PHÁP NHÂN TRONG LUẬT DÂN SỰ
Khái niệm
Cá nhân, trong xã hội có tổ chức, không sống và hoạt động cô lập. Có những lý do khác
nhau để cá nhân luôn gắn bó với các cá nhân khác trong quá trình tồn tại của mình. Trên cơ
sở quan hệ thân thuộc và quan hệ hôn nhân, các cá nhân sống trong cùng một gia đình. Các
quan hệ chính trị liên kết các cá nhân, các gia đình và đặt cơ sở cho sự tạo thành quyền lực
công cộng - Nhà nước và chính quyền địa phương. Nhắm đến cùng một mục đích hoặc
quan tâm đến cùng một quyền lợi, các cá nhân liên kết với nhau và tạo thành một nhóm
người có tổ chức đồng thời tập họp các nỗ lực cá nhân để thực hiện các hoạt động trong
khuôn khổ tổ chức đó, nhằm đạt đến mục đích chung hoặc bảo vệ quyền lợi chung.
Vấn đề là các quy tắc liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân không đủ để chi phối
các quan hệ phát sinh từ sự hình thành các nhóm cá nhân có tổ chức: một mặt, nếu giữa lợi
ích riêng và lợi ích chung có sự mâu thuẫn, thì cá nhân luôn có thiên hướng hy sinh lợi ích
chung để bảo vệ lợi ích riêng; mặt khác, thời gian tồn tại của nhóm sẽ không dài thời gian
tồn tại của cá nhân, trong khi người giao dịch với nhóm có thể còn sống sau khi tất cả các
thành viê trong nhóm đều chết.
Ðể bảo vệ tốt lợi ích chung của nhóm cũng như lợi ích của người thứ ba có quan hệ với
nhóm, cần công nhận sự tồn tại độc lập của nhóm so với cá nhân. Luật đáp ứng yêu cầu đó
bằng cách thừa nhận cho nhóm có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật. Nhóm được coi
như coi nhân thân của riêng mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Ðược nhân
cách hoá, nhóm có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực
hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Một con
người trừu tượng, nhóm thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ
thể được bố trí vào các cơ quan của nhóm, gọi là các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm
soát hoạt động của nhóm. Luật gọi những nhóm như thế là những pháp nhân.
Ta lần lượt tìm hiểu lịch sử của chế định pháp nhân, tính chất pháp lý của pháp nhân, phân
loại pháp nhân và chế độ pháp lý của pháp nhân trong luật thực định Việt Nam.
I - Lịch sử của chế định pháp nhân
Pháp nhân trong luật phương Tây - Luật La Mã, quan niệm về pháp nhân hình thành tương
đối muộn. Thoạt tiên, tư cách pháp nhân chỉ được thừa nhận cho Nhà nước; sau đó, pháp
nhân Nhà nước còn được gán cho một số định chế công pháp của Ðế quôc La Mã: thành
bang, khu tự quản, thuộc địa,...Vào thời kỳ cuối, luật thừa nhận có hai loại pháp nhân tư
pháp: universitates personarum, gồm những người có cùng các hoạt động nghề nghiệp; và
universitates bonorum, để chỉ những nhóm người hoạt động trong các lĩnh vực từ thiện
hoặc phúc lợi chung. Pháp nhân tư pháp trong Luật La Mã chỉ được phép thành lập một khi
có giấy phép của chính quyền. Vả lại, đó chỉ được coi như sự mở rộng diện những nhóm
người được hưởng tư cách pháp nhân Nhà nước: chính là theo khuôn mẫu Nhà nước mà
các pháp nhân tư pháp chiếm hữu tài sản chung của các thành viên, có ngân quỹ chung và
được điều hành nhờ có vai trò của người quản lý. Cần lưu ý rằng chính quyền La Mã chỉ
cấp giấy phép cho các nhóm người hoạt động không vụ lợi và những nhóm hoạt động có
thu lợi nhuận mà có quan hệ với Nhà nước hoặc giữ một vai trò công cộng. Các hội hoạt
động để thu lợi nhuận, nói chung, không có tư cách pháp nhân.
Dưới chế độ phong kiến, các nhóm có mục đích không vụ lợi cũng chỉ được thành lập và
hoạt động nếu có giấy phép của nhà vua và, một khi có giấy phép, nhóm đương nhiên được
hưởng quy chế của pháp nhân. Các nhóm có mục đích thu lợi nhuận từ hoạt động của mình
(các hội thương mại) không phải xin giấy phép, nhưng các nhóm này không có tư cách
pháp nhân: tài sản của nhóm thuộc sở hữu chung của các thành viên; chỉ đối với các chủ nợ
xác lập giao dịch với cả nhóm trong khuôn khổ thực hiện mục tiêu hoạt động của nhóm, thì
các tài sản ấy coi như được sử dụng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của nhóm.
Một vài nhóm có tính chất của một công ty đối vốn, tỏ ra hữu ích đối với việc củng cố
quyền lực và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, được thừa nhận có tư cách pháp nhân,
thậm chí, được giao phó một phần quyền lực công cộng. Trường hợp Công ty Ðông Ấn
(một công ty khai thác thuộc địa lớn) là một ví dụ.
