Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

đánh giá rủi ro sức khỏe của kim loại nặng (as, cd và pb) trong một số loài cá được đánh bắt tại vịnh đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 63 trang )




ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƢỜNG




ĐOÀN THỊ ÁNH DƢƠNG



ĐÁNH GIÁ RỦI RO SỨC KHỎE CỦA KIM LOẠI
NẶNG (As, Cd VÀ Pb) TRONG MỘT SỐ LOÀI CÁ
ĐƢỢC ĐÁNH BẮT TẠI VỊNH ĐÀ NẴNG















Đà Nẵng - Năm 2015



ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƢỜNG


ĐOÀN THỊ ÁNH DƢƠNG


ĐÁNH GIÁ RỦI RO SỨC KHỎE CỦA KIM LOẠI
NẶNG (As, Cd VÀ Pb) TRONG MỘT SỐ LOÀI CÁ
ĐƢỢC ĐÁNH BẮT TẠI VỊNH ĐÀ NẴNG

Ngành: Quản lý Tài nguyên – Môi trƣờng


Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Trần Ngọc Sơn













Đà Nẵng - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Đà Nẵng, ngày 5 tháng 5năm 2015
Sinh viên


Đoàn Thị Ánh Dƣơng



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, tôi nhận đƣợc sự hƣớng dẫn rất nhiệt tình của Thầy
Trần Ngọc Sơn thuộc Khoa Sinh - Môi trƣờng, trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học
Đà Nẵng. Nhân dịp này tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy.
Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu, tôi cũng nhận đƣợc sự giúp đỡ của các
thầy cô trong Khoa Sinh - Môi trƣờng, sự hỗ trợ nhiệt tình của các gia đình sống
ven Vịnh Đà Nẵng và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những giúp đỡ quý
báu đó.
Đà Nẵng, ngày 5 tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện


Đoàn Thị Ánh Dƣơng






MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 2
2.1. Mục tiêu tổng quát 2
2.2. Mục tiêu cụ thể 2
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 2
3.1. Ý nghĩa khoa học 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. ĐÁNH GIÁ RỦI RO SỨC KHỎE 3
1.1.1. Khái niệm đánh giá rủi ro sức khỏe 3
1.1.2. Ý nghĩa đánh giá rủi ro sức khỏe 4
1.2. ĐỘC TÍNH CỦA KIM LOẠI NẶNG 4
1.2.1. Asen và độc tính của Asen 4
1.2.2. Cadimi và độc tính của Cadimi 5
1.2.3. Chì và độc tính của Chì 6
1.3. TÌNH HÌNH Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG 7
1.3.1. Tình hình ô nhiễm KLN trên thế giới 7
1.3.2. Tình hình ô nhiễm KLN ở Việt Nam 8

1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ô NHIỄM KLN TRONG THỰC PHẨM VÀ
RỦI RO SỨC KHỎE DO KLN 10
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới 10
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 13
1.5. CƠ CHẾ HẤP THỤ KLN Ở CÁ 15
1.6. TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU 16
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18


2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU 18
2.1.1. Cá Trích Xƣơng (Sardinella gibbosa) 18
2.1.2. Cá Nục Gai (Decapterus russelli) 19
2.1.3. Cá Chai Ấn Độ (Platycephalus indicus ) 19
2.1.4. Cá Dìa (Siganus canaliculatus) 20
2.1.5. Cá Mòi Cờ Chấm (Konosirus punctatus) 20
2.1.6. Cá Đối Đầu Dẹt (Mugil cephalus) 21
2.2. THỜI GIAN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 22
2.2.1. Thời gian nghiên cứu 22
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu 22
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 23
2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
2.4.1. Phƣơng pháp hồi cứu số liệu 23
2.4.2. Phƣơng pháp thu mẫu và bảo quản mẫu 23
2.4.3. Phƣơng pháp định loại 23
2.4.4. Phƣơng pháp vô cơ hóa mẫu và phân tích mẫu 23
2.4.5. Phƣơng pháp phỏng vấn cộng đồng 24
2.4.5. Phƣơng pháp đánh giá rủi ro sức khỏe theo US-EPA 25
2.4.6. Phƣơng pháp xử lý số liệu 26
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN 27
3.1. HÀM LƢỢNG KLN TRONG THỊT CÁ 27

3.1.1. Hàm lƣợng As trong cá 29
3.1.2. Hàm lƣợng Cd trong cá 31
3.1.3. Hàm lƣợng Pb trong cá 33
3.2. ĐÁNH GIÁ RỦI RO SỨC KHỎE CỦA KIM LOẠI NẶNG 35
3.2.1. Thƣơng số nguy hại THQ 35
3.2.2. Chỉ số rủi ro HI 40
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 43
1. KẾT LUẬN 43
2. KIẾN NGHỊ 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANOVA : Phân tích phƣơng sai (Analysis of variance)
BTNMT : Bộ Tài nguyên - Môi trƣờng
BVTV : Bảo vệ thực vật
BYT : Bộ Y tế
KCN : Khu công nghiệp
FAO : Tổ chức Lƣơng thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (Food and
Agriculture Organization of the United Nations)
KLN : Kim loại nặng
TCCP : Tiêu chuẩn cho phép
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
QCVN : Quy chuẩn Việt Nam
WHO : Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
1.1.
Hàm lƣợng KLN trong trầm tích vùng biển vịnh Đà Nẵng
9
3.1.
Hàm lƣợng KLN trong thịt cá
28
3.2.
Giá trị THQ của đối tƣợng ngƣời lớn
36
3.3.
Giá trị THQ của đối tƣợng trẻ em vị thành niên
36
3.4
Giá trị HI của cá
40



DANH MỤC HÌNH
Số hiệu hình
Tên hình vẽ
Trang
1.1
Sơ đồ đánh giá rủi ro sức khỏe
3
2.1
Cá Trích Xƣơng (Sardinella gibbosa)

18
2.2.
Cá Nục Gai (Decapterus russelli)
19
2.3.
Cá Chai Ấn Độ (Platycephalus indicus)
19
2.4.
Cá Dìa (Siganus canaliculatus)
20
2.5.
Cá Mòi Cờ Chấm (Konosirus punctatus)
21
2.6.
Cá Đối Đầu Dẹt (Mugil cephalus)
21
2.7.
Bản đồ khu vực nghiên cứu
22
2.8.
Bản đồ khu vực phỏng vấn
25
3.1.
Hàm lƣợng As trong cá
30
3.2.
Hàm lƣợng Cd trong cá
32
3.3.
Hàm lƣợng Pb trong cá

