cùng những điều khoản trong hợp đồng, cùng thời gian, số tiền, sự
đánh giá tình trạng tín dụng…
Ở cấp độ này, Giá trị hợp lý sẽ là giá niêm yết đó.
Nếu không đạt được cấp độ 1 thì sẽ xem xét sang cấp độ 2:
- Cấp độ 2: Yếu tố đầu vào cấp độ 2 bao gồm:
• Giá niêm yết của các tài sản hay nợ phải trả tương tự trong thị trường
hoạt động.

• Giá niêm yết của các tài sản hay nợ phải trả đồng nhất hay tương tự
trong thị trường không phải là thị trường hoạt động.
• Yếu tố đầu vào, khác giá niêm yết, có thể thu thập liên quan đến tài sản
hay nợ phải trả như lãi suất, biến động lợi nhuận, tính thanh khoản, mức độ rủi
ro, rủi ro thanh toán, rủi ro tín dụng,
• Yếu tố đầu vào phần lớn có nguồn gốc hay được chứng thực từ các dữ liệu
thị trường có thể thu thập bằng các công cụ tương quan hay các công cụ khác.
Cấp độ 2 dựa vào các dữ liệu có thể thu thập được căn cứ vào dữ liệu thị trường
sẳn có
- Cấp độ 3: yếu tố đầu vào là dữ liệu của tài sản hay nợ phải trả không thể thu
thập từ thị trường. Do các dữ liệu về hoạt động thị trường không sẵn có tại ngày
đo lường, nên các yếu tố đầu vào ở cấp độ này phải sư dụng các giả định từ thị
trường(bao gồm cả các giả định về rủi ro). Giá trị hợp lý sẽ được ước tính dựa
vào các phương pháp: Phương pháp tiếp cận thị trường, Phương pháp tiếp cận
thu nhập và phương pháp tiếp cận chi phí.
Nếu được áp dụng, cấp độ 2 và 3 có thể được sử dụng để xác định giá trị hợp lý
cho các các chứng khoán chưa niêm yết, tài sản vô hình phát sinh trong nghiệp
vụ hợp nhất kinh doanh, các khoản dự phòng,
4. Phương pháp xác định giá trị hợp lý:
Tùy thuộc vào những cấp độ sẽ được áp dụng phương pháp xác định phù hợp.
Đối với cấp độ 1 và 2 thì chỉ cần sử dụng 1 phương pháp ( phương pháp tiếp cận
thị trường) đối với ước tính cấp độ 3 thì cần phải sử dụng cả 3 phương pháp:
phương pháp tiếp cận thị trường, phương pháp tiếp cận chi phí, phương pháp
tiếp cận thu nhập. Phương pháp nào sử dụng nhiều dữ liệu và giả định từ thị
trường thì phương pháp đó sẽ cho kết quả đáng tin cậy nhất. Nếu không có
những dữ liệu và giả định từ thị trường thì sẽ ước tính giá trị hợp lý dựa vào
những giả định và ước tính nội bộ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp phải sử
dụng những kỹ thuật định giá phù hợp với hoàn cảnh và những dữ liệu sẵn có
để xác định giá trị hợp lý, sử dụng tối đa các yếu tố đầu vào có thể quan sát được
có liên quan và hạn chế sử dụng các yếu tố đầu vào không thể quan sát được.

