Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Trồng trọt trong mùa lũ tại thành phố Long Xuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.46 KB, 81 trang )

ĐỖ THỊ THANH THẢO
MSSV: DPN010659
MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG TRỌT TRONG MÙA LŨ
TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN NĂM 2004
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
ThS. Nguyễn Thanh Triều
Tháng 7. 2005
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG TRỌT TRONG MÙA LŨ
TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN NĂM 2004
Do sinh viên: Đỗ Thị Thanh Thảo thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long Xuyên, ngày … tháng … năm 2005
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
ThS. Nguyễn Thanh Triều
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm với tên đề tài:
MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG TRỌT TRONG MÙA LŨ TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
NĂM 2004
Do sinh viên: Đỗ Thị Thanh Thảo
Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày:..........................................................
Luận văn đã được Hội đồng đánh giá ở mức:......................................................
Ý kiến của Hội đồng:............................................................................................


..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Long Xuyên, ngày … tháng … năm 2005
DUYỆT Chủ Tịch Hội Đồng
BAN CHỦ NHIỆM KHOA NN – TNTN


3
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: Đỗ Thị Thanh Thảo
Ngày tháng năm sinh: 17/12/1982
Nơi sinh: Mỹ Phước – Long Xuyên – An Giang
Con Ông: Đỗ Thanh Tùng
Và Bà: Huỳnh Thị Kiệm
Địa chỉ: 115/5A, Đông Thịnh 2 – Phường Mỹ Phước – TP Long Xuyên – An
Giang.
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2000 tại trường PTTH Long Xuyên.
Vào Trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN1 khóa 2 thuộc khoa
Nông Nghiệp và Tài Nguyên Thiên Nhiên và đã tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát Triển
Nông Thôn năm 2005.
4
Hình 4 x 6
CẢM TẠ
Luôn nhớ ơn cha mẹ đã suốt đời vì sự nghiệp và tương lai của con.
- Chân thành biết ơn
Qúi Thầy – Cô trường Đại Học An Giang, đặc biệt quí Thầy Cô trong khoa

Nông Nghiệp – Tài Nguyên Thiên Nhiên, đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho
tôi trong thời gian học tập tại trường và đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Thầy Nguyễn Thanh Triều đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện
Luận Văn Tốt Nghiệp.
Thầy Dương Ngọc Thành đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi tiến hành đề tài
này.
- Xin chân thành cảm ơn
Trạm khuyến nông, trạm bảo vệ thực vật; phòng kinh tế của thành phố Long
Xuyên đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi thực hiện Luận Văn Tốt Nghiệp.
Bà con nông dân đã cung cấp thông tin và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình
thu thập số liệu cho đề tài.
Các bạn cùng khóa học đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập tại trường.
Đỗ Thị Thanh Thảo
5
TÓM LƯỢC
Đề tài nghiên cứu về một số mô hình canh tác trong mùa lũ năm 2004 trên địa
bàn thành phố Long Xuyên được thực hiện bằng cách thu thập số liệu về tình hình sản
xuất và đời sống của các hộ nông dân trong mùa lũ năm 2004 nhằm tổng kết và đánh giá
hiệu quả kinh tế của mô hình canh tác lúa vụ 3, rau màu, rau nhút và nấm rơm sản xuất
trong mùa lũ.
Đối với mô hình canh tác lúa vụ 3 thì tuổi trung bình của chủ hộ khá lớn (51
tuổi), chủ hộ có trình độ văn hóa cấp 2 là chủ yếu (chiếm 40%) và kinh nghiệm sản xuất
tương đối lâu năm. Diện tích canh tác lúa vụ 3 trung bình là 1,09 ha. Qua điều tra thì
năng suất trung bình mà các hộ trồng lúa đạt được là 5,28 tấn/ha với tổng chi phí bỏ ra
trong sản xuất lúa là 5,3 triệu đồng, nông dân thu được 12,81 triệu đồng và lợi nhuận đạt
được là 7,51 triệu đồng/ha/vụ. Hiệu quả đồng vốn trong canh tác lúa vụ 3 là 1,58. Ở mô
hình này người dân chủ yếu nhận thông tin phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như các
chương trình khuyến nông và hướng dẫn kỹ thuật từ ti vi và kỹ thuật viên ở phường, xã.
Các chương trình tập huấn và hội thảo được tổ chức thường xuyên đã giúp nông dân