34
3.4
Giá trị THQ của KLN
37
3.5
Giá trị HI của cá
41
1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay sự phát triển của kinh tế đã làm thay đổi bộ mặt đất nƣớc, tuy nhiên
đi kèm với sự phát triển đó là môi trƣờng đang có xu hƣớng ngày càng nghiêm
trọng, đặc biệt là môi trƣờng nƣớc. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động công
nghiệp, nông nghiệp sử dụng phân bón, thuốc BVTV, phụ gia thực phẩm đã xả thải
vào môi trƣờng, trong đó chứa một lƣợng lớn KLN gây độc [21].
KLN là những nguyên tố dễ dàng tích lũy trong cơ thể sinh vật, từ đó tƣơng
tác với nội bào và làm biến đổi nội bào hoặc liên kết với nội bào hình thành nên
những enzim phân hủy protein, tăng sự tổng hợp protein dị thƣờng. KLN không
phân hủy thành hợp chất nhỏ hơn để gây độc, chúng thƣờng gắn kết với hợp chất
hữu cơ để gây độc. Do đó, gây tác động xấu đến vấn đề an toàn thực phẩm và trực
tiếp hoặc gián tiếp thông qua con chuổi thức ăn ảnh hƣởng sức khỏe con ngƣời [1].
Đà Nẵng là đƣợc xem là một thành phố cảng lớn nhất miền Trung, hiện nay
chiến lƣợc phát triển của Thành Phố đến năm 2020 là tập trung phát triển kinh tế
biển. Với điều kiện địa lý và khí hậu thuận lợi, Vịnh có tiềm năng lớn về hoạt động
nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản. Hàng năm trữ lƣợng khai thác hải sản vùng biển
Đà Nẵng lớn, khoảng 60 - 70 nghìn tấn, tập trung chủ yếu ở cá nổi ven bờ. Tuy
nhiên, Vịnh cũng là nơi tiếp nhận chất thải trên địa bàn thành phố từ các KCN, bãi
rác và chất thải sinh hoạt, theo các dòng sông, cống thải đổ vào Vịnh gây ô nhiễm
[26]. Do đó việc nghiên cứu phân tích KLN trong môi trƣờng sống, trong thực

phẩm và tác động của chúng đến cơ thể con ngƣời là rất cần thiết bởi tính độc, tính
bền vững và sự tích tụ sinh học của chúng. Trong những năm gần đây, nghiên cứu
sự tích lũy và ảnh hƣởng của KLN trong cơ thể sinh vật đƣợc nhiều nhà khoa học
trên thế giới và Việt Nam quan tâm. Tại Đà Nẵng, một số nghiên cứu đánh giá hàm
lƣợng KLN trong động vật đã đƣợc biết đến nhƣ nghiên cứu trong loài hai mảnh vỏ
và một số nghiên cứu KLN trong cá ở vùng cửa sông. Tuy nhiên, các nghiên cứu
chỉ dừng lại ở bƣớc xác định hàm lƣợng KLN trong sinh vật mà hạn chế những
nghiên cứu về đánh giá về rủi ro sức khỏe thông qua việc tiêu thụ chúng.
2

Do đó, vấn đề ô nhiễm KLN trong các loài hải sản đƣợc đánh bắt tại Vịnh rất
cần đƣợc quan tâm. Với mong muốn đó, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá
rủi ro sức khỏe của kim loại nặng(As, Cd và Pb) trong một số loài cá được đánh
bắt tại vịnh Đà Nẵng”.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu nhằm xem xét, đánh giá rủi ro sức khỏe của KLN thông qua tiêu
thụ một số loài cá đƣợc đánh bắt phổ biến tại Vịnh Đà Nẵng và đƣa ra khuyến cáo
đối với ngƣời tiêu dùng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đánh giá hàm lƣợng KLN trong mô thịt một số loài cá đƣợc đánh bắt phổ biến
tại khu vực nghiên cứu.
Đánh giá rủi ro sức khỏe của KLN trong một số loài cá thông qua thƣơng số
nguy hại THQ (Target Hazard Quotient) và chỉ số rủi ro HI (Hazard index).
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả đề tài nhằm xem xét khả năng hấp thụ KLN (As, Cd và Pb) của cá,
đồng thời bổ sung thêm cơ sở dẫn liệu về hấp thụ KLN trong thực phẩm.
Thực hiện đánh giá rủi ro sức khỏe của KLN sẽ góp phần vào xác định và cụ
thể hóa rủi ro đến sức khỏe con ngƣời khi tiêu thụ thực phẩm bị nhiễm KLN từ hoạt

động của con ngƣời gây ra.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài giúp xác định đƣợc nguy cơ rủi ro sức khỏe ngƣời tiêu dùng thông qua
việc tiêu thụ nguồn cá bị nhiễm KLN, từ đó đƣa ra khuyến cáo đối với ngƣời dân
khi sử dụng cá tại đây làm thực phẩm hàng ngày.
Ngoài ra kết quả để tài sẽ góp phần cho các cơ quan quản lý môi trƣờng quản
lý tốt những ảnh hƣởng của ô nhiễm KLN đến sức khỏe ngƣời dân, cũng nhƣ kịp
thời đƣa ra khuyến cáo cho ngƣời tiêu thụ thực phẩm nhằm hạn chế tốt nhất những
rủi ro sức khỏe, bệnh tật.

3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐÁNH GIÁ RỦI RO SỨC KHỎE
1.1.1. Khái niệm đánh giá rủi ro sức khỏe
Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trƣờng của Mỹ (US - EPA), đánh giá rủi ro sức
khỏe là quá trình đánh giá tính chất và khả năng ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời
khi tiếp xúc với hóa chất trong môi trƣờng bị ô nhiễm. Đánh giá rủi ro sức khỏe có
3 nhóm chính:
+ Rủi ro do nguồn vật lý (đƣợc quan tâm nhiều nhất, là những rủi ro về bức
xạ từ nhà máy hạt nhân hoặc trung tâm nghiên cứu hạt nhân).
+ Rủi ro hóa chất.
+ Rủi ro sinh học (đánh giá rủi ro đối với lĩnh vực an toàn thực phẩm hoặc
đánh giá rủi ro đối với những sinh vật biến đổi gen).
Các bƣớc chính trong đánh giá rủi ro sức khỏe:









Hình 1.1. Sơ đồ đánh giá rủi ro sức khỏe
Bƣớc 1: Xác định mối nguy hại
Xác định mối nguy hại: Là quá trình nhận diện các mối nguy hại và xác định
đặc tính mà có thể làm tăng nguy cơ gây hại cho sức khỏe [28], [ 60].
Bƣớc 2: Đánh giá liều lƣợng - phản ứng
Đánh giá liều lƣợng phản ứng là đánh giá quan hệ giữa mức độ phơi nhiễm và
phạm vi tổn thƣơng. Đánh giá sẽ tập trung vào các tác động, hóa chất gây ung thƣ
và không gây ung thƣ. Thông thƣờng khi tăng liều lƣợng thì phản ứng cũng tăng. Ở
liều thấp có thể không có phản ứng [60].
Xác định mối nguy hại
Mô tả đặc tính rủi ro
Đánh giá mức độ phơi
nhiễm
Đánh giá liều lƣợng -
phản ứng
4

