Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

PHÁT TRIỂN DU LỊCH HẢI PHềNG GẮN VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.14 KB, 30 trang )

ĐỀ TÀI : PHÁT TRIỂN DU LỊCH HẢI PHÒNG
GẮN VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
A. MỞ ĐẦU :
 Lý do chọn đề tài :
Ngày nay đời sống của con người ngày càng cao, họ không những có
nhu cầu đầy đủ về vật chất mà còn có nhu cầu được thoả mãn về tinh
thần như vui chơi, giải trí và du lịch. Do đó, du lịch là một trong những
ngành có triển vọng. Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với
các nước khác trên thế giới nhưng vai trò của nó thì không thể phủ
nhận. Du lịch là một ngành “công nghiệp không có ống khói”, mang lại
thu nhập GDP lớn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng
vạn lao động, góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra toàn thế giới.
Nhận thức được điều này, Đảng và nhà nước đã đưa ra mục tiêu xây
dựng ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việc nghiên cứu về
du lịch trở nên cấp thiết, nó giúp chúng ta có một cái nhìn đầy đủ,
chính xác về du lịch. Điều này có ý nghĩa cả về phương diện lí luận và
thực tiễn. Nó giúp du lịch Việt Nam đạt được những thành tựu mới,
khắc phục được những hạn chế, nhanh chóng đưa du lịch phát triển
đúng với tiềm năng của đất nước, nhanh chóng hội nhập với du lịch
khu vực và thế giới. Hải Phòng cùng với những lợi thế của mình đang
ngày một phát triển không ngừng , khai thác và tận dụng tối đa tiềm
năng du lịch của mình , phấn đấu đưa ngành ”công nghiệp không khói“
Thành phố Hải Phòng nằm ở vị trí cửa ngõ phía đông bắc trên lưu vực
đồng bằng sông Hồng, mang dáng dấp của nét kiến trúc châu Âu thời
kỳ thuộc địa. Khu phố cũ soi mình bên dòng sông Cấm và những những
con đường rợp bóng hàng cây phượng vĩ, Hải Phòng có một tên gọi
khác theo tên của loài hoa rực lửa này. Không yêu kiều như Hà Nội hay
sôi động như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng có những sắc thái
riêng không thể lẫn với bất kỳ thành phố nào khác trên cả nước.
Đến với Hải Phòng để được hiểu thêm về nền văn minh lúa nước đặc
trưng vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đến với Hải Phòng để tìm


hiểu những ảnh hưởng của sự đồng hoá nét Châu Âu trong từng khối
kiến trúc. Đến với Hải Phòng là đến với thiên đường của du lịch sinh
thái biển, trở về với thiên nhiên, hoà mình đồng điệu cùng với nhịp thở
tự nhiên của khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, đến với Đồ Sơn
xinh đẹp đầy nắng và gió . Với hệ thống giao thông quan trọng, thuận
lợi và là một cực của tam giác tăng trưởng kinh tế trọng điểm Hà Nội –
Hải Phòng – Quảng Ninh, Hải Phòng hội tụ đầy đủ mọi điều kiện thuận
lợii trong phát triển du lịch nói riêng, kinh tế xã hội nói chung và là cơ
hội để thu hút khách du lịch.
Là một người con được sinh ra và lớn lên trên thành phố xinh đẹp
này . E luôn yêu quý và tự hào, và thêm gắn bó thiết tha với quê hương
mình. Bằng sự hiểu biết của mình cũng như tham khảo tài liệu , bài tiểu
luận của em đề cập đến tình hình phát triển du lịch của thành phố Hải
Phòng cũng như các giải pháp phát triển du lịch bền vững gắn với bảo
vệ môi trường . Do sự hạn chế về thời gian cũng như sự hiểu biết nên
bài tiểu luận của em còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ
bảo them của thầy cô để bài của em được hoàn thiện hơn :
B. NÔI DUNG :
Chương I :Khái quát chung về Hải Phòng :
1. Sơ lược về thành phố Hải Phòng:
Hải Phòng được biết đến với các tên gọi không chính thức như thành
phố hoa phượng đỏ ( do thành phố trước đây trồng nhiều cây
phượng ), thành phố Cảng ( đây là tên gọi không chinh thức phổ biến ở
miền bắc trước 1975 do lúc đó hải phòng là thành phố cảng lớn nhất
của nước việt nam dân chủ cộng hòa ) hoặc thành phố còn đươc biết
đến với tên gọi là Thành Tô (một thời gian ngắn sau giải phóng miền
Bắc năm 1955, gọi theo tên Tô Hiệu )
Hải Phòng là thành phố duyên hải nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái
Bình thuộc đồng bằng sông Hồng diện tích tự nhiên là 1.507,57 km2,,có
vị trí nằm trong khoảng từ 20035’ đến 21001’ vĩ độ Bắc, và từ 106029’

đến 107005’ kinh độ Đông; phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh,
phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình và
phía Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa
sông lớn là Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.
Thành phố biển Hải Phòng, một trong những trung tâm du lịch lớn của
Việt Nam, nằm bên bờ biển Đông - Thái Bình Dương; phía bắc giáp tỉnh
Quảng Ninh, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp tỉnh Hải Dương,
phía nam giáp tỉnh Thái Bình.
Có thể nói, Hải Phòng là nơi có lịch sử vinh quang ngàn năm, một vùng
đất hội tụ đầy đủ khí thiêng sông núi, và một cư dân anh dũng, sáng
tạo và rất cởi mở, dễ hoà hợp với bè bạn bốn phương. Những người
dân từ nhiều miền quê đến sinh sống tại vùng đất cửa biển này đã hình
thành nên tính cách kiên nghị, năng động, sáng tạo trong lao động,
luôn nhạy bén với cái mới, làm cho người Hải Phòng sớm tiếp thu được
những tinh hoa của thời đại trước biến thiên của lịch sử. Tất cả những
yếu tố trên đã và sẽ làm cho Hải Phòng trở thành một địa danh du lịch
nổi tiếng trong nước và quốc tế.
2. Điều kiện tự nhiên của Hải Phòng :
Thành phố có điều kiện tự nhiên rất phong phú, giàu đẹp, đa dạng và có
nhiều nét độc đáo mang sắc thái của cảnh quan nhiệt đới gió mùa. Nơi
đây có rừng quốc gia Cát Bà - Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới - là khu
rừng nhiệt đới nguyên sinh nổi tiếng, đặc biệt phong phú về số lượng
loài động thực vật, trong đó có nhiều loài được xếp vào loài quý hiếm
của thế giới
+ Khí hậu
Hải Phòng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
23ºC - 24ºC, lượng mưa hàng năm 1.600 – 1.800mm, quanh năm thời
tiết ấm áp, bốn mùa cây trái xanh tươi. Khí hậu của Hải Phòng cũng khá
đặc sắc, ôn hoà, dồi dào nhiệt ẩm và quanh năm có ánh nắng chan hoà,
rất thích nghi với sự phát triển của các loài động thực vật nhiệt đới, đặc