trồng lúa sản xuất đạt hiệu quả.
Với mô hình canh tác rau màu, tuổi trung bình của chủ hộ ở mức 46 tuổi, chủ hộ
có trình độ văn hóa cấp 1 là chủ yếu (chiếm 46,7%) và kinh nghiệm sản xuất không cao
(trong khoảng từ 6 – 10 năm chiếm đa số). Diện tích canh tác rau màu trung bình là 0,08
ha, nếu tính trên đơn vị diện tích là 1000 m
2
thì tổng chi phí nông dân chi ra trong sản
xuất rau màu là 1,71 triệu đồng/vụ, họ thu được 3,23 triệu đồng/vụ và lợi nhuận đạt được
là 1,52 triệu đồng/vụ. Ở mô hình này người dân chủ yếu nhận thông tin phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp từ ti vi và kỹ thuật canh tác của họ phần lớn là dựa vào kinh nghiệm
bản thân.
Với mô hình canh tác rau nhút, tuổi trung bình của chủ hộ tương đối cao (52
tuổi), số chủ hộ lớn hơn 55 tuổi chiếm đa số (40%), chủ hộ có trình độ văn hóa cấp 2 là
chủ yếu (chiếm 40%) và kinh nghiệm sản xuất còn thấp. Diện tích canh tác rau nhút
trung bình là 0,37 ha, qua điều tra thì tổng chi phí nông dân bỏ ra để trồng rau nhút trong
6
mùa lũ là 13,19 triệu đồng/ha, nông dân thu được 28,34 triệu đồng/ha và lợi nhuận đạt
được là 15,15 triệu đồng/ha. Ở mô hình này người dân chủ yếu nhận thông tin phục vụ
cho sản xuất từ ti vi và bà con xung quanh.
Với mô hình canh tác nấm rơm trong mùa lũ thì tuổi trung bình của chủ hộ là 44
tuổi. Họ có trình độ văn hóa cấp 1 là chủ yếu (chiếm 56,7%) và kinh nghiệm sản xuất
cũng thấp như ở mô hình trồng rau màu và rau nhút do các mô hình này chỉ mới phát
triển trong những năm gần đây. Diện tích canh tác nấm trung bình là 0,08 ha. Qua điều
tra, năng suất trung bình mà các hộ trồng nấm rơm đạt được là 1,24 kg/m mô, với tổng
chi phí bỏ ra là 294.149 đồng/100 m mô, nông dân thu được 843.213 đồng/100 m mô và
lợi nhuận đạt được là 549.064 đồng/100 m mô.
7
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ i

TÓM LƯỢT ii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH x
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Long Xuyên 3
2.2. Hiện trạng sử dụng đất 4
2.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Long Xuyên 4
2.4. Một số mô hình canh tác trong mùa lũ 6
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
3.1. Phương tiện nghiên cứu 9
3.2. Phương pháp nghiên cứu 9
3.3. Phân tích thống kê 9
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 10
4.1. Phân bố mẫu điều tra ở các phường, xã của Thành Phố 10
4.2. Đặc điểm chung của nông hộ điều tra 12
4.2.1. Tuổi của chủ hộ 12
4.2.2. Trình độ văn hóa của chủ hộ 13
4.2.3. Kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ 14
4.2.4. Tuổi các thành viên khác trong nông hộ 16
4.2.5. Nhân khẩu và giới tính các thành viên trong nông hộ 17
4.2.6. Tổng diện tích đất của nông hộ 18
4.2.7. Diện tích đất sử dụng trong canh tác của các mô hình điều tra
trong màu lũ năm 2004 19
4.2.8. Phương tiện sản xuất của nông hộ 20
4.3. Thu nhận thông tin phục vụ cho sản xuất nông nghiệp 21
4.3.1. Nguồn thông tin phục vụ cho sản xuất nông nghiệp 21

4.3.2. Khả năng tiếp cận thị trường của nông hộ 24
4.4. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa vụ 3 của các hộ nông
dân ở Thành phố Long Xuyên năm 2004 25
4.4.1. Kỹ thuật canh tác 25
8
4.4.2. Hiệu quả kinh tế 28
4.5. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác rau màu tại thành phố
Long Xuyên năm 2004
4.5.1. Kỹ thuật canh tác 29
4.5.2. Hiệu quả kinh tế 32
4.6. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác rau nhút tại thành phố
Long Xuyên trong mùa lũ năm 2004 34
4.6.1. Kỹ thuật canh tác 34
4.6.2. Hiệu quả kinh tế 36
4.7. Hiệu quả kinh tế của mô hình trồng nấm rơm 37
4.8. Thu nhập của nông hộ 39
4.9. Yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông hộ ở 3 mô hình lúa, rau màu và
rau nhút tại thành phố Long Xuyên năm 2004 40
4.9.1. Tín dụng 40
4.9.2. Các yếu tố quyết định thành công cho mô hình 42
4.10. Chi tiêu trong gia đình của nông hộ trong 3 mô hình canh tác tại
thành phố Long Xuyên năm 2004 43
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 45
5.1. Kết luận 45
5.2. Đề nghị 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
PHỤ CHƯƠNG
Phụ chương 1
Phụ chương 2
pc-1

pc-1
pc-2
9
29
DANH SÁCH BẢNG
Bảng số Tựa bảng Trang
1 Hiệu quả sản xuất lúa vụ Đông Xuân và Hè Thu trong năm
2004 tại thành phố Long Xuyên, An Giang 5
2 Diện tích gieo trồng cây màu năm 2004 tại thành phố Long
Xuyên, An Giang 6
3 Phân bố các phiếu điều tra của 4 mô hình canh tác tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 10
4 Tuổi của chủ hộ ở các mức phân chia khác nhau trong 4 mô
hình canh tác tại thành phố Long Xuyên năm 2004 12
5 Trình độ văn hóa chủ hộ trong 4 mô hình canh tác tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 13
6 Tuổi các thành viên khác trong nông hộ điều tra ở 4 mô hình
tại thành phố Long Xuyên năm 2004 16
7 Số nhân khẩu trong nông hộ điều tra ở 4 mô hình tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 17
8 Diện tích đất của nông hộ ở các mức độ phân chia khác nhau
trong 4 mô hình canh tác tại thành phố Long Xuyên năm
2004 18
9 Diện tích đất sử dụng cho 4 mô hình canh tác trong mùa lũ
của nông hộ ở thành phố Long Xuyên năm 2004 19
10 Các loại phương tiện nghe nhìn và phương tiện đi lại của
nông hộ trong 3 mô hình canh tác tại thành phố Long Xuyên
năm 2004 20
11 Các loại phương tiện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của
nông hộ trong 3 mô hình canh tác tại thành phố Long Xuyên