Bƣớc 3: Đánh giá mức độ phơi nhiễm
Đánh giá mức độ phơi nhiễm là quá trình xác định hoặc ƣớc tính cƣờng độ, tần
số và thời gian tiếp xúc của con ngƣời với một nhân tố trong môi trƣờng, hoặc ƣớc
tính những rủi ro tƣơng lai của một nhân tố chƣa phát hiện. Mức độ phơi nhiễm có
thể đƣợc đo trực tiếp nhƣng thƣờng đƣợc tính gián tiếp thông qua nồng độ của chất
ô nhiễm đo đƣợc trong môi trƣờng, xem xét các mô hình đƣờng truyền phơi nhiễm
và ƣớc tính liều lƣợng hấp thụ vào ngƣời theo thời gian [60].
Bƣớc 4: Mô tả đặc tính rủi ro
Mô tả đặc tính rủi ro là mô tả đặc điểm rủi ro nhƣ tính chất, sự hiện diện hay
vắng mặt của rủi ro, cùng với thông tin về cách đánh giá rủi ro, tổng hợp phơi

nhiễm và đánh giá độc tính để định tính và định lƣợng mức độ rủi ro.
Trong thực tế mỗi bƣớc của đánh giá rủi ro (nhận định rủi ro, đánh giá liều
lƣợng đáp ứng, đánh giá phơi nhiễm) đều có một đặc tính rủi ro riêng. Do đó việc
tổng kết đặc tính rủi ro là cần thiết nhằm cung cấp thông tin để quản lý rủi ro tốt
hơn.
Việc mô tả đặc tính rủi ro đƣợc thực hiện trên 4 nguyên tắc: minh bạch, rõ
ràng, nhất quán và hợp lý [60].
1.1.2. Ý nghĩa đánh giá rủi ro sức khỏe
Đánh giá rủi ro sức khỏe giúp xác định liều lƣợng cũng nhƣ những nhân tố
gây ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời ngay tại khu vực đó hoặc gần những khu
vực ô nhiễm; đồng thời giúp xác định mức độ phải làm sạch dựa trên rủi ro tại khu
vực nghiên cứu.
Bên cạnh đó, đánh giá rủi ro sức khỏe còn giúp nhà quản lý môi trƣờng cân
bằng giữa trách nhiệm bảo vệ con ngƣời với sự phát triển kinh tế; giúp đƣa ra quyết
định hợp lý nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu và loại trừ tác động có hại gây ra đối với
con ngƣời, đồng thời đảm bảo mức sản xuất hợp lý [28], [ 60].
1.2. ĐỘC TÍNH CỦA KIM LOẠI NẶNG
1.2.1. Asen và độc tính của Asen
Asen hay còn gọi là thạch tín, trong bảng tuần hoàn hóa học asen có ký hiệu là
As, khối lƣợng nguyên tử 74.92, số thứ tự 33. As là một á kim gây độc và có nhiều
5

dạng thù hình: dạng kim loại và không kim loại [31].
Asen là nguyên tố đƣợc hình thành trong vỏ trái đất, có màu xám khi ở dạng
nguyên chất, nhƣng dạng này ít tồn tại trong tự nhiên, chủ yếu tồn tại dƣới dạng hợp
chất quặng [31].Nguồn phát thải As nhân tạo chủ yếu từ quá trình nóng chảy kim
loại màu, sản xuất dầu mỏ, hoạt động khai thác khoáng sản, dƣ lƣợng hóa chất
BVTV… Nguyên nhân As có trong nƣớc biển là từ các nguồn nƣớc chảy qua những
vỉa quặng chứa As đã bị phong hoá; chất thải chứa As ngấm theo kẽ nứt xuống
mạch nƣớc ngầm rồi theo dòng chảy đổ ra biển, hoặc theo dòng thải trực tiếp đổ vào

biển [26].
Asen là nguyên tố vi lƣợng cần thiết cho sự sống của cơ thể, nhƣng vƣợt quá
nhu cầu cần thiết thì rất độc [2]. As đƣợc hấp thụ vào cơ thể con ngƣời và động vật
qua đƣờng hô hấp, tiêu hóa và qua da. As tích tụ trong cơ thể chủ yếu trong mô, cơ
sau đó As đƣợc bài tiết chủ yếu qua thận, nƣớc tiểu và qua tóc, móng tay [2], [ 17].
As tự do cũng nhƣ hợp chất của nó rất độc. Trong hợp chất thì hợp chất As
(III) là độc nhất. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xếp As vào nhóm độc loại A
gồm: Hg, Pb, Se, Cd, As. Ngƣời bị nhiễm độc As thƣờng có tỷ lệ bị đột biến NST
rất cao. Một số tác động đặc trƣng khi bị nhiễm độc As dạng vô cơ qua đƣờng
miệng là sự xuất hiện các vết màu đen và sáng trên da. Khi nồng độ gây nhiễm lên
tới 60 mg/l thì có thể gây chết [17].
1.2.2. Cadimi và độc tính của Cadimi
Cadimi có ký hiệu hóa học là Cd, thuộc nhóm II B chu kỳ 5 số hiệu nguyên tử
48 trong bảng tuần hoàn hóa học, khối lƣợng nguyên tử trung bình là 112.41 (đvC).
Cd là kim loại chuyển tiếp tƣơng đối hiếm, đƣợc xếp thứ 67 trong thứ tự các nguyên
tố giàu. Cd có tính mềm dẻo, dễ uốn, màu trắng ánh xanh và có tính độc [28].
Trong vỏ trái đất Cd thƣờng tồn tại dƣới dạng khoáng vật nhƣ Grinolit (CdS).
Cd đƣợc sử dụng nhiều trong công nghiệp luyện kim, chế tạo đồ nhựa, hợp chất Cd
đƣợc sử dụng phổ biến để làm dầu điezen, dầu mazut [18]. Ô nhiễm Cd đã và đang
tăng nhanh trong thập niên gần đây là do hậu quả của sự phát triển công nghiệp ồ ạt
và đặc biệt là gia tăng sử dụng Cd trong công nghiệp [20]. Cd xâm nhập vào môi
trƣờng nƣớc qua nƣớc thải từ hoạt động công nghiệp, sinh hoạt của ngƣời dân và
6

đặc biệt là hoạt động nông nghiệp, sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật
chứa Cd [18].
Cd không có chức năng về sinh học thiết yếu cho cơ thể sống nhƣng lại có tính
độc cao đối với động thực vật. Thức ăn là con đƣờng chính để Cd đi vào cơ thể. Sau
khi xâm nhập vào cơ thể con ngƣời, Cd đƣợc đào thải qua thận, khoảng 1% đƣợc
giữa lại trong thận. Phần còn lại của Cd trong cơ thể sẽ đƣợc tích lũy theo thời gian