1. Phương pháp tiếp cận thị trường: (Market approach)
Phương pháp này được áp dụng khi có giá tham chiếu trên thị trường, dựa trên
tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẽ không trả nhiều hơn chi phí để
mua một tài sản tương tự.
Giá trị hợp lý dựa vào giá tham chiếu, điều chỉnh nếu cần thiết.
- Những trường hợp phải điều chỉnh giá tham chiếu ban đầu:
• Giá tham khảo không lấy từ thị trường hiện tại mà là giá cũ, do vậy DN
nên xem xét thời gian của giao dịch thực tế, những thay đổi trong điều kiện tín
dụng, lãi suất, những nhân tố khác để điều chỉnh cho phù hợp.
• Sự khác nhau của tài sản có giá tham chiếu trên thị trường và tài sản
đang được định giá thì không thể xác định rõ ràng, vì vậy cần phải điều chỉnh
giá tham chiếu.
• Những giá mà không đại diện cho các giao dịch trên thị trường, ví dụ như
giá được lấy từ giao dịch bị cưỡng ép, giao dịch giữa các bên có liên quan…
• Có sự khác biệt trong đơn vị tính toán, hoàn cảnh, khu vực , hợp đồng…
Ví dụ 1:
Đối với các khoản đầu tư tài chính trên thị trường hoạt động (active market),
giá trị hợp lý của khoản ĐTTC (đầu tư tài chính)sẽ được xác định dựa trên giá
niêm yết trên thị trường có thể quan sát được của các khoản đầu tư đó. Giá
niêm yết trên thị trường năng động là bằng chứng tốt nhất của giá trị hợp lý
vì khi đó, giá trị của khoản ĐTTC được hai bên mua bán quyết định dựa trên
hiểu biết đầy đủ và tự nguyện tham gia. Khi đó, để xác định giá trị hợp lý của
khoản đầu tư, giá niêm yết trên thị trường hoạt động luôn phải được ưu tiên
sử dụng để định giá, ngay cả khi doanh nghiệp cho rằng có các phương pháp
định giá khác phù hợp hơn. Giá trị hợp lý của một danh mục ĐTTC là tích số
của số lượng nắm giữ và giá niêm yết của công cụ đó.
Giả sử : ngày 31/12/200N, giá cổ phiếu của ngân hàng S trên Sở giao dịch
chứng khoán TP. Hồ Chí Minh là 16.000 đồng. Cũng tại thời điểm đó, một tổ chức
tư vấn tài chính độc lập có thể định giá cổ phiếu ngân hàng S với giá 19.800
đồng/cổ phiếu, dựa trên các yếu tố liên quan đến lợi thế ngành nghề, lĩnh vực

kinh doanh; các dự án lớn sẽ thu lợi ích kinh tế mà ngân hàng có được trong
tương lai gần,… Các nhân tố này có thể được xem là chính xác, phù hợp và đáng
tin cậy. Tuy nhiên, trong trường hợp này, giá trị hợp lý của khoản ĐTTC liên
quan đến cổ phiếu của ngân hàng S được ưu tiên xác định theo giá thị trường là
16.000 đồng. Lý do, với 16.000đồng/cổ phiếu, các bên mua và bên bán có liên
quan đều “sẵn sàng” giao dịch cổ phiếu với hiểu biết đầy đủ trong một giao dịch
được xem là ngang giá.
Ví dụ 2:
Trong chuẩn mực kế toán Việt Nam số 11 ( VAS11)- “Hợp nhất kinh doanh”:
Đoạn 27 “Giá công bố tại ngày trao đổi của công cụ vốn đã niêm yết là bằng
chứng tin cậy nhất về giá trị hợp lý của công cụ vốn đó và sẽ được sử dụng, trừ
một số ít trường hợp. Các bằng chứng và cách tính toán khác chỉ được công
nhận khi bên mua chứng minh được rằng giá công bố tại ngày trao đổi là chỉ
số không đáng tin cậy về giá trị hợp lý và các bằng chứng và cách tính toán
khác này mới là đáng tin cậy hơn về giá trị hợp lý của công cụ vốn. Giá công bố
tại ngày trao đổi được coi là không đáng tin cậy vềgiá trị hợp lý khi công cụ vốn
đó được giao dịch trên thị trường có ít giao dịch ”. Phương pháp thị trường
khi xác định giá trị của công cụ vốn.
2. Phương pháp tiếp cận thu nhập: (Income approach)
Theo phương pháp tiếp cận thu nhập: Giá trị hợp lý của một tài sản hay một
khoản nợ được xác định bằng cách sử dụng các phương pháp kỹ thuật để quy
đổi các khoản tiền trong tương lai về giá trị hiện tại (Dòng tiền vào từ việc khai
thác, sử dụng tài sản hoặc dòng tiền ra để thanh toán nợ phải trả). Phương
pháp này dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẵn sàng trả giá
trị hiện tại của các lợi ích sẽ thu được của một tài sản trong tương lai.
Ví dụ :
Đối với các khoản ĐTTC trên thị trường không hoạt động (unactive market),
với sự suy giảm đáng kể về số lượng và mức độ các giao dịch của các khoản
ĐTTC, dẫn đến sự không tồn tại giá trị hợp lý tại thời điểm xác định. Trong
trường hợp này, để đo lường giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC, sẽ phải sử dụng