biệt rất dễ chịu với con người vào mùa thu và mùa xuân.
Nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á, sát biển Đông nên Hải
Phòng chịu ảnh hưởng của gió mùa. Mùa gió bấc (mùa đông) lạnh và
khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Gió mùa nồm (mùa hè)
mát mẻ, nhiều mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa trung
bình hàng năm từ 1.600 - 1.800 mm. Bão thường xảy ra từ tháng 6 đến
tháng 9.
Thời tiết của Hải Phòng có 2 mùa rõ rệt, mùa đông và mùa hè. Khí hậu
tương đối ôn hoà. Do nằm sát biển, về mùa đông, Hải Phòng ấm hơn
10ᵒC và về mùa hè mát hơn 10ᵒC so với Hà Nội. Nhiệt độ trung bình
hàng tháng từ 20 - 23ᵒC, cao nhất có khi tới 40ᵒC, thấp nhất ít khi dưới
5ᵒC. Độ ẩm trung bình trong năm là 80% đến 85%, cao nhất là 100% vào
những tháng 7, tháng 8, tháng 9, thấp nhất là vào tháng 12 và tháng 1.
Trong suốt năm có khoảng 1.692,4 giờ nắng. Bức xạ mặt đất trung bình
là 117 Kcal cm/phút.
+ Địa lý , thổ nhưỡng :
Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sử
địa chất lâu dài và phức tạp. Phần bắc Hải Phòng có dáng dấp của một
vùng trung du với những đồng bằng xen đồi trong khi phần phía nam
thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng
bằng thuần tuý nghiêng ra biển.
Hải Phòng có bờ biển dài trên 125 km. Ngoài khơi thuộc địa phận Hải
Phòng có nhiều đảo rải rác trên khắp mặt biển, lớn nhất có đảo Cát Bà,
xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ. Biển, bờ biển và hải đảo đã tạo nên cảnh
quan thiên nhiên đặc sắc của thành phố duyên hải. Đây cũng là một thế
mạnh tiềm năng của nền kinh tế địa phương.
Do đặc điểm lịch sử địa chất, vị trí địa lý, Hải Phòng có nhiều nguồn lợi,
tiềm năng: có mỏ sắt ở Dương Quan (Thuỷ Nguyên), mỏ kẽm ở Cát Bà
(tuy trữ lượng nhỏ); có sa khoáng ven biển (Cát Hải và Tiên Lãng); mỏ
cao lanh ở Doãn Lại (Thuỷ Nguyên), mỏ sét ở Tiên Hội, Chiến Thắng

(Tiên Lãng). Đá vôi phân phối chủ yếu ở Cát Bà, Tràng Kênh, Phi Liệt,
phà Đụn; nước khoáng ở xã Bạch Đằng (Tiên Lãng). Muối và cát là hai
nguồn tài nguyên quan trọng của Hải Phòng, tập trung chủ yếu ở vùng
bãi giữa sông và bãi biển, thuộc các huyện Cát Hải, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo,
Kiến Thuỵ, Đồ Sơn.
. Đồng thời, nơi đây còn có cả một vùng đồng bằng thuộc vùng đồng
bằng tam giác châu thổ sông Hồng, tạo nên một cảnh quan nông
nghiệp trồng lúa nước là nét đặc trưng của vùng du lịch ven biển Bắc
Bộ và cả một vùng biển rộng với nguồn tài nguyên vô cùng phong phú,
nhiều hải sản quý hiếm và bãi biển đẹp.
Với di chỉ khảo cổ Cái Bèo (Cát Bà) chứng tỏ mảnh đất này cách đây
trên 6.000 năm đã có người sinh sống. Hiện nay, Hải Phòng còn giữ
được nhiều di tích lịch sử, nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều đền, chùa,
lăng miếu và lễ hội Chọi trâu, một lễ hội độc đáo, nổi tiếng của Đồ Sơn.
3. Điều kiện kinh tế - xã hội :
Tính đến tháng 12/2011, dân số Hải Phòng là 1.907.705 người, trong
đó dân cư thành thị chiếm 46,1% và dân cư nông thôn chiếm 53,9%, là
thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh.
Hải phòng là một thành phố cảng và công nghiệp ở miền Bắc Viet Nam
và là một thành phố biển nằm trong vùng duyên hải bắc bộ , còn là 1
trong 28 tỉnh/thành phố duyên hải. Hải phòng là 1 trong 5 thành phố
trực thuộc trung ương và là 1 đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia , là
thành phố lớn thứ 3 của việt nam , có vị trí quan trọng về kinh tế xã hội
và an ninh ,quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước
Là thành phố cảng, cửa chính ra biển quan trọng của nước ta, là đầu
mối giao thohg quan trọng vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ, trên 2 hành
lang – 1 vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc . Hải Phòng là
đầu mối giao thông đường biển phía bắc. Với lợi thế cảng nước sâu nên
vận tải biển rất phát triển, đồng thới là một trong những động lực tăng

trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Là trung tâm kinh tế - khoa học- kĩ thuật tổng hợp của vùng duyên hải
Bắc Bộ và là một trong những trung tâm phát triển của vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ và cả nước ( quyết định 144/QĐ-TTG ngày
16/9/2009 của thủ tướng chính phủ ) hải phòng còn là trụ sở của bộ tư
lệnh hải quân , trụ sở của bộ tư lệnh quân khu 3 trong 8 bộ tư lệnh. hải
phòng có nhiều khu công nghiệp, thương mại lớn , và là trung tâm dịch
vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ Việt
Nam .
Đối với vùng du lịch Bắc Bộ, Hải Phòng cũng được xác định là một trong
ba hạt nhân để tập trung phát triển mang tính động lực thúc đẩy sự
phát triển du lịch của cả vùng. Theo quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch của cả vùng du lịch Bắc Bộ thì Hải Phòng có vị trí quan trọng trên
một trong hai tuyến du lịch ven biển quan trọng theo đường bộ đó là:
1. Ninh Bình – Nam Định – Thái Bình – Hải Phòng – Hạ Long nối Hạ Long
cạn theo đường ven biển đến vịnh Hạ Long – di sản thiên nhiên của thế
giới (theo quốc lộ 10). Tuyến đường này cùng với tuyến đường quốc lộ
5 nối Hà Nội – Hải Phòng là các trục đường bộ quan trọng nối Hải
Phòng với các thị trường khách du lịch của cả vùng.
2.Huế - Đà Nẵng – Quảng Ngãi – Bình Định – Phú Yên – Nha Trang, Ninh
Chữ - Đà Lạt – thành phố Hồ Chí Minh nối cố đô Huế – di sản văn hoá
thế giới với thành phố Hồ Chí Minh - đô thị lớn nhất Việt Nam (theo
quốc lộ 1A).
Về đường biển, Hải Phòng là địa phương có ưu thế hơn hẳn các địa
phương khác trong vùng Bắc Bộ để phát triển tuyến du lịch đường biển.
Thông qua Hải Phòng, vùng Bắc Bộ không những tiếp cận được với các
thị trường khách du lịch từ các vùng khác trong cả nước mà còn nối với
quốc tế.
Về đường hàng không, Hải Phòng có sân bay Cát Bi là sân bay thứ hai
của vùng Bắc Bộ, nối Hải Phòng với các thị trường khách du lịch trong cả

nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… đồng thời là cửa
khẩu quốc tế nối Hải Phòng với Ma Cao (Trung Quốc) bằng đường hàng
không, đáp ứng được việc vận chuyển khách bằng các máy bay hành
khách lớn.
Về đường sắt, Hải Phòng được nối với Hà Nội bằng tuyến đường sắt Hải
Phòng - Hà Nội và tiếp nối với tuyến đường sắt đi Lào Cai – Vân Nam
(Trung Quốc), đi Lạng Sơn – Quảng Tây (Trung Quốc) và nối với tuyến
đường sắt xuyên Việt Bắc - Nam.
Chương 2 : Thống kê tiềm năng du lịch Hải Phòng :
I.Tài nguyên thiên nhiên :
1.Tài nguyên biển:
Tài nguyên biển là một trong những nguồn tài nguyên quí hiếm của Hải
Phòng với gần 1.000 loài tôm, cá và hàng chục loài rong biển có giá trị
kinh tế cao như tôm rồng, tôm he, cua bể, đồi mồi, sò huyết, cá heo,
ngọc trai, tu hài, bào ngư là những hải sản được thị trường thế giới
ưa chuộng. Biển Hải Phòng có nhiều bãi cá, lớn nhất là bãi cá quanh đảo
Bạch Long Vĩ với trữ lượng cao và ổn định. Tại các vùng triều ven bờ,
ven đảo và các vùng bãi triều ở các vùng cửa sông rộng tới trên 12.000
ha vừa có khả năng khai thác, vừa có khả năng nuôi trồng thuỷ sản
nước mặn và nước lợ có giá trị kinh tế cao.
Biển Hải Phòng có hình một đường cong lõm, là một bộ phận thuộc Tây
Bắc vịnh Bắc Bộ với đường bờ biển dài hơn 125 km, thấp và bằng
phẳng. Mũi Đồ Sơn nhô ra biển như một bán đảo, tạo cho Đồ Sơn một
vị trí chiến lược quan trọng và thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng. Ngoài
khơi thuộc địa phận Hải Phòng có nhiều đảo rải rác như Cát Bà, Bạch
Long Vĩ. Trong đó, Cát Bà là đảo lớn thứ hai trong vịnh Bắc Bộ (sau đảo
Cái Bàu - Quảng Ninh) với nhiều hang động và những cánh rừng nguyên
sinh. Đặc biệt, vườn quốc gia Cát Bà với nhiều chủng loại, chi họ của hệ
động, thực vật và các danh thắng trên đảo đã biến vườn trở thành một
khu du lịch nổi tiếng.

2. Tài nguyên đất :
Hải Phòng có trên 57.000 ha đất canh tác, hình thành từ phù sa của hệ
thống sông Thái Bình và nằm ven biển. Ngoài ra còn có nguồn nước
khoáng ngầm tập trung ở đảo Cát Bà và huyện Tiên Lãng . Khả năng
khai thác nguồn khoáng ngầm ở đây có thể đạt tới hàng triệu lít/ năm .
Nguồn nước khoáng ở đây luôn là 38 ᵒC rất thích hợp cho du lịch nghỉ
dưỡng .
3. Tài nguyên sinh vật
Tài nguyên sinh vật phục vụ du lịch chủ yếu nằm trong các vườn bảo
tồn, khu dự trữ sinh quyển và đặt biệt là vườn quốc gia Cát Bà . Nợi đây
là khu rừng nguyên sinh có hệ động thực vật vô cùng phong phú . Thực
vật có 741 loài , thực vật ngập mặn 23 loài, thực vật phù du 199 loài .
Động vật có 282 loài, trong đó 20 loài thú , 69 loài chim, 20 loài bò sát
và lưỡng cư, 11 loài ếch nhái, đặc biệt là vooc Cát Bà là loài thú quý
hiếm chỉ còn lại tại Việt Nam . Động vật phù du 98 loài, cá biển là 196
loài , san hô là 177 loài … Một số loài với các món ăn từ chúng rất hấp
dẫn như tôm , cua, sò huyết, sá sùng …… Những sinh vật biển còn là
nguồn cung cấp nguyên liệu như đồi mồi, ngọc trai,san hô , gỗ quý …
cho ngành thủ công , mĩ nghệ mà người nước ngoài rất ưa chuộng .
4. Tài nguyên khoáng sản, năng lượng,
Hải Phòng có nhiều nguồn lợi, tiềm năng: có mỏ sắt ở Dương Quan
(Thuỷ Nguyên), mỏ kẽm ở Cát Bà (tuy trữ lượng nhỏ); có sa khoáng ven
biển (Cát Hải và Tiên Lãng); mỏ cao lanh ở Doãn Lại (Thuỷ Nguyên), mỏ
sét ở Tiên Hội, Chiến Thắng (Tiên Lãng). Đá vôi phân phối chủ yếu ở Cát
Bà, Tràng Kênh, Phi Liệt, phà Đụn; nước khoáng ở xã Bạch Đằng (Tiên
Lãng). Muối và cát là hai nguồn tài nguyên quan trọng của Hải Phòng,
tập trung chủ yếu ở vùng bãi giữa sông và bãi biển, thuộc các huyện Cát
Hải, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến Thuỵ, Đồ Sơn.
5. Tài nguyên rừng
Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sử