và tuổi tác [2].
Lƣợng Cd xâm nhập vào cơ thể không chỉ phụ thuộc vào việc ăn phải thực
phẩm chứa Cd mà phần lớn phụ thuộc vào chế độ và chất lƣợng thực phẩm. Khi Cd
vào cơ thể ở nồng độ cao sẽ gây đau thận, thiếu máu do hàm lƣợng hemoglobin
giảm và phá hủy hồng cầu. Theo Trịnh Thị Thanh (2000) Cd và hợp chất của nó
đƣợc xếp vào nhóm có thể gây ung thƣ (IIA) theo sự sắp xếp của ơ quan Nghiên
cứu Quốc tế về Ung thƣ (IARC), gây ung thƣ phổi, thủng vách ngăn mũi, ung thƣ
tuyến tiền liệt. Khi lƣợng hàm lƣợng Cd
2+
tích lũy đủ lớn gây rối loạn tiêu hóa, rối
loạn chức năng thận, thiếu máu, tăng huyết áp, gây dòn xƣơng, ung thƣ…[18].
1.2.3. Chì và độc tính của Chì
Chì có ký hiệu hóa học là Pb, khối lƣợng nguyên tử 297.19 thuộc nhóm IV số
thứ tự 82 trong bảng tuần hoàn hóa học. Pb có màu xám nhạt, không mùi, không vị,
không hòa tan trong nƣớc, không cháy. Pb rất mềm, dễ gia công và cắt gọt, dễ
nghiền thành bột. Pb đƣợc xem là kim loại mềm nhất trong tất cả kim loại thông
thƣờng [2].
Trong tự nhiên Pb tồn tại dƣới dạng quặng galena (PbS), cerussite (PbCO
3
),
anglesite (PbSO
4
). Pb đƣợc sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống nhƣ
sản xuất ắc quy, pin, cáp điện, dệt nhuộm ; trong các ngành công nghiệp nhƣ
ngành khai thác, luyện kim Pb, sử dụng sơn chứa Pb, ngành xây dựng và thuốc trừ
sâu…[2]. Đặc biệt ngày nay, xăng pha Pb giúp làm tăng chỉ số octane (đặc trƣng
cho khả năng chống kích nổ, chỉ số octane càng cao càng tốt, tuy nhiên phù hợp với
từng loại động cơ) và giúp động cơ hoạt động tốt hơn đã gây ô nhiễm môi trƣờng
trên diện rộng và ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời [10]. Pb xâm nhập vào môi
trƣờng nƣớc là kết quả của quá trình phong hóa vỏ trái đất, quá trình xóa mòn, lắng

7

đọng Pb từ khí quyển, quá trình hòa tan, rửa trôi hợp chất Pb từ đất, đặc biệt quá
trình tiếp nhận dòng thải chứa Pb từ hoạt động của con ngƣời [2].
Giống nhƣ Cd, Pb không phải là nguyên tố thiết yếu cho cơ thể sống, là chất
độc thần kinh. Pb đƣợc hấp thụ vào cơ thể qua đƣờng tiêu hóa, qua đƣờng hô hấp
và qua da. Số lƣợng và tốc độ hấp thụ Pb qua đƣờng tiêu hóa của cơ thể phụ thuộc
vào dạng tồn tại hóa học của Pb, kích thƣớc hạt bụi, trạng thái no hoặc đói của cơ
thể, chế độ dinh dƣỡng và độ tuổi [2].
Độc tính của Pb chủ yếu là do khả năng ức chế một số enzim của quá trình
tổng hợp máu dẫn đến ngăn chặn quá trình tạo hồng cầu. Ngộ độc Pb nặng thƣờng
gây đau bụng dữ dội, nôn ra chì clorua màu trắng, tiêu chảy kèm theo phân đen của
chì sunfua, tê tay chân, co giật và dẫn đến tử vong. Trẻ em là đối tƣợng nhạy cảm
nhất và dễ bị bệnh về não do nhiễm độc chì, thể hiện rõ nhất là chậm phát triển trí
tuệ. Ngoài ra Pb còn ảnh hƣởng đến hệ sinh sản, có thể gây vô sinh đối với nam giới
và gây sẩy thai khi tiếp xúc ở nồng độ cao, ảnh hƣởng đến trẻ sơ sinh [1], [ 32].
1.3. TÌNH HÌNH Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG
1.3.1. Tình hình ô nhiễm KLN trên thế giới
Hiện nay vấn đề ô nhiễm KLN trên thế giới đã và đang ngày càng diễn biến
theo chiều hƣớng xấu. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này là hoạt động công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông vận tải, hoạt động sinh hoạt của ngƣời dân đã trực tiếp
hoặc gián tiếp đƣa vào môi trƣờng một lƣợng lớn KLN. Sự cố nhiễm độc KLN đã
đƣợc ghi nhận tại nhiều nơi trên thế giới, tuy nhiên mức độ trầm trọng thƣờng xảy
ra cục bộ tại một số khu vực [17].
Mỹ, Anh, Hà Lan khi nghiên cứu một số chế phẩm sử dụng trong nông nghiệp
ngƣời ta đã xác định đƣợc nồng độ Pb trong bùn thải biến động từ 50 - 3000 mg/kg,
phân lân từ 7 - 225 mg/kg, vôi từ 20 - 1250 mg/kg, phân chuồng từ 6.6 - 15 mg/kg
và trong thuốc BVTV là 60 mg/kg [44].
Ô nhiễm kim loại ở môi trƣờng biển đã gia tăng trong những năm gần đây do
sự gia tăng của dân số toàn cầu và phát triển mạnh công nghiệp [58]. Hằng năm hoạt

động sản xuất đƣa vào môi trƣờng 60.000 tấn As , 25.000 tấn Cd, ngoài ra môi
trƣờng tự nhiên cũng đóng góp một lƣợng đáng kể: 45.000 tấn As, 33.000 tấn Pb,
8

800 tấn Cd [2], [ 41].
Ô nhiễm KLN ở nhiều vùng cửa sông, ven biển trên thế giới đã đƣợc biết từ
lâu bởi tính độc hại đe dọa đến sự sống của sinh vật thủy sinh, gây nguy cơ cho sức
khỏe con ngƣời. Trong đó ô nhiễm Pb và Zn là một trong những điều đáng quan
tâm do ảnh hƣởng độc hại của chúng. Tại vùng cửa sông Úc với hàm lƣợng 1000
µg/g Pb, 2000 µg/g Zn có thể tìm thấy trong trầm tích bị ô nhiễm. Bryan và cộng sự
(1985) đã xác định hàm lƣợng Pb vô cơ trong trầm tích cửa sông ở Anh biến động
từ 25 µg/g trong khu vực không bị ô nhiễm đến hơn 2700 µg/g trong cửa sông
Gannel nơi nhận chất thải từ việc khai thác mỏ Pb [41], [ 42]. Ở Anh, lƣợng As thải
ra là 650 tấn/năm từ công nghiệp luyện kim màu; 9 tấn/năm vào không khí và 197
tấn/năm vào đất từ ngành thép; 297 tấn/năm vào không khí và 838 tấn/năm vào đất
từ đốt dầu mỏ… [2].
Theo điều tra các cống xả thải chất ô nhiễm khu vục ven biển năm 2004 của
Trung Quốc, đã có 643 cống thải trực tiếp xả chất ô nhiễm vào vùng ven biển trên
toàn Trung Quốc. Vào năm 2004 có tổng cộng 22.4 tấn nƣớc thải đã đƣợc đƣa trực
tiếp vào vùng ven biển thông qua cống thải. Một lƣợng lớn chất ô nhiễm theo dòng
chảy đi vào biển, trong đó có 108 tấn Pb, 74 tấn As, 6.2 tấn Cd và 1.2 tấn Hg [59].
1.3.2. Tình hình ô nhiễm KLN ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp hóa, quá trình đô thị hóa
ngày càng tăng kéo theo vấn đề môi trƣờng ngày càng nhiều, đặc biệt là sự xâm
nhập của KLN. Có thể nói ô nhiễm môi trƣờng nói chung và ô nhiễm KLN nói
riêng đã và đang là thách thức lớn đối với môi trƣờng Việt Nam.
Kết quả quan trắc môi trƣờng cho thấy hàm lƣợng KLN tại vùng nƣớc ven
biển gần thị trấn và trung tâm công nghiệp là đáng kể: Tại Vinh hàm lƣợng Cu
trung bình là 0.025 mg/l, tại Vũng Tàu 0.046 mg/l. Hàm lƣợng Cu này cao hơn từ
30 đến 60 lần so với mức trung bình của hàm lƣợng Cu trong nƣớc biển ở ngoài