phương pháp tiếp cận thu nhập. Một trong các mô hình định giá đáng tin cậy và
thường được sử dụng để xác định giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC là mô hình
chiết khấu dòng tiền, hoặc mô hình định giá quyền chọn.
Giả sử: ngày 15/09/200N, Công ty A mua Trái phiếu chính phủ, trị giá 1.500
triệu đồng, mệnh giá 1 triệu đồng/trái phiếu, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm.
Kỳ trả lãi hàng năm, tại ngày 15/09 hàng năm. Tại ngày mua, lãi suất thị
trường cho công cụ tương đương có cùng đặc tính là 10%/năm. Công ty A ghi
nhận ban đầu khoản đầu tư mua trái phiếu theo giá trị hợp lý. Nhưng vì khoản
đầu tư này được giao dịch trên thị trường không năng động, nên Công ty A sẽ sử
dụng phương pháp định giá theo chiết khấu dòng tiền để xác định giá trị hợp lý
của khoản đầu tư này. Giá trị hợp lý của khoản ĐTTC được tính toán qua bảng
số liệu sau (bảng số 1)
Bảng số 1: Xác định giá trị hợp lý của khoản ĐTTC trên thị trường không
năng động (đvt: đồng)
Như vậy, trong trường hợp này, giá trị hợp lý của khoản đầu tư trái phiếu Chính
phủ của công ty A được ghi nhận trên thị trường không năng động là
1.386.276.397 đồng.
3. Phương pháp tiếp cận chi phí: (Cost approach)
Giá trị hợp lý của một tài sản được xác định trên cơ sở xem xét các chi phí phải
bỏ ra để có được một tài sản thay thế tương đương về năng lực sản xuất (Dòng
tiền phải chi để mua, sản xuất tài sản). Phương pháp chi phí thường không xem
xét điều kiện thị trường nên thường không được sử dụng trong thực tế, ngoại
trừ để xác định giá trị hợp lý của một phần máy móc thiết bị hoặc giá trị các
công trình xây dựng cơ bản.
Ví dụ 1: Ước tính giá trị hợp lý cho một tái sản của doanh nghiệp có được do
hợp nhất, được sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp.
a. Mục đích định giá: Để sử dụng.
b. Xác định cấp độ: Cấp độ 3, không có giá tham chiếu
c. Áp dụng các phương pháp:
+) Phương pháp tiếp cận thị trường: Người sử dụng không sử dụng