Luật phương Tây đương đại thừa nhận tư cách pháp nhân của các nhóm hình thành trong
khuôn khổ pháp luật, áp dụng Ðiều 20 Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp
Quốc: tất cả mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội. Các nhóm hoạt động nhằm
thu lợi nhuận được thành lập mà không cần giấy phép và có tư cách pháp nhân ngay từ lúc
thành lập.
Pháp nhân trong luật Việt Nam - Luật cổ Việt Nam không xây dựng khái niệm pháp nhân.
Chỉ trong luật cận đại, pháp nhân mới bắt đầu được nhắc đến như một khái niệm vay mượn
từ luật học phương Tây. Trong luật viết thời kỳ thuộc địa, pháp nhân được hiểu như một
nhóm người được tập họp lại để thực hiện một hay nhiều mục đích nhất định và được luật
thừa nhận có khả năng đảm nhận tư cách chủ thể của các quyền và nghĩa vụ, bao gồm
(BLDS Bắc Ðiều 284 và 289; BLDS Trung Ðiều 392 và 293): Nhà nước, Tỉnh, Thị tứ,
Làng, Phường hoặc Phố, Thôn, Giáp (nhóm hình thành từ nhiều gia đình gắn bó với nhau
do có những lợi ích chung đặc biệt trong lĩnh vực thờ cúng), Xóm (nhóm hình thành từ
những gia đình gắn bó với nhau do quan hệ láng giềng hoặc quan hệ phát sinh từ hoạt động
nông nghiệp), các hiệp hội được cho phép thành lập và các công ty thương mại được thành
lập đúng luật.
Cho đến cuối những năm 1980, luật Việt Nam hiện đại không có các quy định có hệ thống
về pháp nhân, nhưng vẫn sử dụng thuật ngữ này trong các văn bản pháp luật. Học thuyết
pháp lý về phần mình, đã dựa vào tập quán giao dịch để xây dựng một hệ thống các điều
kiện mà một nhóm người cần hội đủ để có thể được thừa nhận là có tư cách pháp nhân:
1. Ðược thành lập một cách hợp pháp;
2. Có tên gọi riêng và có trụ sở riêng;
3. Có tài sản riêng;
4. Có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản và chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình.
Ta thấy ngay rằng luật chỉ thừa nhận tư cách pháp nhân của những tổ chức được cho phép
thành lập.
Khi hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989, Nghị định số 17-
HÐBT ngày 16/1/1990, đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn, ghi nhận các điều kiện cơ bản
mà một nhóm hoạt động nhằm thu lợi nhuận phải có đủ, để được hưởng tư cách pháp nhân,
như sau: 1 - Ðược thành lập một cách hợp pháp; 2- Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm
một cách độc lập bằng tài sản đó; 3- Có quyền quyết định một cách độc lập về hoạt động
sản xuất, kinh doanh của mình; 4- Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật. Khái
quát hoá quan niệm về pháp nhân được xây dựng như trên Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày
29/4/1991 thừa nhận rằng các dấu hiệu cơ bản của pháp nhân bao gồm (Ðiều 4 khoản 2): 1
- Có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; 2 - Tham gia quan hệ pháp
luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước Toà án; 3 - Ðược thành lập hợp
pháp và được pháp luật công nhận là một tổ chức độc lập.
BLDS năm 1995 chính thức thừa nhận pháp nhân như là một chủ thể của quan hệ pháp luật
và định nghĩa pháp nhân như là một tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành
lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc
lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, và nhân danh mình
tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập (BLDS Ðiều 94). Theo định nghĩa đó,
luật thừa nhận tư cách pháp nhân của những tổ chức sau đây (Ðiều 110): cơ quan Nhà
nước, đơn vị vũ trang; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức
xã hộ, tổ chức xã hội- nghề nghiệp; quỹ xã hội, quỹ từ thiện; các tổ chức khác có đủ các
điều kiện ghi nhận tại định nghĩa nêu trên. Cũng như trong luật hiện đại phương Tây, luật
thực định Việt Nam thừa nhận có những pháp nhân hình thành không phải từ việc kết
nhóm của các nhân có cùng mục đích: Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999 thừa nhận khá
năng thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân độc lập
với tư cách pháp nhân của thành viên thành lập công ty.
II - Tính chất pháp lý của pháp nhân
Có hai quan niệm trái ngược trong luật phương Tây. Luật Việt Nam đang xây dựng một
quan niệm dung hoà.
Quan niệm về tính hư cấu của pháp nhân - Vào thế kỷ thứ XIX, nhiều nhà luật học Pháp và
Ðức cho rằng pháp nhân, suy cho cùng, chỉ là một hư cấu do người làm luật dựng nên
nhằm tạo thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ giữa một nhóm người với người thứ ba.