khơi (0.0008 mg/l) và cao gấp 2.5 đến 4.6 lần so với TCCP của Việt Nam đối với
vùng nƣớc ven biển [22].
Cùng với sự phát triển của công nông nghiệp, giao thông vận tải vấn đề ô
nhiễm môi trƣờng tại thành phố Đà Nẵng ngày càng gia tăng. Nƣớc thải chứa một
9

lƣợng lớn KLN, theo dòng sông đổ vào Vịnh Đà Nẵng, tích lũy trong nƣớc và trầm
tích, theo chuỗi thức ăn đi vào sinh vật và con ngƣời.
Theo số liệu báo cáo hiện trạng môi trƣờng thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005
- 2010 tại vùng cửa sông, ven biển một số khu vực có tình trạng ô nhiễm KLN. Tại
cửa sông Phú Lộc hàm lƣợng KLN (trừ Cu, Zn, Pb) cao hơn tiêu chuẩn cho phép và
gia tăng không ổn định, kết quả quan trắc trung bình mỗi năm đều dƣới 0.0038
mg/l, mức độ cao hơn tiêu chuẩn dao động từ 0.15 - 2.80 lần, riêng hàm lƣợng Fe có
xu hƣớng tăng qua các năm, cao nhất là năm 2009 (cao hơn tiêu chuẩn 1.65 lần).
Tại khu vực sông Cu Đê, cửa sông Phú Lộc hàm lƣợng Hg trong nƣớc vƣợt TCCP
từ 0.08 - 0.56 lần, hàm lƣợng Pb vƣợt 0.06 - 0.27 lần, tại khu vực cửa Mũi Vịnh
hàm lƣợng As, Fe, Zn vƣợt tiêu chuẩn 2.17 - 11.4 lần [16].
Theo kết quả phân tích mẫu trầm tích của Đề án "Điều tra địa chất, tìm kiếm
khoáng sản rắn biển ven bờ (0 - 30 m nƣớc) Việt Nam tỷ lệ 1/500,000", hàm lƣợng
KLN trong trầm tích Vịnh Đà Nẵng đƣợc thể hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1. 1. Hàm lượng KLN trong trầm tích vùng biển vịnh Đà Nẵng
Kim loại
Mn
Cu
Pb
Zn
Sb
As
Hg
ppm

Lớn nhất
780
2.5
40
18
0.66
6.3
1.2
Nhỏ nhất
40
0.3
3
3.9
0.2
1.8
0.03
Trung bình
352
2
15
6.7
0.5
5
0.09
Nguồn: “Điều tra địa chất, tìm kiếm khoáng sản rắn biển ven bờ (0 - 30 m
nước) Việt Nam tỷ lệ 1/500,000"
Tất cả mẫu đều nhiễm KLN, trong đó hàm lƣợng As dao động trong khoảng
1.8 - 6.3 ppm, trung bình 5 ppm,

cao hơn nhiều so với hàm lƣợng trung bình của nó

trong trầm tích biển nông thế giới (1 ppm) [19].
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Khánh, Phan Văn Hiệp (2009) hàm
lƣợng Cd trong bùn tại khu vực sông Hàn (2.66 ± 1.55 ppm) cao hơn và khác nhau
có ý nghĩa (α = 0.05) với hàm lƣợng Cd trong bùn tại khu vực sông Cu Đê (1.41 ±
0.75 ppm), cả hai khu vực đều đã bị ô nhiễm Cd ở mức độ cao, vƣợt từ 2.01 đến 3.8
lần tiêu chuẩn của Canada. Và kết quả phân tích trong loài hến (Corbicula. sp), hàm
10

lƣợng Cd ở mẫu động vật cao hơn tiêu chuẩn từ 1.67 - 2.09 lần [3].
Chất lƣợng nƣớc biển ven bờ Vịnh Đà Nẵng ngày càng bị ô nhiễm nghiêm
trọng, chủ yếu do hoạt động của con ngƣời đã gây ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển
du lịch của thành phố cũng nhƣ đe dạo sự sinh tồn của sinh vật biển. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Viết Hải Hiệp, Phan Văn Nhật Anh, Nguyễn Thị Thu Hiền (2012)
về đánh giá chất lƣợng nƣớc biển ven bờ vùng Vịnh Đà Nẵng cho thấy, hàm lƣợng
Pb trong nƣớc biển dao động từ 0.1069 - 0.1779 mg/l vào mùa khô và dao động từ
0.0318 - 0.0685mg/l vào mùa mƣa [14].
Từ những dẫn liệu trên cho thấy tình trạng ô nhiễm KLN trên thế giới và Việt
Nam đã, đang gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và sức khỏe, đời sống
của con ngƣời. Vì vậy nghiên cứu sự tích lũy KLN và đánh giá rủi ro sức khỏe của
KLN thông qua tiêu thụ cá là cần thiết nhằm phản ánh ô nhiễm KLN và đánh giá
đƣợc rủi ro sức khỏe ngƣời tiêu thụ thực phẩm nhiễm KLN để từ đó có thể kiểm
soát, xử lý ô nhiễm cũng nhƣ đƣa ra khuyến cáo cho ngƣời tiêu dùng.
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ô NHIỄM KLN TRONG THỰC PHẨM VÀ
RỦI RO SỨC KHỎE DO KLN
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới
Trong những năm gần đây, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về ô nhiễm
KLN và tập trung vào sử dụng sinh vật để đánh giá môi trƣờng. Trong đó, hải sản
nhƣ trai, sò, nghêu,… đặc biệt là cá đã đƣợc nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
nhiều khía cạnh khác nhau và đƣợc ứng dụng tại nhiều khu vực trên thế giới.
Nghiên cứu khác của A. B. Tabinda và cộng sự (2010) về sự tích lũy của kim