phương pháp tiếp cận thị trường vì không có giá tham chiếu.
+) Phương pháp tiếp cận chi phí: Ước tính chi phí để tạo ra phân phần
mềm là 15 triệu đồng.
+) Phương pháp tiếp cận thu nhập: Tái sản này dùng cho hoạt động cho
doanh nghiệp,ước tính hiện dòng thu nhập từ việc sử dụng tài sản này là
100 triệu đồng.
d. Lựa chọn giá:
Người định giá đã khẳng định phương pháp chi phí đã xem xét đến toàn
bộ chi phí cần thiết để thay thế tái sản này. Mặc dù có tính chất suy đoán
nhưng phương pháp này có độ tin cậy hơn pháp tiếp cận thu nhập, bởi vì
dòng thu nhập tạo ra từ tái sản này là không chắc chắn: doanh nhiệp sử
dụng phần mềm cho hoạt động của doanh nghiệp cùng với các tái sản
khác nên không thể tách riêng dòng thu nhập tạo ra từ việc sử dụng phần
mềm. Vì vậy giá trị hợp lý trong trường hợp này là 15 triệu đồng.
Ví dụ 2: Tài sản đó dùng để bán,ước tính dòng thu nhập từ việc bán tài sản
là 100 triệu đồng thì giá trị hợp lý của phần mềm này là bao nhiêu?
a. Mục đích định giá: Định giá trong trao đổi
b. Xác định cấp độ: Cấp độ 3, không có giá tham chiếu
c. Áp dụng các phương pháp:
+) Phương pháp tiếp cận thị trường: Không thể chỉ sử dụng phương pháp
nhày vì không có giá tham chiếu của phần mềm tương tự. Các thông tin
có thể khai thác từ thị trường là: nhu cầu của phần mềm, khả năng cung
ứng phần mềm này của các doanh nghiệp khác, ưu điểm của phần mềm
đang định giá so với các phương pháp khác…
+) Phương pháp tiếp cận chi phí: ước tính chi phí để tạo ra phần mềm là
15 triệu đồng.
+) Phương pháp thu nhập: Ước tính dòng thu nhập từ việc bán phần mềm
là 100 triệu đồng trên cơ sở những thông tin thu thập được từ thị trường
ở trên,… người định giá ước tính chắc chắn rằng thu nhập thu được từ
việc bán phần mềm trên là 100 triệu đồng.

d. Lựa chọn giá hợp lý:
Cả hai giá đều mang tính chất ước tính. Tính đáng tin cậy của nó phụ
thuộc vào mục đích định giá. Ở phương pháp tiếp cận chi phí, có thể
người định giá đã xem xét toàn bộ các chi phí để có được tài sản thay thế,
tuy nhiên nó vẫn mang tính ước tính và suy đoán cao so với phương pháp
thu nhập.Khi dòng thu nhập từ việc bán tài sản này khá chắc chắn với con
số 100 triệu đồng.
SƠ ĐỒ TỔNG QUÁT CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ HỢP LÝ

III. Ưu nhược điểm của giá trị hợp lý:
Nguyên tắc giá gốc được xem là nền tảng đo lường của kế toán nhưng không
tránh khỏi những hạn chế như việc phản ánh không đúng giá trị thì trường của
tài sản của DN đặc biệt là các công cụ tài chính, cung cấp thông tin sai lệch về
DN, làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp và những người quan tâm đến thông tin
của DN. Vì vậy sự xuất hiện của giá trị hợp lý có
Ưu điểm sau đây:
1 Phản ánh chính xác giá trị các công cụ tài chính, sát với giá thực tế đang giao
dịch trên thị trường
Như vậy, Giá trị hợp lý đã khắc phục được nhược điểm của giá gốc. Theo
chuẩn mực quốc tế IFRS 13, GTHL được áp dụng trong việc đo lường các nghiệp
vụ phát sinh, đo lường tài sản và nợ phải trả sau ghi nhận ban đầu và dùng
trong việc đánh giá giá trị giảm của tài sản, chính sự áp dụng này cho phép tài
sản của DN luôn được đánh giá theo đúng giá trị thực của chúng trên thị
trường, qua đó đánh giá chính xác hoạt động của công ty.
VD: Khi kết thúc kỳ kế toán, giá trị của các khoản ĐTTC của doanh nghiệp được
trình bày trên Bảng cân đối kế toán theo giá gốc – giá trị ghi nhận ban đầu.
Theo chuẩn mực kế toán (VAS) 18, nếu các khoản đầu tư tài chính này bị giảm
giá hoặc bị tổn thất do tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp đang đầu tư vào bị lỗ,
thì doanh nghiệp sẽ phải trích lập dự phòng theo quy định. Tuy nhiên, nếu giá trị
các khoản ĐTTC của doanh nghiệp tăng lên (do giá cổ phiếu tăng…), thì khoản