năm 2004 21
12 Tỷ lệ (%) chủ hộ có thu nhận các nguồn thông tin phục vụ
trong sản xuất nông nghiệp ở 3 mô hình tại thành phố Long
Xuyên năm 2004 22
13 Thu nhận thông tin sản xuất nông nghiệp và tập huấn kỹ
thuật của nông hộ ở 3 mô hình canh tác tại thành phố Long
Xuyên năm 2004 23
10
14 Tỷ lệ (%) chủ hộ đồng ý chọn các yếu tố để sản xuất và
thông tin giá bán 24
15 Các giống lúa được sử dụng trong canh tác lúa vụ 3 tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 25
16 Các hoạt động trong canh tác lúa vụ 3 của nông dân tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 26
17 Các loại phân bón sử dụng trong canh tác lúa vụ 3 của nông
dân ở thành phố Long Xuyên năm 2004 27
18 Hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa vụ 3 tại thành phố Long
Xuyên năm 2004 28
19 Các hoạt động trong canh tác rau màu của nông dân tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 29
20 Lượng phân bón sử dụng trong canh tác rau màu của nông
dân tại thành phố Long Xuyên năm 2004 30
21 Hiệu quả kinh tế trong canh tác rau màu tại thành phố Long
Xuyên năm 2004 33
22 Các hoạt động trong canh tác rau nhút của nông dân tại thành
phố Long Xuyên năm 2004 34
23 Hiệu quả kinh tế trong canh tác rau nhút tại thành phố Long
Xuyên trong mùa lũ năm 2004 37
24 Hiệu quả kinh tế trong mô hình canh tác nấm rơm 38
25 Thu nhập trong năm của nông hộ ở 4 mô hình canh tác tại

thành phố Long Xuyên năm 2004 40
26 Tình hình vay vốn của nông hộ trong 3 mô hình canh tác tại
thành phố Long Xuyên năm 2004 41
27 Yếu tố quyết định thành công cho 3 mô hình canh tác tại
thành phố Long Xuyên năm 2004 42
28 Chi tiêu gia đình của nông hộ trong 3 mô hình canh tác tại
thành phố Long Xuyên năm 2004 43
1 Kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ ở 4 mô hình canh tác trong
mùa lũ tại thành phố Long Xuyên năm 2004 pc-1
2 Hiệu quả kinh tế của 4 mô hình canh tác trong mùa lũ tại
thành phố Long Xuyên năm 2004 pc-1
11
DANH SÁCH HÌNH
Hình số Tựa hình Trang
1 Địa bàn điều tra trên 5 phường, xã của thành phố Long
Xuyên 11
2 Tỷ lệ (%) các mức độ khác nhau về kinh nghiệm sản xuất
của chủ hộ ở 4 mô hình canh tác tại thành phố Long Xuyên
năm 2004 15
12
Chương 1 GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
An Giang là một tỉnh đầu nguồn lưu vực sông Cửu Long. Với nguồn nước ngọt
phong phú, khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ được phù sa bồi đắp hàng năm đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tỉnh phát triển nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Nhưng
lại phải thường xuyên đối phó với thiên tai, lũ lụt hàng năm, nhất là những năm lũ lớn đã
gây thiệt hại đáng kể đến tính mạng và tài sản của nhân dân, đặc biệt là gây nhiều trở
ngại cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Là một phần của tỉnh An Giang nên thành phố Long Xuyên cũng chịu ảnh
hưởng của nước lũ hàng năm đổ về từ tháng 7 đến tháng 11 dương lịch. Có tổng diện