loại vết (Cd, As, Ni, Pb, Cr, Zn, Cu, Fe) và chất độc hại trong 6 loài cá (Pampus
argenteus, Sardinella sindensis, Labeo rohita,, Platycephalus indicus, Kowala
coval, Tenualosa ilisha) và 2 loài tôm (Penaeus indicus và Penaeus indicus,
Pencillantus) từ quận Keti Bunder Thatta, Sindh. Vùng biển Keti Bunder là nơi tiếp
nhận KLN từ năm con sông của Punjab thông qua sông Indus cũng nhƣ từ thành
phố Karachi (đây là nơi tiếp nhận 110 triệu gallon nƣớc thải sinh hoạt mỗi ngày và
37,000 tấn chất thải công nghiệp/năm từ 30,000 đơn vị công nghiệp). Kết quả phân
tích cho thấy giá trị trung bình của chất độc và kim loại trong hầu hết các loài cá,
11

tôm đều nằm trong giới hạn cho phép về hàm lƣợng KLN trong thực phẩm từ nhiều
địa phƣơng và không có bất kì rủi ro sức khỏe nào cho ngƣời tiêu thụ [35].
Theo nghiên cứu Maroof A. Khalaf và cộng sự (2012) tại Vịnh Aqaba, là một
Vịnh kín thuộc Biển Đỏ, Jordan về sự tích lũy KLN trên những bộ phận khác nhau
của ba loài cá thuộc họ cá Khế (Carangidae) gồm cá Nục Thu (Decapterus
macarellus), cá Nục Thuôn (Decapterus macrosoma), và cá Nục Gai (Decapterus
russelli) cho 7 kim loại (Cu, Ni, Mn, Pb, Zn, Cd, Fe). Kết quả phân tích chỉ ra rằng
có sự khác biệt đáng kể hàm lƣợng kim loại giữa ba loài cá D. macarelus, D
macrosoma và D. russelli. Trong đó hai loài: Decapterus macarellus và D.
macrosoma có nơi sống giống nhau, sử dụng thức ăn tƣơng tự (động vật phù du,
động vật đáy không xƣơng sống và sinh vật phù du khác). Ngƣợc lại cá D. russelli
sống ở vùng nƣớc sâu từ tầng giữa đến tầng đáy và sử dụng động vật phù du, động
vật đáy, động vật giáp xác đáy và sinh vật trôi để làm thức ăn, điều đó giải thích cho
sự khác nhau về hàm lƣợng kim loại trong các loài cá [47].
Không chỉ dừng lại ở đánh giá hàm lƣợng, sự tích lũy KLN trong sinh vật, môi
trƣờng mà ngày nay đã có nhiều nghiên cứu mở rộng hơn trong lĩnh vực này. Dựa
vào nghiên cứu sự tích lũy KLN trong sinh vật, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu hơn
vào việc đánh giá rủi ro sức khỏe của ngƣời tiêu thụ thực phẩm bị nhiễm KLN.
Những nghiên cứu theo hƣớng mới giúp cho nhà quản lý môi trƣờng quản lý tốt
những ảnh hƣởng của nó đến sức khỏe ngƣời dân, cũng nhƣ kịp thời đƣa ra khuyến

cáo cho ngƣời tiêu thụ thực phẩm nhằm hạn chế tốt nhất những rủi ro sức khỏe,
bệnh tật.
Một nghiên cứu của Z. Khoshnood and R. Khoshnood (2013)về rủi ro sức
khỏe ngƣời tiêu thụ cá tại hai khu vực bị ô nhiễm Pb, Cd ở Iran đƣợc dựa vào
thƣơng số THQ. Sự phân bố của Cd và Pb đƣợc phân tích trong thịt và gan của sáu
loài cá khác nhau (Lutjanus johnii, Lutjanus lemniscatus, Liza subviridis, Sillago
sihama, Acanthopagrus latus và Pampus argentus) ở vùng Vịnh Ba Tƣ. Kết quả
phân tích cho thấy giá trị THQ của Cd, Pb trong tất cả mẫu đều thấp hơn 1 cho cả
ngƣời lớn và trẻ em. Tổng THQs (Cd và Pb) ở ngƣời lớn tại khu vực Bushehr và
Bandar - Genaveh là 0.05 và trẻ em là 0.04; tại khu vực Bushehr và Bandar -
12

Genaveh ở ngƣời lớn là 0.08 và trẻ em là 0.05 [63].
A.L. Rantetampang, Anwar Mallongi (2013) tập trung nghiên cứu về ô nhiễm
Pb và đánh giá rủi ro sức khỏe của ngƣời tiêu thụ hải sản ở Sentani Lake, Papua,
Indonesia. Kết quả phân tích đã cho thấy nồng độ của Pb trong nƣớc, trầm tích,
động vật hai mảnh vỏ, sinh vật đáy và cá dao động tƣơng ứng từ 0.13 - 1,87 mg/l,
1.24 - 3.84 mg/kg, 0.43 - 2.76 mg/kg, 0.27 - 2.78 mg/kg, 1.39 - 3.55 mg/kg. Ngoài
ra theo nghiên nghiên cứu này tất cả thƣơng số THQ đều nhỏ hơn 1, nên không ảnh
hƣởng nhiều đến sức khỏe con ngƣời [36].
Sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp và hoạt động công
nghiệp đã dẫn đến chất gây ô nhiễm phát thải ngày càng tăng vào hệ sinh thái ven
biển. KLN là một trong những chất gây ô nhiễm phổ biến nhất trong khu vực ven
biển. Nhận xét này đƣợc P.V Krishna (2014) làm rõ qua nghiên cứu đánh giá rủi ro
sức khỏe của KLN thông qua việc tiêu thụ cá biển Liza macrolepis tại bờ biển
Machilipatnam, Andhra Pradesh, Ấn Độ. Kết quả phân tích nồng độ kim loại
(mg/kg) trong thịt và gan của cá lần lƣợt nhƣ sau: Nồng độ Zn là 34.6 và 38.2; Pb là
14.2 và 15.5; Ni là 10.4 và 11.8; Cu là 33.2 và 34.2; Hg 2.1 và 2.9; Cd là 0.8 và 0.9.
Hầu hết giá trị THQ > 1, trừ Cd. Cụ thể nhƣ sau: của Zn là 17.9; Pb là 7.3; Ni là 5.3;
Cu là 17.2; Hg là 1.08; và Cd là 0.4. Vì vậy tiêu thụ cá Liza macrolepis từ bờ biển