địa chất lâu dài và phức tạp. Phần bắc Hải Phòng có dáng dấp của một
vùng trung du với những đồng bằng xen đồi trong khi phần phía nam
thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng
bằng thuần tuý nghiêng ra biển.
90% diện tích đảo Cát Bà là rừng và đất rừng , trong đó có 570 ha là
rừng nguyên sinh , rừng nguyên sinh tại đây hoang sơ,rậm rạp, hệ sinh
thái rừng nhiệt đới phong phú mang tính đa dạng cao.
II. Cơ sở hạ tầng của thành phố về du lịch :
Ngày nay, do nhận được sự quan tâm đúng đắn của thành phố và các
nhà đầu tư nên du lịch Hải Phòng ngày càng thêm khởi sắc. Sản phẩm
tour du lịch của Hải Phòng ngày càng đa dạng và lôi cuốn, với hệ thống
di tích đền miếu và giá trị văn hoá truyền thống lễ hội, tài nguyên di sản
văn hoá Điều đó đã góp phần làm phong phú các tour du lịch trên địa
bàn.
Khu du lịch Đồ Sơn gần đây đã khai trương bể bơi nước mặn tạo sóng
lớn nhất Châu Á ở Hon Dau Resort, xây dựng khách sạn 5 sao hình cánh
buồm Pullman tại đảo nhân tạo Hoa Phượng - biểu tượng tương lai của
Hải Phòng. Cát Bà hiện nay đang làm tốt việc mở rộng tour, tuyến bằng
thuyền trên vịnh với tàu, xuồng cao tốc và bơi thuyền kayak, ngoài ra
đang nghiên cứu và phát triển thêm chương trình du lịch lặn biển tại
nơi có san hô
+ Các khu nghỉ dưỡng :
Khu du lịch suối nước nóng Tiên Lãng: Khu du lịch suối nước nóng này
được coi là độc nhất vô nhị ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong những năm gần
đây lượng khách du lịch nội địa và nước ngoài đến đây ngày càng tăng.
Đây còn được coi là 1 trong 5 mỏ nước khoáng nóng có giá trị nhất ở
Việt Nam.
Hòn Dáu Resort: Hon Dau Resort nằm tại khu 3 của khu du lịch biển Đồ
Sơn, với hệ thống khách sạn, nhà hàng, trung tâm mua sắm, bể bơi,
khu công viên nước, khu vui chơi, sân gofl, bãi tắm tự nhiên và nhân

tạo cùng với không gian thiên nhiên rộng mở, hồ nước và cây xanh.
Hòn Dáu resort được xây dựng với mục đích xóa bỏ tính mùa vụ trong
du lịch và định kiến về nước biển Đồ Sơn không được trong. Hòn Dáu
Resort còn được đánh giá là "Đà Lạt thu nhỏ" trong lòng biển và là khu
nghỉ dưỡng đồng bộ nhất miền Bắc.
Catba Sunrises và Catba Island Resort & Spa: Đây là 2 khu nghỉ dưỡng
cao cấp nằm tại Cát Bà, cung cấp cho du khách những dịch vụ, tiện nghi
cao cấp với tiêu chuẩn châu Âu. Nơi đây rất thu hút du khách quốc tế
đến nghỉ dưỡng.
Ngoài ra còn có một số resort khác đang trong quá trình xây dựng như
Sông Giá Resort, đảo nhân tạo Hoa Phượng (2013) và Cát Bà
Amatina(2012).
Khách sạn chuẩn quốc tế:
Hiện, toàn thành phố có tất cả 108 cơ sở lưu trú được xếp hạng từ 1
đến 5 sao.Một số khách sạn tiêu biểu cao cấp của Hải Phòng là Best
Western Pearl River đạt 5 sao, cùng với các khách sạn 4 sao khác
làkhách sạn quốc tế Sao Biển, khách sạn Nam Cường (cũ là Tray Hotel),
Harbour View, Camela, Cát Bà Sunrise, Cát Bà Island Resort & Spa, Hữu
Nghị, Princess Hotel, Hoàng Long Classic, Sunflower International
Village,
Một số resort cao cấp nổi tiếng ở Hải Phòng là: Doson Resort, Hon Dau
Resort, Camela Hotel & Resort, Cát Bà Sunrise, Cát Bà Island Resort &
Spa, Sông Giá resort, Monkey Island Resort, Flamingo Cát Bà, Cat Ba
Beach Resort,
Tại Hải Phòng đang có nhiều dự án xây dựng những khách sạn mới tiêu
chuẩn quốc tế. Trong đó có 2 khách sạn theo tiêu chuẩn 5 sao quốc tế
đang được xây dựng: một tại đảo nhân tạo Hoa Phượng, Đồ Sơn và
một ở vịnh tránh bão thuộc đảo Cát Bà, nằm tại Cát Bà Island Resort &
Spa. Ngành du lịch Hải Phòng dự tính sẽ có thêm từ 5 tới 7 khách sạn
chuẩn quốc tế tại nội thành và trên các khu du lịch, nghỉ dưỡng Đồ Sơn,