tích đất nông nghiệp là 6.449 ha, nước lũ đã làm phần lớn đất đai của thành phố bị ngập.
Nó ảnh hưởng phần nào đến đời sống và sản xuất của nông dân trên địa bàn. Nhưng ngày
nay, lũ lụt đã không còn là trở ngại lớn đối với đại bộ phận người dân sống ở vùng nông
thôn bởi họ đã biết tận dụng những lợi thế do lũ mang lại. Bên cạnh các ngành nghề đánh
bắt, nuôi trồng thủy sản gắn liền với mùa nước lũ, song song đó họ cũng tiến hành các
hoạt động trồng trọt, tạo nên sự đa dạng các loại cây trồng ngay trong mùa nước nổi.
Để biết được những thuận lợi, khó khăn cũng như hiệu quả kinh tế của một số
mô hình canh tác trong mùa lũ nên tôi tiến hành đề tài “Một số mô hình trồng trọt trong
mùa lũ tại thành phố Long Xuyên năm 2004”. Qua đó, có thể đề xuất những mô hình
canh tác có hiệu quả, giúp nông dân có thêm cơ hội lựa chọn cho mình phương án sản
xuất phù hợp, tạo ra sản phẩm đem lại lợi nhuận cao và tăng nguồn thu nhập trong mùa
nước nổi.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tổng kết một số mô hình canh tác trong mùa lũ năm 2004.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình này.
- Đề xuất những phương án sản xuất và mô hình canh tác có hiệu quả, đem lại
lợi nhuận cao cho nông dân.
13
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Long Xuyên
Thành phố Long Xuyên có diện tích tự nhiên là 106,87 km
2
, phía Tây Bắc giáp
với huyện Châu Thành; Đông Bắc giáp huyện Chợ Mới; Đông Nam giáp huyện Lấp Vò
(tỉnh Đồng Tháp); Nam giáp huyện Thốt Nốt (tỉnh Cần Thơ); Tây giáp huyện Thoại Sơn.
Gồm 9 phường là Bình Đức, Bình Khánh, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Xuyên, Mỹ Phước,
Mỹ Quý, Mỹ Thới, Mỹ Thạnh và 3 xã là các xã Mỹ Khánh, Mỹ Hòa Hưng, Mỹ Hòa (Ủy
Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
Có khí hậu nhiệt đới gió mùa (một mùa mưa và một mùa nắng) với nền nhiệt cao
và ổn định. Nhiệt độ trung bình năm của thành phố Long Xuyên là 28,7

0
C, nhiệt độ cao
nhất xuất hiện vào tháng 4 lên đến 30,4
0
C và nhiệt độ thấp nhất là 21,7
0
C xuất hiện vào
tháng 1. Số giờ nắng trong ngày cao (bình quân từ 7 đến 10 giờ/ngày) là điều kiện thuận
lợi cho sản xuất nông nghiệp và đáp ứng đầy đủ nhu cầu ánh sáng cho nhiều vụ sản xuất
trong năm của thành phố (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
Mùa mưa ở Long Xuyên bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 11, tổng
lượng mưa trong mùa mưa đạt đến 1.306 mm, nhưng trong mùa khô thì tổng lượng mưa
chỉ có 94,3 mm (từ tháng 12 đến tháng 4). Cả số ngày mưa và tổng số lượng mưa đều tập
trung nhiều vào mùa mưa với tỷ trọng khoảng 93,27%. Sự phân bố lượng mưa trung
bình giữa các tháng ở thành phố Long Xuyên khá điều hòa nên cường độ mưa không lớn
lắm. Do lượng mưa trong mùa mưa lớn, lại tập trung vào mùa nước lũ của sông MêKông
dồn về hạ lưu đã tạo ra tình trạng ngập lụt. Nó chi phối đến nhiều hoạt động sản xuất và
đời sống người dân, nhất là đối với khu vực nông thôn có đời sống phụ thuộc vào sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
Đối với tình hình thủy văn thì trên địa bàn thành phố Long Xuyên do có chế độ
bán nhật triều, với hai lần triều lên và hai lần triều xuống trong ngày chiếm ưu thế hơn so
với chế độ nhật triều nên rất có lợi cho việc tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng
lại bất lợi cho việc tiêu nước trong mùa lũ, đặc biệt lúc lũ lớn gặp triều cường (Ủy Ban
Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
14
2.2. Hiện trạng sử dụng đất
Toàn thành phố có tổng diện tích 10.687 ha, trong đó đất nông nghiệp là 6.449
ha; chiếm 60,34% tổng diện tích đất của thành phố; đất chuyên dùng 1.162 ha, chiếm
10,87%; đất ở có 1.905 ha, chiếm 17,83% và đất khác có 1.171 ha, chiếm 10,96%. Diện
tích đất sử dụng trong nông nghiệp ở các phường, xã được phân bố như sau: nhiều nhất