Machilipatnam gây ảnh hƣởng đến sức khỏe của ngƣời tiêu thụ, ngƣời dân không
nên sử dụng cá ở đây làm thực phẩm thƣờng ngày [53].
Ảnh hƣởng đến sức khỏe không chỉ riêng từng hóa chất mà ảnh hƣởng có thể
là sự tƣơng tác của hai hay nhiều hóa chất nguy hại với nhau. Vì vậy đánh giá rủi ro
sức khỏe không chỉ dừng lại ở riêng lẻ từng kim loại, mà cần đánh giá sự kết hợp
của chúng lại với nhau. Nghiên cứu của Joseph o. osakwea và cộng sự (2014) tại
sông Imo của Negeria. Nghiên cứu này đã đánh giá nguy cơ sức khỏe từ KLN (Cd,
Cu, Zn, Ni, Pb và Fe) qua việc tiêu thụ cá trê (Clarias gariepinus) dựa vào thƣơng
số THQs và chỉ số rủi ro HI. Kết quả phân tích giá trị thƣơng số THQ của tất cả
KLN nhỏ hơn 1, giảm theo thứ tự Cd> Ni> Zn> Fe> Cu> Pb, và giá trị rủi ro của
chúng tƣơng ứng là là 0.31, 0.14, 0.019, 0.017, 0.015 và 0.0.01. Giá trị HI là 0.499,
thấp hơn 0.5 lần so với giá trị ngƣỡng là 1. Kết quả này chỉ ra rằng nguy cơ sức
13

khỏe liên quan đến từng KLN hay kết hợp tất cả kim loại thông qua tiêu thụ cá trê là
tƣơng đối thấp vào lúc này. Tuy nhiên, do mối nguy hiểm sức khỏe tiềm năng của
KLN, hệ thống sông Imo đòi hỏi phải theo dõi để ngăn chặn nguy cơ sức khỏe tốt
[43].
Một nghiên cứu khác của P. O. Ukoha và cộng sự (2014) cũng tại Negria về
đánh giá rủi ro sức khỏe của KLN (Cd, Cu, Fe) trong ba loài cá đông lạnh nhập
khẩu đƣợc tiêu thụ rộng rãi tại Negria: Sardenlla Syndesis, Scomber Scombrus và
Gadus mangala. Nguy cơ sức khỏe của con ngƣời về tiêu thụ cá đƣợc đánh giá bằng
cách tính thƣơng số nguy hiểm HQ và tổng chỉ số rủi ro THI của độc chất KLN. Kết
quả phân tích hóa học chỉ ra rằng mức độ tập trung của các yếu tố này trong phạm
vi tƣơng ứng là 0.001 - 0.150 mg /kg; 1.05 - 12.06 mg /kg và 8.21 - 85.06 mg /kg
đối với Cd, Cu và Fe. Ngoài ra kết quả của đánh giá nguy cơ sức khỏe dựa trên tổng
chỉ số nguy hiểm (THI) của tất cả chất độc hại cho thấy không có nguy cơ từ tiêu
thụ loài cá đƣợc nghiên cứu [51].
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam nghiên cứu về tích lũy KLN chủ yếu tập trung vào động vật thân

mềm và thực vật. Số lƣợng những nghiên cứu đánh giá hàm lƣợng KLN trong động
vật có xƣơng sống nhƣ cá vẫn còn hạn chế, bài nghiên cứu chƣa đƣợc công bố rộng
rãi. Chủ yếu tập trung trong một số nghiên cứu của Nguyễn Quốc Thắng, Nguyễn
Thị Diệu Thúy, Mai Thị Xuân Hiếu.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Quốc Thắng (2010) về xác định hàm lƣợng Hg,
Se, As trong cá thu (Acanthocybium), cá trích (Clupeidea) ở hai bến cá Cửa Hội
(Nghệ An) và Hộ Độ (Hà Tĩnh). Từ kết quả phân tích có thể kết luận: Hàm lƣợng
nguyên tố Hg, Se nằm dƣới ngƣỡng cho phép về vệ sinh an toàn thực phẩm theo
TCVN và theo tiêu chuẩn thế giới biển ở hai vùng này chƣa có dấu hiệu ô nhiễm Hg
và Se. Tuy nhiên hàm lƣợng As trong cá trích ở cả hai vùng cao hơn so với TCVN,
điều này có thể là do khả năng tích tụ As cao của loài cá này [25].
Trong nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Diệu Thúy (2012) về phân tích đánh
giá tổng hàm lƣợng As trong cá biển trên địa bàn TP. Đà Nẵng bằng phƣơng pháp
hấp thụ nguyên tử AAS. Tác giả tiến hành phân tích làm hai đợt vào 12/3/2012 và
14

30/3/2012 trên 10 loài cá (cá thu, cá chuồn, cá trích, cá ngừ, cá đuối, cá ngân, cá
nục, cá nhám, cá phèn, cá chỉ vàng). Kết quả phân tích hai đợt cho thấy hầu hết cá
mẫu cá đều nhiễm As. Hàm lƣợng As trong mỗi loại cá ở hai đợt phân tích không
khác nhau nhiều. Hàm lƣợng As trong mẫu cá nằm trong giới hạn cho phép, dao
động từ 0.01 mg/kg - 0.22 mg/kg. Đặc biệt cá phèn và cá đuối có hàm lƣợng As cao
nhất (0.193 mg/kg - 0.215mg/kg) nhƣng mức an toàn vẫn nằm trong giới hạn cho
phép theo QĐ - BYT 867/BYT (1998). Những loài cá có hàm lƣợng As thấp hơn là:
cá đuối, cá chuồn, cá ngừ, cá nục, cá trích (0.062 mg/kg - 0.109 mg/kg) và hàm
lƣợng As không đáng kể là cá thu, cá ngân, cá chỉ vàng (0.015-0.058 mg/kg) [26].
Một nghiên cứu của Mai Thị Xuân Hiếu (2014) về hàm lƣợng KLN (Pb, Cd,
Cr) trong trầm tích và trong mô một số loài cá ở khu vực cửa Đại thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam. Nghiên cứu này đã tiến hành phân tích trên 4 đối tƣợng gồm cá
Ong Căng (Terapon), cá Liệt lớn (Leiognathus equulus), cá Móm gai dài (Gerres
filamentosus), cá Móm gai ngắn (Gerres lucidus) và trầm tích tại khu vực này. Kết

quả phân tích cho thấy hàm lƣợng Pb, Cd, Cr trong trầm tích tại khu vực nghiên cứu
nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 43/2012/BTNMT, tuy nhiên khi so sánh
với tiêu chuẩn của Canada thì hàm lƣợng Pb và Cd trong 3 khu vực nghiên cứu đều
vƣợt TCCP. Mức độ quan tâm của KLN tại khu vực nghiên cứu đƣợc sắp xếp nhƣ
sau Pb > Cd > Cr. Hàm lƣợng Cd trung bình tích lũy trong mô cá qua 2 đợt thu mẫu
đều thấp, điều này cho thấy chƣa có ô nhiễm Cd tại khu vực này. Tuy nhiên hàm
lƣợng Pb trung bình trong mô cá Liệt lớn, cá Móm gai ngắn, cá Móm gai dài và
hàm lƣợng Cr trong mô loài cá Liệt lớn hầu hết đều vƣợt tiêu chuẩn. Điều đó chứng
tỏ đã có ô nhiễm Pb và Cr trong mô các loài cá trên, vì vậy cần thận trong khi sử
dụng những loài này làm thực phẩm cho con ngƣời [15].
Đánh giá rủi ro sức khỏe đối với ngƣời tiêu thụ thực phẩm đã bắt đầu đƣợc
nghiên cứu ở Việt Nam, tuy nhiên số lƣợng nghiên cứu còn ít, chỉ tập trung vào
nghiên cứu rủi ro sức khỏe do ô nhiễm môi trƣờng không khí, ô nhiễm KLN trong
rau. Những nghiên cứu về rủi ro sức khỏe do ô nhiễm KLN trong cá vẫn chƣa đƣợc
tiến hành tại Việt Nam.
Lê Thị Hồng Trân, Trần Thị Tuyết Giang (2009) đã bắt đầu nghiên cứu về
15