Cát Bà, và đảo nhân tạo Hoa Phượng để nâng tầm du lịch của thành
phố.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả khả quan và được đánh giá là một
điểm đến hấp dẫn nhưng theo đánh giá của những của những chuyên
gia lữ hành, du lịch Hải Phòng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế vốn có. Hải Phòng vẫn chưa khai thác hết những thế mạnh về địa
lý, tự nhiên và con người. Du lịch thành phố đã và đang tiếp tục có
những bước chuyển mình mạnh mẽ để xứng đáng với vị thế trung tâm
du lịch lớn của Việt Nam.
Hải Phòng được chọn là trung tâm của Năm Du lịch Quốc gia 2013
đồng bằng Sông Hồng. Lễ khai mạc được dự kiến tổ chức ngày 12 tháng
5 năm 2013 tại Quảng trường Nhà hát lớn thành phố Hải Phòng.
III. Du lịch tự nhiên :
Bờ biển Hải Phòng dài hơn 125 km, với 5 cửa sông lớn: Bạch Đằng, Văn
Úc, Cấm, Thái Bình, Lạch Tray. Địa hình bờ biển khúc khuỷu quanh co,
tạo nhiều đảo, hang động đẹp và rất nhiều những bãi tắm tự nhiên kỳ
thú, rất thuận tiện để phát triển du lịch. Bán đảo Đồ Sơn, quần đảo Cát
Bà, khu di tích lịch sử và danh thắng Tràng Kênh - Bạch Đằng nằm phía
Đông Bắc thành phố, khu núi Voi - An Lão phía Tây Nam thành phố là
những địa danh du lịch nổi tiếng không chỉ đối với người Hải Phòng, mà
còn đối với khách du lịch thập phương.
IV. Du lịch nhân văn :
Với hàng trăm Đình, Đền, Chùa, Miếu cùng với những lễ hội truyền
thống đậm đà bản sắc văn hoá miền biển: hội chọi trâu Đồ Sơn, hội đua
Thuyền Rồng ở Cát Bà, hát Đúm ở Thuỷ Nguyên, Đánh Đu ở núi voi - An
Lão, múa rối nước, nghề tạc tượng ở Đồng Minh - Vĩnh Bảo, hội thả Đèn
trời có thể nói Hải Phòng là một vùng đất có truyền thống lịch sử, văn
hoá lâu đời và là thành phố tiềm ẩn nhiều thế mạnh để phát triển du
lịch toàn diện, nhanh và bền vững.
Và còn bán đảo Đồ Sơn, hải đảo Cát Bà, các di tích lịch sử – văn hoá gắn

liền với di chỉ Cái Bèo (Cát Bà), Tràng Kênh, Việt Khê (Thuỷ Nguyên), với
kinh đô triều Mạc, với chiến công lẫy lừng Bạch Đằng Giang, với danh
nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm…
Ngoài ra, Hải Phòng có nhiều di tích lịch sử, trong đó có 94 di tích được
Bộ Văn hoá – Thông tin chứng nhận. Những di chỉ Cái Bèo, Núi Voi (An
Lão), Tràng Kênh; những làng nghề truyền thống như tạc tượng, chạm
khắc, đúc đồng, thảm len; các lễ hội như trọi trâu Đồ Sơn, chơi đu, bơi
thuyền, hội vật… mang đến thế mạnh trong phát triển thương mại và
du lịch địa phương.
Các đền thờ nổi tiếng như :
Đền Trạng ( thờ danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm )
Đền Nghè (thờ nữ tướng Lê Chân)
Đền Tam Kì (thờ Quan Lớn đệ Tam thoải phủ)
Chùa Cấm, Cây Đa 13 gốc, đền Tiên Nga (thờ Chúa bà Năm Phương Vũ
Quận Bạch Hoa công chúa bản cảnh Hải Phòng)
Đền Long Sơn (hay còn gọi là đền Suối Rồng ở Đồ Sơn thờ cô Chín Sòng)
Đền Vạn Ngang - Đồ Sơn (thờ Công đồng Thoải phủ, chính cung Cô Bơ
Bông)
Đền Bà Đế( Đồ Sơn )
Đền Phú Xá (thờ Đức Thánh Trần)
Phủ Thượng Đoạn (thờ Mẫu Liễu Hạnh)
V. Loại hình và sản phẩm du lịch:
a. Loại hình du lịch cơ bản:
Loại hình du lịch cơ bản của thành phố được lựa chọn dựa trên tài
nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn và những lợi thế của thành
phố về phát triển du lịch, đó là:
- Du lịch sinh thái biển kết hợp du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể
thao, du lịch mạo hiểm (leo núi, lặn biển), du lịch hội thảo - hội chợ - hội
nghị;
- Du lịch lễ hội kết hợp khảo cứu văn hoá truyền thống, đặc thù

địa phương;
- Du lịch điền dã (đi bằng xe đạp, thuyền, xuồng máy trên sông)
kết hợp khảo cứu văn hoá làng xã (du lịch cộng đồng), thưởng ngoạn
miệt vườn (ven sông Đa Độ, sông Giá, sông Lạch Tray ).
b. Sản phẩm du lịch chủ yếu:
Sở Du lịch hướng dẫn các doanh nghiệp du lịch xây dựng sản
phẩm du lịch:
Kiến Thụy - Đồ Sơn, nội thành - Kiến An - An Lão (núi Voi) - Vĩnh
Bảo (Đền Trạng) - Tiên Lãng (suối khoáng); các điểm vui chơi giải trí,
nghỉ dưỡng, thể thao các trọng điểm du lịch. Đặc biệt là xây dựng chọi
trâu trở thành một loại hình dịch vụ du lịch đặc sắc phục vụ du khách;
- Thi chế tác sản phẩm lưu niệm mang đặc thù bản sắc văn hoá
Hải Phòng.
c. Các tuyến, điểm du lịch:
+ Nâng cấp, phát triển các khu, điểm du lịch:
- Tại Cát Bà: Đẩy mạnh phát triển loại hình tham quan vịnh, vụng,
hệ thống hang động. Tham quan, nghiên cứu các giá trị về sinh thái,
sinh học và cảnh quan Khu dự trữ sinh quyển kết hợp với vịnh Hạ Long,
đầu tư xây dựng và khai thác các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi
giải trí, thể thao
- Tại Đồ Sơn: Đẩy mạnh phát triển loại hình du lịch sinh thái rừng -
biển, du lịch nghỉ dưỡng và tham dự các lễ hội vùng biển độc đáo như:
Lễ hội chọi trâu, lễ hội đảo Dáu. Du lịch tham quan, thể thao, văn hoá,
hội nghị - hội thảo nối tuyến Đồ Sơn - Tiên Lãng, Đồ Sơn - Cát Bà -
Bạch Long Vỹ.
- Tại Kiến Thụy, Thuỷ Nguyên và Vĩnh Bảo: Tập trung phát triển
loại hình du lịch nông thôn, du lịch điền dã và du lịch văn hoá.
- Khu vực nội thành và một số vùng lân cận: Chú trọng loại hình du
lịch tham quan các công trình văn hóa, kiến trúc cổ, đình, đền, chùa,
làng nghề và tham gia các lễ hội truyền thống