là phường Mỹ Thới có 1.523 ha (trong tổng số 2.000 ha đất của phường) và ít nhất là
phường Mỹ Phước có 189 ha. Còn lại là các xã Mỹ Hoà Hưng có 765 ha, Mỹ Khánh có
641 ha và phường Mỹ Quý có 201 ha diện tích đất sử dụng trong nông nghiệp (Phòng
thống kê thành phố Long Xuyên, 2004).
2.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Long Xuyên
Theo Phòng kinh tế thành phố Long Xuyên (2004), lũ năm 2003 nhỏ, rút sớm
nên thuận lợi cho xuống giống vụ Đông Xuân 2003 – 2004; lũ năm 2004 tuy lớn so với
năm 2003 nhưng chỉ ở mức trung bình. Do lũ về muộn, mực nước biến động nhỏ, nên
không ảnh hưởng nhiều cho sản xuất nông nghiệp; lúa được giá và các chính sách ưu đãi
đã được triển khai hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất của nông dân. Bên cạnh đó,
nhờ sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, sự nổ lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật
ngành nông nghiệp và nông dân trong việc đẩy mạnh sản xuất và ứng dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật. Hoạt động đó đã góp phần hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng
suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, tăng thu nhập trên một hecta diện tích đất sản xuất
cho nông dân.
Trong lĩnh vực trồng trọt, có tổng diện tích gieo trồng các loại cây cả năm 2004
trên địa bàn thành phố Long Xuyên là 13.103,94 ha, trong đó diện tích trồng lúa là
11.759,54 ha và diện tích trồng các loại cây màu là 1.344,4 ha (Phòng kinh tế thành phố
Long Xuyên, 2004).
Trong vụ Đông Xuân, nông dân đã tập trung tổ chức gia cố đê bao, bơm nước
nên thời gian xuống giống sớm, với diện tích là 5.747,17 ha; năng suất đạt 6,94 tấn/ha.
Trong vụ Hè Thu, do vụ lúa Đông Xuân thu hoạch sớm, nông dân có thời gian
cày ải, phơi đất, vệ sinh đồng ruộng. Bên cạnh đó còn nhờ các yếu tố thuận lợi về thời
15
tiết, thời vụ, nông dân sử dụng các giống lúa chất lượng cao và áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất nên năng suất lúa đạt được 5,17 tấn/ha.
Bảng 1: Hiệu quả sản xuất lúa vụ Đông Xuân và Hè Thu trong năm 2004 tại thành phố
Long Xuyên, An Giang
Chỉ tiêu Vụ Đông Xuân Vụ Hè Thu
Diện tích (ha) 5.747,17 5.443,27

Năng suất (tấn/ha) 6,94 5,17
Sản lượng (tấn) 39.885,00 28.157,61
(Nguồn: Phòng kinh tế thành phố Long Xuyên, 2004)
Kết quả sản xuất lúa vụ Đông Xuân – Hè Thu năm 2003 – 2004, nông dân đã sử
dụng lúa chất lượng cao để sản xuất đạt 99% diện tích, bao gồm các giống lúa như:
OM1490, OM2517, OMCS2000, OM3536, VD20, Jasmine, lúa Nhật,…
Đối với các loại rau thì cây rau dưa các loại chiếm diện tích khá lớn (301 ha ở vụ
Đông Xuân và 428,20 ha ở vụ Hè Thu).
Đặc biệt trong mùa nước nổi năm 2004, do tác động của các lớp đào tạo nghề ở
các phường xã đã phát triển mạnh nghề trồng nấm rơm; tận dụng 42,3 ha diện tích đất bờ
và sân phơi.
Với những loại cây trồng trên mặt nước, một số hộ nông dân tận dụng được 23,1
ha diện tích mặt nước ở những vùng lung, trũng, bãi bồi đã trồng các loại ấu, rau nhút,
sen,…(trong đó ấu: 4,5 ha; rau nhút: 14,3 ha và sen: 4,1 ha).
16
Bảng 2: Diện tích gieo trồng cây màu năm 2004 tại thành phố Long Xuyên, An Giang
Đơn vị tính: Ha
Loại cây trồng
Diện tích
Vụ Đông Xuân Vụ Hè Thu
Màu lương thực 8,70 4,70
*Bắp thường 7,90 2,70
* Khoai lang 0,80 2,00
Màu thực phẩm 324,08 442,20
* Đậu xanh 20,38 8,10
* Rau dưa các loại 301,00 428,20
* Dưa hấu 2,7 5,90
Màu công nghiệp + khác 43,62 282,50
* Đậu nành 10,10 134,00
* Mè 0,22 116,40

* Khác 33,30 32,10
Tổng diện tích gieo trồng 376,40 729,40
Trong đó cây màu trên đất lúa 6,80 298,20
(Nguồn: Phòng kinh tế thành phố Long Xuyên, 2004)
2.4. Một số mô hình canh tác trong mùa lũ
Theo kết quả khảo sát ở An Giang và Đồng Tháp của Nguyễn Tấn Khuyên
(2004) cho thấy, hoạt động trồng trọt trong mùa nước và trong địa bàn ngập sâu chỉ mới
bắt đầu và bước đầu đã đem lại lợi nhuận bổ sung cho bộ phận nông dân, song đây chỉ
mới dừng lại ở dạng mô hình nhỏ và sản xuất còn bấp bênh. Trong mùa nước lũ năm
2003, nông dân tổ chức trồng các loại hoa màu ở nơi đất cao, kiểm soát nước tốt với mức
đầu tư 1,5 – 2 triệu đồng/công thu lãi 1 – 1,2 triệu đồng/vụ, cách thức này thích hợp cho
các hộ nghèo ít đất. Sản suất lúa vụ 3 ở An Giang với năng suất bình quân đạt 4,7 tấn/ha,
sản lượng đạt 297 ngàn tấn chiếm 12,64% sản lượng của cả năm. Hoạt động tuy mang lại
thu nhập bổ sung khá lớn cho nông dân, nhưng lại đòi hỏi sự đầu tư lớn của xã hội (đê
bao khép kín, kiểm soát lũ triệt để) nên đã tăng chi phí cho nông dân. Đối với các loại
cây thủy sinh như: sen, ấu, rau muống ruộng,… được bố trí trên các mặt nước ao, lòng
hồ đất trũng, với mức đầu tư thấp khoảng 1 triệu đồng cho một công, đem lại thu nhập
cho nông dân từ 1,3 đến 1,5 triệu đồng/vụ.
17
Tại huyện Tân Châu thuộc tỉnh An Giang, phần lớn nông dân chủ yếu tập trung
vào trồng bắp lai, ngoài ra, một vài hộ trồng cải và đậu. Đối với bắp lai do giá cả thường
ổn định và dễ trồng nên có thể trồng được trên diện tích lớn (đôi khi có thể trồng đến 1
ha/hộ), nhưng lợi nhuận không cao và thời gian trồng kéo dài khoảng 90 ngày/vụ. Do đó,
chỉ có thể trồng 3 vụ/năm, lợi nhuận giữa các vụ không chênh lệch nhau nhiều, đạt
873,55 ngàn đồng/công (vụ 1), 976,25 ngàn đồng/công (vụ 2) và 658,93 ngàn đồng/công
ở vụ 3. Tổng lợi nhuận 3 vụ đạt 2,51 triệu đồng/công. Trước khi đê bao vùng này chỉ
trồng 2 vụ/năm. Như vậy, bao đê đã nâng số vụ canh tác lên cũng là tăng nguồn thu nhập
của các hộ nông dân (Dương Văn Nhã, 2004).
Tại xã Kiến Thành thuộc huyện Chợ Mới, mô hình sản xuất chủ yếu trong mùa
lũ là trồng lúa vụ 3. Trong đó, diện tích sản xuất bình quân là 1,39 ha/hộ, giống lúa được