đánh giá rủi ro sức khỏe do ô nhiễm không khí đối với công nhân tại hai KCN Vĩnh
Lộc và KCN Tân Thới Hiệp. Trong nghiên cứu này tác giả tập trung vào một số loại
khí thải NO
2
, SO
2
, NH
3
, H
2
S và bụi dựa vào thƣơng số nguy hại HQ (Hazard
Quotient). Kết quả phân tích cho thấy tại KCN Tân Thới Hiệp thì tại 2 vị trí, thƣơng

số nguy hại của khí NO
2
và SO
2
đều nhỏ hơn 1 và nằm trong giới hạn rủi ro thấp
đối với sức khoẻ công nhân, thƣơng số nguy hại cho chỉ tiêu bụi lớn hơn 1 (vị trí 1
là 3.128 và vị trí 2 là 3.379) gây rủi ro cao đối với sức khoẻ công nhân. Đối với
KCN Vĩnh Lộc ngoại trừ thƣơng số nguy hại của NO
2
tại vị trí 1 là 1.152 >1, gây
nguy hại đối với sức khoẻ công nhân, những chỉ tiêu còn lại đều nhỏ hơn 1, không
gây nguy hại rủi ro đối với sức khoẻ công nhân. Tuy nhiên thƣơng số nguy hại của
SO
2
đều khá cao, gần tới ngƣỡng 1 nên cần tránh tình trạng vƣợt ngƣỡng [29].
Nghiên cứu của Đoạn Chí Cƣờng và cộng sự (2014) tại TP. Đà Nẵng đƣợc
thực hiện để đánh giá rủi ro của KLN khi sử dụng rau muống đƣợc trồng tại thôn
Trung Sơn. Các tác giả đã tiến hành phân tích hàm lƣợng KLN trong đất và rau, xác
định hệ số vận chuyển (TCs) và chỉ số rủi ro sức khỏe (HRI) đối với Cd, Cr và Pb.
Kết quả cho thấy hàm lƣợng Cd (0.0202 mg/kg), Cr (1.1046 mg/kg) và Pb (3.38
mg/kg) trong đất đều thấp hơn so với quy định của QCVN 03:2008/BTNMT và
QCVN 43:2012/BTNMT. Hàm lƣợng KLN tích lũy trong rau muống cao hơn trong
đất: Cd (0.0396 mg/kg), Cr (1.484 mg/kg) và Pb (1.656 mg/kg) do đó hầu hết TCs
>1. Giá trị chỉ số rủi ro HRI trong rau muống thấp hơn 1 cho tất cả KLN tại tất cả
điểm thu mẫu nên không có rủi ro về sức khỏe khi sử dụng rau muống đƣợc trồng
tại thôn Trung Sơn [8].
1.5. CƠ CHẾ HẤP THỤ KLN Ở CÁ
Cá sống ở vùng nƣớc bị ô nhiễm có xu hƣớng tích tụ KLN trong các mô. Nhìn
chung sự tích lũy phụ thuộc vào nồng độ kim loại, thời gian tiếp xúc, cách hấp thụ
kim loại, điều kiện môi trƣờng (nhiệt độ nƣớc, pH, độ cứng, độ mặn) và yếu tố nội

tại (tuổi cá, thói quen ăn uống). Ở loài cá khác nhau thì khả năng tích lũy KLN cũng
khác nhau và kim loại khác nhau cho thấy mối quan hệ khác nhau đến các mô cá.
Hầu hết tích lũy chủ yếu ở gan, thận và mang. Thịt cá so với các mô khác thƣờng
chứa hàm lƣợng thấp KLN, tuy nhiên là bộ phận đƣợc sử dụng nhiều nhất để làm
16

thực phẩm. Tích lũy KLN trong cơ quan của cá có thể gây tổn thƣơng cấu trúc và
rối loạn chức năng của cá và gián tiếp ảnh hƣởng đến sức khỏe ngƣời tiêu thụ [37].
Con đƣờng kim loại vào cá phụ thuộc vào đặc điểm hóa lý của môi trƣờng và
đặc điểm sinh học của sinh vật. Có ba cách kim loại có thể đi vào cơ thể cá: thông
qua bề mặt cơ thể, qua mang và đƣờng tiêu hóa. Tuy nhiên, bề mặt cơ thể cá ít cho
chất nguy hại trong môi đi vào trong bởi da cá có khả năng tiết ra chất dịch nhày
giúp ngăn chặn KLN xâm nhập vào cơ thể [55].
Nƣớc bị ô nhiễm KLN đi vào cá thông qua mang. Mang cá là vị trí chính đƣa
KLN hòa tan đi vào cơ thể sinh vật. Vai trò sinh lý quan trọng nhất của mang cá là
lấy oxy từ nƣớc và thải carbon đioxít (CO
2
). Bởi vì nƣớc chứa ít oxy hòa tan hơn
không khí, một con cá phải chuyển khoảng 20 lít nƣớc qua bề mặt hô hấp để trích
xuất cùng một lƣợng oxy nhƣ một động vật có vú để có đƣợc 1 lít không khí. Điều
này có nghĩa rằng một lƣợng lớn kim loại đƣợc truyền tải qua mang bất cứ lúc nào,
làm tăng sự hấp thụ kim loại vào cơ thể [62].
Các chất ô nhiễm trong trong trầm tích, chất rắn lơ lửng, sinh vật là thức ăn
của cá đƣợc hấp thụ vào cá thông qua đƣờng tiêu hóa. Cá sử dụng thức ăn bị ô
nhiễm sau đó đi vào cơ thể và đƣợc hấp thụ bởi thành ruột [55].
Nói chung, kim loại hấp thụ qua da, mang hoặc thành ruột đƣợc phân phối
thông qua hệ tuần hoàn, liên kết với protein đƣợc vận chuyển đến các mô khác nhau
của cơ thể. Trong mô, kim loại có thể tham gia vào chức năng sống cần thiết nhƣng
cũng có thể gây những tác động độc hại, hoặc đƣợc khử độc bằng cách gắn vào
protein, metallothionein [62].

Kim loại không thể đƣợc đào thải qua quá trình trao đổi chất, sinh vật phải làm
bất hoạt những độc chất hại tiềm tàng. Kim loại có thể đƣợc bài tiết qua mang, da,
ruột, túi mật hoặc thận. Bài tiết là một trong những cách giúp sinh vật bảo vệ mình
chống lại tác động độc hại của KLN [62].
1.6. TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Vịnh Đà Nẵng có tọa độ tâm điểm đƣợc xác định là 16
o
08’ - 13.06’’ vĩ độ bắc
và 108
o
11’ - 55.24’’ kinh độ đông, nằm ở Nam Trung bộ - Việt Nam. Vịnh là một
vùng kín gió, ít sóng, có 3 con sông chính đổ vào là sông Hàn, sông Phú Lộc, sông

×