+ Các tuyến du lịch:
- Tuyến nội thành Hải Phòng: Xây dựng chi tiết đề án tour du lịch
trong ngày đi thăm các công trình văn hóa, các di tích lịch sử, cơ sở sản
xuất mây tre đan, tạc tượng, điêu khắc phục vụ đối tượng khách như:
Thuỷ thủ tàu biển, khách thương mại và khách vãng lai tại Hải Phòng.
- Tuyến du lịch phía Nam thành phố bao gồm: Nội thành, quận
Kiến An và các huyện: An Lão, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng.
Đối với tuyến du lịch này trước mắt cần phải nâng cấp tour du lịch
'Du khảo đồng quê', chú trọng chất lượng dịch vụ, điều kiện cơ sở vật
chất: Vệ sinh công cộng, bãi để xe, ki ốt bán hàng thủ công mỹ nghệ,
đặc sản nông nghiệp của địa phương; nơi ăn, nghỉ và các dịch vụ nơi du
khách dừng chân.
- Tuyến du lịch phía Đông Nam bao gồm: Khu vực nội thành,
huyện Kiến Thuỵ và thị xã Đồ Sơn.
Đây là tuyến du lịch tiềm năng, đang được khai thác một cách
hiệu quả. Trước mắt cần xây dựng và quảng bá tour du lịch đi bằng xe
đạp qua các di tích lịch sử, nơi phát tích của 1 triều đại phong kiến Việt
Nam thế kỷ thứ XV (Dương Kinh nhà Mạc) và khu du lịch Đồ Sơn.
- Tuyến Du lịch phía Đông bao gồm: Nội thành, đường xuyên đảo -
thị trấn Cát Bà - vịnh Lan Hạ - vịnh Hạ Long.
Đây là tuyến du lịch hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc
tế. Tuyến du lịch này có lợi thế về tài nguyên du lịch, đặc biệt là du lịch
sinh thái rừng, biển, đảo. Có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều loại
hình du lịch khác nhau, thu hút nhiều đối tượng du khách; khai thác ưu
thế của di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, để khai thác
hiệu quả tour du lịch này và tránh được tình trạng du lịch mùa vụ, cần
phải xây dựng thêm các loại hình du lịch mới, hấp dẫn và độc đáo dựa
trên các điều kiện tự nhiên sẵn có như: Tour du lịch đi bằng xe đạp địa
hình Hải Phòng - Cát Bà theo đường xuyên đảo, các tour du lịch có tính
mạo hiểm, khám phá nét hoang sơ của quần đảo Cát Bà (Du lịch điền

dã)
- Tuyến du lịch phía Đông Bắc bao gồm: Nội thành Hải Phòng và
huyện Thuỷ Nguyên.
Đây là tuyến du lịch tập hợp nhiều điểm tham quan liền mạch, có
giá trị văn hóa và lịch sử sâu sắc: Điểm xuất phát bắt đầu từ nội thành
Hải Phòng - cầu Bính - chùa Lâm Động - hồ sông Giá - chùa Mỹ Cụ - khu
di tích thờ Trạng nguyên Lê Ích Mộc - làng cau Cao Nhân - làng đúc Mỹ
Đồng - đình Kiến Bái - cầu Kiền - nội thành Hải Phòng.
VI. Sơ lược thống kê lượng khách đến Hải Phòng:
Trong mấy năm gần đây, Việt Nam là điểm đến an toàn cho khách du
lịch, lượng khách du lịch quốc tế ngày càng tăng cả số lượng và thành
phần, làm gia tăng số lượng khách tham quan đến các khu du lịch trong
nước trong đó có Hải Phòng. Đối với khách du lịch nội địa, do nhu cầu
hành hương, lễ hội, lưu lượng ngày nghỉ và mức sống của người dân
không ngừng tăng lên, dẫn đến số lượng khách từ các địa phương đến
các điểm du lịch Đồ Sơn, Cát Bà không ngừng tăng lên.
Cát Bà được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới và cũng là bộ
phận không tách rời của Di sản Thiên nhiên thế giới Hạ Long. Sự công
nhận đó của các tổ chức quốc tế đang mang lại nguồn khách du lịch
ngày càng tăng cho Hải Phòng và các tỉnh lân cận. Theo thống kê, lượng
khách đến Cát Bà năm 2002 là 109.000 lượt người, đến năm 2005 là
450.000 lượt người, đến năm 2008 tăng lên gần 01 triệu lượt khách.
Theo dự báo Quy hoạch Tổng thể phát triển Du lịch Hải Phòng giai đoạn
2010 - 2020, lượng khách quốc tế đến Hải Phòng vào năm 2010 là 1.400
lượt người, năm 2015 là 2.300 lượt người và đến năm 2020 là 3.400
lượt người; khách du lịch nội địa đến năm 2010 là 2.700 lượt người,
năm 2015 là 3.600 lượt người và đến 2020 là 4.700 lượt người.
Năm 2010, Hải Phòng đón 4,2 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế
chiếm 596.400 lượt. Trong 7 tháng đầu năm 2011, thành phố đón 2,516
triệu lượt khách, khách quốc tế chiếm 339,3 nghìn lượt. Tổng doanh

thu của hoạt động khách sạn, nhà hàng, dịch vụ đạt hơn 5,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 29,2% so với cùng kỳ, trong đó doanh thu lưu trú và dịch vụ
lữ hành đạt 908,4 tỷ đồng, tăng 15% và đạt 60,6% kế hoạch.