sử dụng chủ yếu là OM1490, OM2031, OMCS2000 đạt hiệu quả kinh tế cao, bình quân
lợi nhuận thu được từ 600 – 700 ngàn đồng/công (năng suất đạt 4 – 5 tấn/ha, giá lúa
1.800 – 1.900 đồng/kg). Trong khi đó tại xã Khánh Hòa thuộc huyện Châu Phú, sản xuất
lúa trong vụ 3 với diện tích bình quân là 0,65 ha/hộ, các giống lúa được nông dân huyện
Châu Phú sử dụng chủ yếu là OMCS2000, OM1490 và AS996. Năng suất bình quân đạt
đến 5,17 tấn/ha, giá bán 1.953 đồng/kg (cao hơn so với giá lúa tại xã Kiến Thành) nhưng
lãi thu được chỉ có 600.000 đồng/công (Phan Văn Ninh, 2004).
Đối với mô hình canh tác màu như hành, hẹ, dưa leo, ngò,… được nông dân
huyện Châu Phú trồng với giá bán được là 2.750 đồng/kg, mức đầu tư cho một công
khoảng 1,2 triệu đồng, nông dân bán 3,6 triệu đồng/công và thu được 2,7 triệu đồng/công
(Phan Văn Ninh, 2004).
Tại xã Kiến An thuộc huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, phần lớn nông dân trồng 4
vụ/năm, tùy theo từng loại cây (đôi khi có thể trồng 5 vụ/năm nhưng năng suất thấp do
không có thời gian phơi đất), các loại màu vùng này chủ yếu là hành, hẹ, khổ qua, sà
lách, mồng tơi, ớt,… Lợi nhuận biến động từ 1,81 – 2,72 triệu đồng/công ở vụ 1, vụ 2 và
vụ 3; riêng ở vụ 4 hiệu quả kinh tế cao hơn và lợi nhuận đạt 4,28 triệu đồng/công. Tổng
lợi nhuận đạt 11,42 triệu đồng/công, hiệu quả sử dụng đồng vốn là 1,53; cao hơn rất
nhiều so với huyện Tân Châu. Tuy lợi nhuận cao nhưng cũng rất dễ bị lỗ nếu giá xuống
18
thấp và có thể không bán được đồng nào do mướn nhân công cao hơn là giá bán, ngược
lại lợi nhuận cũng có thể cao gấp 10 lần bình thường (Dương Văn Nhã, 2004).
Theo Ủy Ban Nhân Dân huyện Thoại Sơn (2003), thì mô hình trồng nấm rơm
cũng tạo ra nguồn thu nhập lớn cho nông dân trong mùa nước nổi, bình quân mỗi công
rơm chất nấm khoảng 15 đến 20 ngày cho thu hoạch từ 45 – 50 kg nấm, thu nhập khoảng
250.000 đồng/công rơm. Tuy nhiên, số hộ nông dân trồng nấm rơm tại huyện này còn rất
ít vì sợ không nơi tiêu thụ nên đa số nông dân đã bỏ phí rơm rạ ngoài đồng hay dọc trên
các tuyến lộ, phun xuống lòng sông, kênh rạch gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn
nước.
19
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Phương tiện nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: Thành Phố Long Xuyên – Tỉnh An Giang.
- Bảng câu hỏi.
- Các dụng cụ: bút mực, bút chì, sơ mi đựng phiếu điều tra,…
- Xe đi lại.
- Máy vi tính.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin tổng quan ở Thành Phố gồm các số liệu thứ cấp về điều kiện
tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội của vùng, số liệu về tình hình sản xuất trong năm và
trong mùa nước nổi năm 2004 trên địa bàn Thành Phố Long Xuyên.
- Phỏng vấn người am hiểu trên địa bàn các phường, xã để xác định một số mô
hình có triển vọng trong mùa lũ năm 2004 tại Thành Phố Long Xuyên để tiến hành điều
tra và các mô hình được chọn là:
 Mô hình trồng nấm rơm.
 Mô hình trồng lúa vụ 3.
 Mô hình trồng rau màu.
 Mô hình trồng rau nhút.
- Phỏng vấn trực tiếp nông hộ bằng Bảng câu hỏi (phụ chương 2).
- Nhập số liệu, xử lý và phân tích số liệu đã thu thập.
- Tổng hợp, viết báo cáo.
3.3. Phân tích thống kê
- Nhập số liệu bằng phần mềm Excel.
- Xử lý và phân tích số liệu bằng chương trình SPSS.
20
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Phân bố mẫu điều tra ở các phường, xã của Thành Phố
Có 4 mô hình được chọn để điều tra và các phiếu phỏng vấn nông hộ được phân
bố trên 5 phường, xã (Bảng 3).
Bảng 3: Phân bố các phiếu điều tra của 4 mô hình canh tác tại thành phố Long Xuyên
năm 2004