chênh lệch này lại không được phản ánh và ghi nhận. Ngược lại, khi áp dụng pp
giá trị hợp lý để ghi nhận các khoản đầu tư này thì hàng năm nó sẽ được đánh
giá theo đúng giá thị trường đang giao dịch.
2. Phản ánh ngày càng khách quan hơn.
Giá trị hợp lý cung cấp một cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc đánh giá lại tài
sản. Để xác định GTHL cần dựa vào thông tin về giá của tài sản và khoản nợ trên
thị trường. Khi doanh nghiệp muốn đánh giá lại giá trị khoản đầu tư tài chính
của mình thì có thể dựa vào bảng niêm yết giá của sàn giao dịch làm cơ sở xác
định. Từ đó, việc minh bạch hóa công khai các thông tin đc mở rộng và do đó tin
cậy cao .

3. Phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới
Chúng ta đã biết chuẩn mực kế toán VN được xây dựng dựa trên chuẩn mức kế
toán quốc tế nên việc sủa đổi hay áp dụng các điểm mới là cần thiết. Đặc biệt
trong nền kinh tế toán cầu hóa này, có rất nhiều DN đầu tư ra nước ngoài và
ngược lại cũng có nhiều DN nước ngoài đầu tư vào VN thì việc hội nhập của các
chuẩn mực là hết sức quan trọng.
Bên cạnh đó, cách xác định theo giá trị hợp lý vẫn tồn tại
Nhược điểm:
1. Tính đáng tin cậy của giá trị hợp lý
Trong trường hợp không có thị trường hoạt động hiệu quả cho tài sản và
khoản nợ phải trả cần tính giá thì việc sử dụng các giả định, mô hình tính toán
sẽ khó đạt được độ tin cậy cho dù các mô hình được áp dụng một cách khách
quan, các giả định được yêu cầu công bố.
2. Tính so sánh của thông tin tài chính
Để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị và theo thời gian, người
sử dụng thông tin cần thông tin về thu nhập, chi phí và kết quả theo thời gian.
Nếu kết quả hoạt động kinh doanh được ghi nhận trên cơ sở biến động về giá trị
hợp lý thì thông tin kết quả hoạt động sẽ có ít ý nghĩa trong đánh giá hiệu quả
hoạt động hiện tại và xu hướng biến động trong tương lai của kết quả kinh

doanh vì sự biến động giá trị hợp lý hoàn toàn do các yếu tố của thị trường.
3. Tính dễ hiểu của thông tin tài chính khi áp dụng pp giá trị hợp lý
Khi các thông tin thị trường không có sẵn, việc xác định giá trị hợp lý dựa
vào việc thu thập thông tin, xác định mức độ điều chỉnh giá thị trường, xác định
các giả định và số liệu đầu vào cho các công thức toán học thuần tuý trong các
mô hình định giá sẽ làm giảm tính dễ hiểu của các thông tin trên báo cáo tài
chính.
Ngoài ra, hạn chế của cơ sở tính giá này thể hiện rõ khi nó được áp dụng để
đánh giá các tài sản mà doanh nghiệp không có ý định bán, thanh toán trong
ngắn hạn. Người sử dụng thông tin tài chính sẽ khó có thể hiểu ý nghĩa kinh tế
của các khoản thu nhập phát sinh do biến động tăng giá trị hợp lý của một số tài
sản trong khi mục đích nắm giữ tài sản này của doanh nghiệp là để có doanh thu
trong dài hạn, chứ không phải bán tài sản trong ngắn hạn.
IV. Đề xuất giải pháp và định hướng sử dụng GTHL trong hệ thống kế
toán VN
- Từng bước hoàn chỉnh một hệ thống thị trường hoạt động; đồng bộ và minh
bạch hóa hành lang pháp lý về kinh doanh. Thị trường hàng hóa và thị trường
tài chính Việt Nam phải được xây dựng ngày càng hoạt động để đáp ứng nhu
cầu tìm kiếm các dữ liệu tham chiếu trong đo lường GTHL từ đó nâng cao tính
tin cậy của GTHL.
- Bổ sung, cập nhật, hoàn thiện nội dung các chuẩn mực kế toán hiện hành có
liên quan đến GTHL theo hướng tiếp cận các CMKT quốc tế. Các quy định bổ
sung cần hướng đến việc tạo lập sự thống nhất, theo đó, cần quy định trong
chuẩn mực các yêu cầu trình bày thông tin về GTHL.
- Sử dụng GTHL phải phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam;
việc tiến tới sử dụng GTHL như là một cơ sở định giá chủ yếu trong kế toán cần
phải có lộ trình hợp lý.
D. GIÁ TTRỊ PHÂN BỔ
I.Khái niệm giá trị phân bổ
Giá trị phân bổ của tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính: Được