Tất cả những yếu tố trên đã và sẽ làm cho Hải Phòng trở thành một địa
danh du lịch nổi tiếng trong nước và quốc tế và Hải Phòng thực sự là
một trong những trọng điểm du lịch hấp dẫn ở vùng ven biển Bắc Bộ,
góp phần xứng đáng trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam.
VII. Thực trạng môi trường du lịch ở Hải Phòng hiện nay :
1. Thực trạng môi trường du lịch :
Lượng khách tăng dẫn đến rác thải gia tăng tỷ lệ thuận theo từng năm,
nếu chỉ sử dụng mức tính trung bình 01 khách du lịch thải ra 3,5 kg
rác/ngày thì lượng rác thải do khách thải ra vào năm 2010 là 13.000kg,
năm 2015 là 15.000kg và đến 2020 là 24.000kg. Khối lượng nước thải
cũng gia tăng tương ứng, nếu lượng nước thải được tính là 80% lượng
nước cấp thì lượng nước thải trung bình cho 01 khách du lịch là 120 lít
và nhân viên phục vụ là 60 lít, như vậy lượng nước thải phải xử lý cho
một ngày đối với khách du lịch tại Hải Phòng vào năm 2010 là 480.000
lít, năm 2015 là 700.000 lít và 2020 là 900.000 lít.
Trong khi đó, hệ thống xử lý tập trung rác thải, nước thải trên các khu,
điểm du lịch chưa được hoàn chỉnh và chưa được đầu tư. Hoạt động du
lịch không có ranh giới hành chính mà luôn có sự liên kết giữa các địa
phương, vùng du lịch, đặc biệt là các trung tâm du lịch. Với vai trò là
một cực quan trọng trong tam giác tăng trưởng du lịch của vùng du lịch
Bắc bộ với trọng tâm là Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn, với lợi thế về tiềm
năng tài nguyên du lịch biển, đảo biển…, Hải Phòng là điểm đến của
khách du lịch từ các tỉnh lân cận đặc biệt là Hà Nội, Quảng Ninh và các
tỉnh phía Bắc.

Là một tỉnh nằm ở vùng Bắc bộ nên chịu ảnh hưởng sâu sắc của thời

tiết khí hậu miền Bắc và ảnh hưởng mang tính xã hội về mùa lễ hội,
mùa du lịch của khách quốc tế và kỳ nghỉ của học sinh, sinh viên nên
mùa du lịch lượng khách du lịch gia tăng tại các điểm khu du lịch trên
địa bàn Hải Phòng; thời gian từ tháng 5 đến tháng 9, mức tăng từ 70 -
90%. Sự gia tăng đột biến trong thời gian ngắn và lực lượng lao động
phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện
dẫn đến công tác khắc phục các sự cố môi trường xảy ra không hiệu quả
dẫn đến áp lực đối với tài nguyên tự nhiên đặc biệt là hệ sinh thái rất
lớn.

Đây là một thách thức không nhỏ đối với Du lịch Hải Phòng trong công
tác bảo tồn giá trị tự nhiên và đa dạng hệ sinh học. Trong lúc đó, Du lịch
Hải Phòng chưa có điều kiện sẵn sàng ứng phó các tác động ảnh hưởng
của hoạt động du lịch trên địa bàn, các khu điểm du lịch chưa được
trang bị cơ sở vật chất để ứng phó với các nguy cơ ô nhiễm và sự cố
môi trường sẽ xảy ra.
Nói chung, ý thức giữ gìn vệ sinh chung và môi trường trên địa bàn đã
có bước tiến bộ nhất định, một số người dân đã có ý thức gìn giữ vệ
sinh môi trường và bảo vệ tài nguyên tại các điểm du lịch. Tuy nhiên, áp
lực về doanh thu và thu hồi vốn đầu tư khiến một số cơ sở kinh doanh
dịch vụ đã không tuân thủ đối với trách nhiệm của doanh nghiệp, cá
nhân trong bảo vệ môi trường chung. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ tại khu vực Đồ Sơn, Cát Bà chưa có hệ thống thu
gom, xử lý nước thải còn đổ nước thải thẩm thấu xuống đất hoặc đổ ra
biển; một số nhà hàng tại Đồ Sơn còn buôn bán các động vật quý hiếm
được bảo vệ; hiện tượng săn bắt, khai thác hệ sinh thái quý hiếm còn
xảy ra trong các khu bảo tồn. Một số dự án, các dịch vụ còn khai thác
các tài nguyên nhạy cảm dễ tổn thương. Vấn đề rác thải, chất thải rắn
và khí thải còn gia tăng tại các khu du lịch Đồ Sơn, ven biển Cát Bà trong
thời vụ và cuối vụ du lịch

Du lịch Hải Phòng mang lại nhiều nguồn thu cho ngân sách địa phương
và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Do bất cập trong công
tác tổ chức nên chưa có bộ phận, hay cán bộ chuyên trách về môi
trường du lịch trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Là địa
phương có nhiều khu, điểm du lịch, tập trung nhiều nhất tại khu du lịch
Đồ Sơn và đảo Cát Bà, nhưng tại các khu du lịch cơ quan quản lý chuyên
ngành du lịch chưa tiến hành quan trắc và đánh giá tác động du lịch đối
với môi trường từ hoạt động du lịch và những ngành khác tại các khu
vực này. Tại các khu vực nhạy cảm đối với thiên nhiên chưa có hệ thống
quan trắc môi trường hay định kỳ quan trắc để theo dõi diễn biến môi
trường và hệ sinh thái. Hệ thống thu gom, xử lý rác thải và nước thải
tập trung cho từng khu du lịch hầu như chưa có nên các cơ sơ kinh
doanh dịch vụ còn thải tự do ra môi trường gây ô nhiễm cục bộ tại một
số khu du lịch. Công tác truyên truyền nâng cao nhận thức về môi
trường chưa thường xuyên.
2. Giải pháp phát triển du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường
Một là, xây dựng năng lực quản lý nhà nước về môi trường du lịch:
Cần sớm hình thành bộ phận và nhân sự chuyên trách về quản lý môi
trường tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Phòng và cơ quan cấp
huyện với nhiệm vụ tham mưu, xem xét, thẩm định phê duyệt đánh giá
tác động môi trường của các dự án phát triển du lịch, quản lý, theo dõi,
giám sát các tổ chức kinh doanh du lịch đảm bảo không gây ô nhiễm
môi trường, đề ra các chính sách, lập kế hoạch và ban hành các văn bản
pháp quy trong bảo vệ môi trường du lịch. Tăng cường năng lực nghiên
cứu quản lý, đánh giá môi trường. Hàng năm, vào các vụ du lịch cần
phải phối hợp với bộ phận quan trắc môi trường của Sở Tài nguyên &
Môi trường để tiến hành lấy mẫu quan trắc đánh giá mức độ ô nhiễm
tại khu du lịch Đồ Sơn, Cát Bà và một số sông, cửa biển. Tăng cường
giám sát chất thải, nước thải của các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa
bàn, giải quyết dứt điểm vấn đề thải gây ô nhiễm môi trường và tiến tới