Lợi ích, mục đích của pháp nhân, suy cho cùng, là lợi ích, mục đích của các cá nhân trong
nhóm; và quyền sở hữu của pháp nhân đối với tài sản của nhóm chỉ hình một cách diễn đạt
khác của quyền sở hữu chung của các thành viên trong nhóm đối với các tài sản đó. Tư
cách pháp nhân của nhóm do người làm luật ban cho, như một ân huệ, và có thểbị người
làm luật tước bỏ, nếu muốn.
Quan niệm về tính hiện thực của pháp nhân - Một số nhà luật học lại cho rằng nhóm có ý
chí của riêng mình, phân biệt với ý chí của các thành niên và chính ý chí đó là cơ sở của
quan niệm về chủ thể của quan hệ pháp luật: cá nhân có ý chí, vậy cá nhân là chủ thể của
quyền và nghĩa vụ; nhóm cũng có ý chí; vậy, nhóm cũng là chủ thể của quyền và nghĩa vụ,
với tư cách là một pháp nhân.
Ôn hoà hơn, một vài người cho rằng pháp nhân chỉ là một hiện thực thuần tuý kỹ thuật. Tư
cách chủ thể của quan hệ pháp luật tỏ ra cần thiết trong chừng mực nó tạo điều kiện cho
thực thể pháp lý mang tư cách đó thực hiện các giao dịch nhằm đạt tới mục đích của mình.
Chính là xuất phát từ tư tưởng chủ đạo đó mà người làm luật thừa nhận tư cách chủ thể của
quan hệ pháp luật cho cá nhân. Bởi vậy, một khi các cá nhân kết nhóm để theo đuổi một
mục đích nhất định, thì nhóm tự nhiên phải có tư cách pháp nhân, ít nhất trong điều kiện
mục tiêu mà nhóm theo đuổi là chính đáng.
Quan niệm của luật thực định Việt Nam - Pháp nhân trong luật Việt Nam không phải là
một hư cấu cũng không là một hiện thực. Trước hết, pháp nhân có một khối tài sản riêng,
độc lập với các khối tài sản riêng của các thành viên; sở hữu của pháp nhân không phải là
một hình thức khác của sở hữu chung. Bộ luật dân sự có đề cập đến hình thức sở hữu hỗn
hợp, hình thành từ việc góp vốn của các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau để sản xuất, kinh doanh, thu lợi nhuận, và coi đó như một loại sở hữu chung (Ðiều
228). Nhưng có thể tin rằng sở hữu hỗn hợp chỉ là sở hữu chung, trong trường hợp những
người góp vốn không thành lập một pháp nhân đứng đầu khối tài sản liên quan: nếu một
pháp nhân (ví dụ, một công ty trách nhiệm hữu hạn) được thành lập, thì tài sản gọi là thuộc
sở hữu hỗn hợp, là tài sản riêng của pháp nhân chứ không phải là tài sản chung của các
thành viên công ty.
Song, pháp nhân không thể tự động sinh ra từ việc kết nhóm của những người có cùng mục
đích, cùng lợi ích: để có tư cách pháp nhân được luật thừa nhận, tổ chức phải được Nhà
nước thành lập hoặc cho phép thành lập (BLDS Ðiều 96 khoản 2); nếu tổ chức phải đăng
ký hoạt động, thì chỉ được hưởng tư cách pháp nhân từ ngày hoàn thành thủ tục đăng ký
(cùng điều luật).
III - Phân loại pháp nhân
Pháp nhân công pháp và pháp nhân tư pháp
Pháp nhân công pháp trong luật Việt Nam là các tổ chức nắm giữ quyền lực công cộng và
thực hiện một trong các chức năng của Nhà nước hoặc đảm nhận một vai trò trong hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Ðảng cộng sản, giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính
trị, là một pháp nhân công pháp.
Trong danh sách pháp nhân công pháp được ghi nhận trong luật viết hiện hành không có
Nhà nước. Song tư cách pháp nhân của Nhà nước được thừa nhận trong nhiều chế định,
đặc biệt là trong pháp luật về tài sản và pháp luật thừa kế: Nhà nước là người thực hiện
quyền sở hữu toàn dân về tài sản, là người tiếp nhận các di sản không người hưởng. Dưới
Nhà nước có các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang.
Các đơn vị hành chính thành lập theo lãnh thổ (tỉnh, thành phố, huyện, thị xã, xã, phường,
thị trấn) không phải là pháp nhân, mà chính các cơ quan Nhà nước được thành lập trong
khuôn khổ tổ chức bộ máy chính quyền địa phương là các pháp nhân. Bên cạnh Nhà nước
có các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: Mặt trận Tổ quốc,
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam...
Các pháp nhân công pháp quản lý tài sản của mình bằng các công cụ của hệ thống kế toán
công. Pháp nhân công pháp có thể hình thành từ sự kết nhóm của các cá nhân (nói chung,
các chủ thể của quan hệ pháp luật), như Ðảng cộng sản, Mặt trận Tổ quốc, Tổng liên đoàn
lao động... Nhưng cũng có thể do ý chí của Nhà nước, như các cơ quan hành chính Nhà
nước, các cơ quan dịch vụ công - trường học, bệnh viện...