xác định bằng giá trị ghi nhận ban đầu của tài sản tài chính hoặc nợ phải trả
tài chính
 trừ đi các khoản hoàn trả gốc
 trừ đi các khoản giảm trừ (trực tiếp hoặc thông qua việc sử dụng một tài
khoản dự phòng) do giảm giá trị hoặc do không thể thu hồi.
 cộng hoặc trừ các khoản phân bổ lũy kế tính theo phương pháp lãi suất
thực của phần chênh lệch giữa giá trị ghi nhận ban đầu và giá trị đáo hạn.
Giá trị
phân bổ
= Giá gốc -
Trả
gốc
-
Giảm giá,
không thu
hồi được
+/-
Khấu
hao tích
lũy
Trong đó:
 Giá trị phân bổ là giá trị được chấp nhận của công cụ tài chính tại thời
điểm định giá (sau khi tính toán ra theo công thức)
 Giá gốc là giá trị ban đầu của công cụ tài chính, được ghi nhận ban đầu.
Đối với nợ là gốc vay khi phát sinh, với khoản đầu tư là số tiền bỏ ra
ban đầu.
 Trả gốc là các khoản chi trả tiền vay đối với nợ hay các khoản thu nhập
đối với khoản đầu tư,
 Giảm giá, không thu hồi được là các khoản làm giảm giá trị của khoản
nợ / đầu tư, VD: chấp nhận xóa bớt nợ, nợ xác định không thể thu hồi.

 Khấu hao tích lũy là tổng các dòng tiền tích lũy từ lúc phát sinh khoản
nợ / đầu tư tới ngày định giá, các dòng tiền này được tính theo phương
pháp lãi suất thực hoặc phương pháp đường thẳng nhằm điều chỉnh
giá trị của công cụ tài chính sao cho hợp lý.
II.Điều kiện áp dụng giá trị phân bổ
2.1 Tài sản tài chính
Theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế số 9
Một công cụ nợ thỏa mãn hai điều kiện sau có thể được đo lường theo giá trị
phân bổ:
• Loại hình kinh doanh: Mục đích mô hình kinh doanh của thực thể là nắm
giữ tài sản tài chính nhằm thu lấy dòng tiền mang tính chất hợp đồng
(chứ không phải là để bán công cụ đó và thu lấy khoản chênh lệch giá trị
hợp lý của tài sản)
• Đặc tính của dòng tiền: Điều khoản trong hợp đồng của tài sản tài chính
đó quy định sẵn ngày nhận được các dòng tiền, và dòng tiền đó được
thanh toán gốc và lãi trên số dư nợ gốc.
Công cụ nợ (Debt instrument): những tài sản tài chính mang lại cho người nắm
giữ nó quyền hưởng một lượng tiền cố định, được ấn định trước (như trái phiếu
kho bạc, trái phiếu công ty, các khoản vay,…)
Ví dụ: trường hợp tài sản tài chính không được đo lường theo giá trị
phân bổ
Trái phiếu chuyển đổi. Do TP chuyển đổi là trái phiếu có thể được chuyển
thành cổ phiếu thường vào một thời điểm xác định trước trong tương lai (tức là
đã chuyển thành công cụ vốn chủ sở hữu). Điều này phụ thuộc vào điều kiện thị
trường và quyết định của nhà đầu tư (chuyển đổi tự nguyện) hoặc của đơn vị
phát hành (chuyển đổi bắt buộc).
Tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính nếu không được áp dụng giá trị
phân bổ thì sẽ áp dụng giá gốc hoặc giá trị hợp lý.
Các loại tài sản tài chính được đo lường theo giá trị phân bổ:
Theo IAS 39 ( International Accounting Standard 39)