xây dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung.
Đánh giá và phân loại các tài nguyên du lịch trên địa bàn thành phố có
tính đa dạng sinh học cao như: Sinh thái biển, thảm san hô, rừng quốc
gia, khu bảo tồn tự nhiên, các di tích thiên nhiên đã được xếp hạng; khu
vực cảnh quan giầu tiềm năng du lịch, vùng, khu, điểm văn hóa lịch sử
dễ bị ảnh hưởng do phát triển du lịch và các ngành kinh tế khác như:
Phát triển cảng biển, khai thác nuôi trồng thủy sản, xây dựng. Phải bảo
tồn, phát triển các hải sản quý hiếm, riêng có của vùng biển Hải Phòng
nhằm đáp ứng, phục vụ các nhu cầu của du khách đến ăn nghỉ, tham
quan du lịch tại Hải Phòng.
Tổ chức theo dõi thường xuyên những biến động để có giải pháp kịp
thời khắc phục tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trường du
lịch; quản lý chặt chẽ những hoạt động du lịch và hoạt động kinh tế - xã
hội khác để hạn chế ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái, tài nguyên, môi
trường tự nhiên và xã hội.
Tăng cường biện pháp quản lý trong xây dựng và kinh doanh du lịch;
chú trọng xử lý nước thải và chất thải ở các điểm du lịch, khu du lịch.
Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ thân
thiện với môi trường.
Tăng cường phối hợp với các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư tham
gia công tác bảo vệ môi trường. Phấn đấu xã hội hoá việc bảo vệ tài
nguyên và môi trường du lịch, từng bước đưa nội dung này vào chương
trình giáo dục trong các trường học.
Chú trọng giữ gìn thành phố 'xanh, sạch, đẹp', đặc biệt ở nội thành và
các trọng điểm du lịch, kiên quyết xóa bỏ tình trạng chèo kéo khách,
tình trạng ăn xin
Mở rộng quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường du lịch, thông qua các
hoạt động hợp tác với các tồ chức du lịch như: WTO, PATA, ASEANTA
hoặc các tổ chức quan tâm đến bảo vệ môi trường và các nguồn tài
nguyên như: GEF, IUCN, WWF đẩy mạnh hợp tác quốc tế về nghiên

cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, nhanh chóng nâng cao chất
lượng môi trường du lịch và sản phẩm du lịch.

Hai là, xây dựng quy chế quản lý môi trường tại các khu điểm du lịch
Tổ chức triển khai tốt chỉ thị 07/ 2000/ CT-TTg ngày 30/3/2000 của Thủ
tướng Chính phủ về tăng cường giữ gìn trật tự, trị an, và vệ sinh môi
trường tại các điểm tham quan du lịch. Xây dựng các quy định, chế tài
trong bảo vệ môi trường, đặc biệt tại các khu, điểm du lịch Cát Bà, Đồ
Sơn. Tại các khu, điểm du lịch không cho phép xây dựng các cơ sở sản
xuất và chế biến có các chất thải chứa các tác nhân độc hại (kim loại
nặng, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất độc khác ). Quy hoạch phát
triển du lịch, các dự án du lịch và dự án các ngành khác, thường xuyên
giám sát các tác động của dự án đối với dự án trong quá trình triển khai
xây dựng và trong quá trình hoạt động. Đặc biệt chú trọng đến chất
lượng, nguồn thải của nước thải và các chất thải khác. Phối hợp với Sở
Tài nguyên & Môi trường để thực hiện thu phí ô nhiễm môi trường, xử
phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm bảo vệ môi trường, các cơ
sở kinh doanh du lịch.
Củng cố và tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch:
Tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch của thành phố, quan
tâm địa phương có trọng điểm du lịch (Cát Bà và Đồ Sơn). Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch
trong tình hình mới. Giao Sở Du lịch cùng Sở Nội vụ và các ban, ngành
liên quan nghiên cứu xây dựng đề án thành lập Trung tâm hướng dẫn,
giải đáp và trợ giúp du lịch (đặt chi nhánh tại Cát Bà và Đồ Sơn; là đơn vị
sự nghiệp có thu, hạch toán theo phương thức tự trang trải).
Xây dựng cơ chế khuyến khích, động viên, tuyên truyền, giáo dục nâng
cao nhận thức cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên
và xã hội; tăng cường phối hợp các ngành thường xuyên kiểm tra, giám
sát, xử lý các vi phạm, nhanh chóng đưa hoạt động du lịch vào nền nếp.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hiệp hội Du lịch Hải Phòng và các tổ
chức xã hội nhằm nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước, đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh du lịch.
Ba là, đào tạo phát triển nguồn nhân lực về nghiệp vụ môi trường
trong hoạt động du lịch
Đối với hoạt động du lịch, ngoài trình độ nghiệp vụ, trình độ kiến thức,
nhận thức tốt về bảo vệ tài nguyên, môi trường là một điều kiện cần
thiết cho du lịch phát triển bền vững, giữ gìn chất lượng môi trường.
Cần đưa các kiến thức về tài nguyên, môi trường, văn hóa, xã hội vào
các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực của Ngành (kiến
thức về các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo được, các hệ sinh
thái tự nhiên, nhân văn, các loại hình ô nhiễm và biện pháp bảo vệ ).
Trong các chương trình giảng dạy này phải đặc biệt lưu ý đến các khái

×