Đơn vị: Phiếu
Phường (xã)
Lúa vụ 3 Rau màu Rau nhút Nấm rơm
Tổng cộng
Mỹ Hòa Hưng 0 6 10 0
16
Mỹ Khánh 2 6 5 30
43
Mỹ Thới 8 3 0 0
11
Mỹ Quý 3 0 0 0
3
Mỹ Phước 2 0 0 0
2
Tổng cộng 15 15 15 30
75
Qua Bảng 3, các mô hình đã chọn để điều tra phân bố như sau:
- Đối với mô hình trồng lúa có 15 phiếu được điều tra ở phường Mỹ Quý 3
phiếu, phường Mỹ Khánh 2 phiếu, phường Mỹ Phước 2 phiếu và phường Mỹ Thới 8
phiếu.
- Ở mô hình trồng rau màu gồm 15 phiếu được phân bố trên 3 phường xã trong
đó phường Mỹ Thới có 3 phiếu, xã Mỹ Hòa Hưng 6 phiếu và xã Mỹ Khánh 6 phiếu.
- Ở mô hình trồng rau nhút do các hộ canh tác chủ yếu tập trung ở xã Mỹ Hòa
Hưng nên có 10 phiếu điều tra tại xã này và 5 phiếu còn lại tập trung ở xã Mỹ Khánh.
- Mô hình trồng nấm rơm điều tra tại xã Mỹ Khánh gồm 30 phiếu.
- Như vậy, các phiếu phỏng vấn tập trung ở xã Mỹ Hòa Hưng có 16 phiếu, xã
Mỹ Khánh có 43 phiếu, phường Mỹ Thới có 11 phiếu, phường Mỹ Quý có 3 phiếu và
phường Mỹ Phước có 2 phiếu.
21
Hình 1: Địa bàn điều tra trên 5 phường, xã của thành phố Long Xuyên

22
: Điểm có mẫu điều tra
4.2. Đặc điểm chung của nông hộ điều tra
4.2.1. Tuổi của chủ hộ
Qua số liệu điều tra được thể hiện trong bảng 4 cho thấy tuổi của chủ hộ ở 4 mô
hình canh tác đều ở mức từ 26 tuổi trở lên.
Bảng 4: Tuổi của chủ hộ ở các mức phân chia khác nhau trong 4 mô hình canh tác tại
thành phố Long Xuyên năm 2004
Đơn vị tính: %
Độ tuổi Lúa vụ 3 Rau màu Rau nhút Nấm rơm
26-35 6,7 26,7 26,7 30,0
36-45 26,7 20,0 13,3 26,7
46-55 26,7 33,3 20,0 20,0
>55 40,0 20,0 40,0 23,3
Trung bình 51 46 52 44
Độ lệch chuẩn 8,5 12,3 15,6 11,7
Trong mô hình canh tác lúa, bình quân tuổi của chủ hộ là 51 tuổi, đây là độ tuổi
tương đối cao nên có thể hạn chế trong việc tiếp thu kiến thức mới trong sản xuất nông
nghiệp, thậm chí họ còn có tính bảo thủ trong vấn đề sản xuất của nông hộ. Ở mô hình
này, có tỷ lệ cao nhất là chủ hộ lớn hơn 55 tuổi chiếm 40,0% và thấp nhất là chủ hộ có
độ tuổi từ 26 – 35 tuổi chiếm 6,7%, còn chủ hộ có độ tuổi từ 36 – 45 và 46 – 55 tuổi đều
chiếm tỷ lệ như nhau ở mức 26,7% (Bảng 4).
Qua kết quả điều tra được thể hiện trong Bảng 4 thì tuổi trung bình của chủ hộ
trong mô hình trồng rau màu là 46 tuổi. Trong đó, chiếm tỷ lệ cao nhất ở mức 33,3% là
chủ hộ có độ tuổi từ 46 – 55 tuổi, chiếm tỷ lệ thấp nhất là chủ hộ từ 36 – 45 và lớn hơn
55 tuổi, cùng có tỷ lệ là 20,0%.
Trong mô hình trồng rau nhút, tuổi trung bình của chủ hộ là 52, độ tuổi này
tương đương với các chủ hộ trong mô hình trồng lúa. Số chủ hộ lớn hơn 55 tuổi trong
mô hình trồng rau nhút chiếm tỷ lệ 40,0%, thấp nhất là chủ hộ từ 36 – 45 tuổi chiếm
13,3%, chủ hộ có độ tuổi từ 26 – 35 tuổi chiếm 26,7% và từ 46 – 55 tuổi là 20,0% (Bảng