-Các khoản vay và phải thu là các tài sản tài chính phi phái sinh với các khoản
thanh toán cố định hoặc có thể xác định được mà không được niêm yết trên thi
trường hoạt động, không phải nắm giữ để mua bán hoặc được chỉ định ghi nhận
ban đầu theo giá trị hợp lý thông qua hoạt động kinh doanh hay tài sản sẵn
sang để bán. Các khoản vay và phải thu như trên được đo lường theo giá trị
phân bổ.
-Các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn: Là các tài sản tài chính phi
phái sinh với các khoản thanh toán cố định hoặc có thể xác định và có kỳ đáo
hạn cố định mà đơn vị có ý định và có khả năng giữ đến ngày đáo hạn, những
khoản đầu tư này thì không xác định được là khoản cho vay hay phải thu và
không được ghi nhận ban đầu như tài sản đo lường theo giá trị hợp lý qua hoạt
động kinh doanh hay tài sản sẵn sàng để bán. Những khoản đầu tư nắm giữ đến
ngày đáo hạn thì được đo lường theo giá trị phân bổ
2.2 Nợ phải trả tài chính
Các khoản nợ phải trả tài chính nắm giữ với mục đích trao đổi, buôn bán thì
được xác định theo giá trị hợp lý, những khoản nợ tài chính còn lại được đo
lường theo giá trị phân bổ trừ khi tùy chọn giá trị hợp lý được áp dụng.
Những trường hợp nợ phải trả tài chính không được đo lường theo giá trị phân
bổ:
• Nợ phải trả tài chính được đo lường theo giá trị hợp lý thông qua hoạt
động kinh doanh
• Các hợp đồng bảo lãnh tài chính
• Các cam kết cung cấp một khoản vay với tỷ lệ lãi suất thấp hơn thị
trường.
III.Các phương pháp tính giá trị phân bổ
Có 2 phương pháp tính giá trị phân bổ:
- Phương pháp lãi suất thực (Effective interest method)
- Phương pháp đường thẳng ( Straight-line method)
1.Phương pháp lãi suất thực (Effective interest method)
1.1. Khái niệm

a, Phương pháp lãi suất thực tế là phương pháp dùng để:
Là phương pháp tính toán giá trị phân bổ của một hoặc một nhóm tài sản
tài chính hoặc nợ phải trả tài chính và phân bổ thu nhập lãi hoặc chi
phí lãi trong kỳ có liên quan.
b, Tỷ lệ lãi suất thực là tỷ lệ lãi suất chiết khấu các dòng tiền ước tính sẽ
chi trả hoặc nhận được trong tương lai trong suốt vòng đời của công cụ
tài chính hoặc ngắn hơn, nếu cần thiết, trở về giá trị ghi sổ hiện tại
thuần của tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính (TT 210/2009-BTC)
c, Thu nhập lãi hay chi phí lãi được tính bằng giá trị thuần của tài sản
tài chính hay nợ phải trả tài chính tại ngày đầu kỳ đó nhân với tỷ lệ lãi suất thực
tế.
Thông thường, tỷ lệ lãi suất thực tế (EI) sẽ chính là lãi suất ngoài thị trường

×