4).
23
Trong mô hình trồng nấm rơm, tuổi trung bình của chủ hộ là 44 tuổi, thấp nhất
trong 4 mô hình canh tác đã điều tra. Ở độ tuổi này, người nông dân rất năng động trong
công việc và có năng lực sản xuất tốt, đồng thời cũng đã tích lũy được một số kinh
nghiệm trong quá trình sản xuất. Trong mô hình này không có sự chênh lệch lớn giữa các
mức độ phân chia độ tuổi của chủ hộ, trong đó chủ hộ có độ tuổi từ 26 – 35 tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất (30,0%) và thấp nhất là độ tuổi từ 46 – 55 tuổi chiếm 20,0%.
4.2.2. Trình độ văn hóa của chủ hộ
Theo Võ Tòng Anh (2004) thì trình độ văn hóa càng cao, chủ hộ càng có cơ hội
tiếp cận thông tin và lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh thích hợp cho mình, từ đó
mức độ đầu tư và khả năng tham gia thị trường mạnh dạn hơn. Qua kết quả điều tra, trình
độ văn hóa của chủ hộ trong cả 4 mô hình tương đối thấp (Bảng 5).
Bảng 5: Trình độ văn hóa chủ hộ trong 4 mô hình canh tác tại thành phố Long Xuyên
năm 2004
Đơn vị tính: %
Trình độ văn hóa Lúa vụ 3 Rau màu Rau nhút Nấm rơm
Mù chữ 0,0 26,7 6,7 0,0
Cấp 1 26,7 46,7 53,3 56,7
Cấp 2 40,0 13,3 26,7 36,7
Cấp 3 33,3 13,3 13,3 6,7
Trung bình 8 4 5 5
Độ lệch chuẩn 2,9 3,9 3,0 2,8
Ở mô hình trồng lúa, trình độ văn hóa trung bình của chủ hộ là lớp 8 và không
có chủ hộ nào không biết chữ. Chủ hộ có trình độ cấp 2 chiếm đa số trong mô hình này
(40,0%), cấp 3 là 33,3% và chủ hộ có trình độ cấp 1 chiếm 26,7% (Bảng 5).
Ở mô hình trồng rau màu, chủ hộ có trình độ văn hóa trung bình là lớp 4, thấp
nhất trong 4 mô hình điều tra. Phần đông các hộ này canh tác dựa vào kinh nghiệm là
chủ yếu, trong đó tỷ lệ chủ hộ không biết chữ là 26,7%, chiếm tỷ lệ cao nhất 46,7% là
chủ hộ có trình độ văn hóa cấp 1, tỷ lệ chủ hộ có trình độ cấp 2 và cấp 3 đều ở mức

13,3% (Bảng 5).
24
Ở mô hình trồng rau nhút, tỷ lệ chủ hộ có trình độ cấp 1 chiếm đa số (53,3%),
cấp 2 chiếm 26,7% và cấp 3 là 13,3%, số chủ hộ không biết chữ trong mô hình này có tỷ
lệ 6,7%. Trình độ văn hóa trung bình của chủ hộ là lớp 5, tương đương với trình độ văn
hóa của chủ hộ trong mô hình trồng nấm (Bảng 5).
Đối với mô hình trồng nấm rơm, chiếm tỷ lệ cao nhất là số chủ hộ có trình độ
văn hóa cấp 1 (56,7%) và thấp nhất là chủ hộ có trình độ văn hóa cấp 3 (6,7%) (Bảng 5).
Cũng như mô hình trồng lúa, trong mô hình này không có chủ hộ nào mù chữ, nhờ thế
mà thuận lợi cho nông dân trong việc việc ghi chép và đọc tài liệu tuyên truyền, tập huấn
của cán bộ giảng dạy. Nhưng lại hạn chế trong việc tiếp thu những kiến thức mới phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp thông qua báo chí hay các lớp tập huấn kỹ thuật.
4.2.3. Kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ
Kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất và hiệu quả của mô hình canh tác, giúp nông dân có thể hạn chế mặt hại và phát huy
những mặt lợi trong quá trình sản xuất.
Do canh tác cây lúa đã có từ lâu đời ở nước ta cũng như ở Long Xuyên, nên chủ
hộ có kinh nghiệm sản xuất trung bình là 21,4 năm (Bảng 1 trong pc), phần lớn chủ hộ
có kinh nghiệm sản xuất lớn hơn 20 năm. Trong đó, chủ hộ có kinh nghiệm lớn hơn 30
năm chiếm 26,7%, chủ hộ có mức kinh nghiệm từ 21 - 30 năm chiếm 26,7%, số chủ hộ
có kinh nghiệm 5 năm trở xuống chiếm tỷ lệ 20,0% (hình 2).
25

×