MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AD Tổng cầu của nền kinh tế
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khoá
CSTT Chính sách tiền tệ
DTBB Dự trữ bắt buộc
GDP Tống sản phẩm quốc dân
GNP Tổng sản phẩm quốc nội
GTCG Giấy tờ có giá
HTNH Hệ thống ngân hàng
HTXTD Hợp tác xã tín dụng
IPO Chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng
KBNN Kho bạc nhà nước
M1, M2, M3 Lượng tiền cung ứng M1, M2, M3
NHHTX Ngân hàng hợp tác xã
NHLD Ngân hàng liên doanh
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
NHTW Ngân hàng trung ương
OMO Nghiệp vụ thị trường mở
QTDND Quỹ tín dụng nhân dân
SWAP Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ
TCTD Tổ chức tín dụng
TPCP Trái phiếu Chính phủ
TTTT Thị trường tiền tệ
USD Đồng đô la Mỹ
VND Đồng Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1. Thành viên tham gia OMO Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Khối lượng giao dịch OMO Error: Reference source not found
Bảng 2.3. Doanh số trúng thầu mỗi phiên giao dịch OMO Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.1. Tổng doanh số trúng thầu các năm 63
Biểu đồ 2.2. Doanh số trúng thầu/phiên giao dịch 67
Biểu đồ 2.3. Lãi suất trúng thầu OMO 68
Biểu đồ 2.4. Lãi suất tín phiếu NHNN và lãi suất huy động tiết kiệm NHTM
năm 2007
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế - xã hội, một chính sách
không thể thiếu được trong bất kỳ nền kinh tế nào đó là Chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ sử dụng một tập hợp các công cụ. Trong các công cụ đó, ở
các nước có nền kinh tế thị trường, nghiệp vụ thị trường mở được coi là quan
trọng nhất.
Với mục tiêu theo đuổi mức tăng trưởng trên 8%/năm, đồng thời phải
bảo đảm được giá trị đồng nội tệ, nền kinh tế Viêt Nam luôn luôn chịu sức ép
của lạm phát. Trong thời gian qua, nhằm bảo đảm giá trị đồng nội tệ, Ngân
hàng Nhà nước đã mua vào một số lượng lớn ngoại tệ, bên cạnh việc duy trì
một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cho sự phát triển kinh tế, giá nguyên liệu đầu
vào, giá nhiên liệu liên tục tăng cao đã làm cho mức giá cả ngày càng tăng
lên, có nguy cơ gây ra lạm phát cho nền kinh tế. Xuất phát từ nhận định của
các nhà kinh tế nói chung và Milton Fridman nói riêng: " Lạm phát bao giờ
và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ", Ngân hàng Nhà nước, tổ chức điều
hành Chính sách tiền tệ đã sử dụng tổng hợp các công cụ, các biện pháp nhằm
điều tiết, kiểm soát lượng tiền cung ứng. Một trong những công cụ quan trọng
nhất được sử dụng là nghiệp vụ thị trường mở, nhưng thực tế đã không như
mong đợi của Ngân hàng Nhà nước, giá cả vẫn tiếp tục tăng lên, lượng tiền
cung ứng giảm bớt không đáng kể. Điều này cho thấy, nghiệp vụ thị trường
mở tại Việt Nam còn có nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng chưa cao. Từ thực
tiễn đó, tôi đã chọn đề tài: "Nâng cao hiệu quả sử dụng thị trường mở trong
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam".
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng nghiệp vụ thị
trường mở.
1
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng nghiệp vụ thị trường
mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nghiệp vụ thị
trường mở tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng của nghiệp vụ thị trường
mở.
- Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng của nghiệp vụ thị trường mở
tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn sử dụng các phương
pháp:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở;
- Phân tích đánh giá làm rõ những hạn chế trong hoạt động của nghiệp
vụ thị trường mở và hiệu quả sử dụng nó ở Việt Nam trong thời gian qua;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nghiệp vụ thị
trường mở tại Việt Nam.
6. Tên và kết cấu của luận văn
Tên luận văn: "Nâng cao hiệu quả sử dụng thị trường mở trong điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam"
2
Kết cấu của luận văn:
- Phần mở đầu
- Chương I: Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng thị trường mở trong
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
- Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng thị trường mở trong điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thị trường mở
trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỊ TRƯỜNG MỞ
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG
TRUNG ƯƠNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Các quốc gia khác nhau tồn tại, phát triển và theo đuổi những mục đích
khác nhau. Mỗi mục đích theo đuổi, đi cùng nó là hàng loạt các chính sách
nhằm hướng tới. Thông qua việc điều hành các chính sách này để tác động
đến các mục tiêu kinh tế, xã hội. Với mục tiêu kinh tế xác định, chính sách
tiền tệ là một trong những chính sách đó.
1.1.1. Khái quát về chính sách tiền tệ quốc gia
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể chính sách
kinh tế - xã hội, một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ, do Ngân
hàng Trung ương (NHTW) khởi thảo và thực thi, nhằm tới các mục tiêu ổn
định giá trị đồng tiền, ổn định thị trường tài chính, ổn định và tăng trưởng
kinh tế. CSTT thực hiện quá trình kiểm soát tiền tệ, điều chỉnh khối lượng
tiền cung ứng thêm cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và điều
chỉnh cả khối lượng tiền có sẵn trong lưu thông. Chính sách tiền tệ mở rộng
sẽ tăng cung ứng tiền trên thị trường tiền tệ, khuyến khích đầu tư, mở rộng
sản xuất, tạo công ăn việc làm, chống suy thoái kinh tế. Ngược lại, chính sách
tiền tệ thắt chặt sẽ giảm cung ứng tiền trên thị trường tiền tệ, hạn chế đầu tư,
hạn chế sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW sử dụng các
công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh
tế nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
4
CSTT theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền
cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và
chỉ số lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực
hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo nghĩa rộng, CSTT là chính sách điều
hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu
quả nhất các nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh
tế trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Dù quan niệm CSTT theo
nghĩa nào, CSTT đều nhằm mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần thực
hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế.
1.1.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
trung ương
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện
thực tiễn của nền kinh tế, NHTW sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
để điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu xác định. Việc
sử dụng công cụ nào của CSTT hoàn toàn phụ thuộc vào những mục tiêu khác
nhau.
1.1.2.1. Các mục tiêu
Có nhiều mục tiêu đề ra khi thực hiện chính sách tiền tệ. Các mục tiêu
đó về cơ bản bao gồm mục tiêu cuối cùng và mục tiêu điều hành.
a. Mục tiêu tổng quát (mục tiêu cuối cùng)
Quốc gia nào cũng có chính sách tiền tệ riêng, phù hợp với nền kinh tế
đặc thù của mình nhưng các chính sách tiền tệ đó đều hướng vào những mục
tiêu chủ yếu là giống nhau. Tuỳ từng giai đoạn và điều kiện của nền kinh tế để
lựa chọn mục tiêu trọng tâm. Các mục tiêu cuối cùng của CSTT bao gồm:
- Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế cao và bền là mục tiêu vĩ mô của bất cứ quốc gia
nào. Tuy nhiên thực hiện mục tiêu này không có nghĩa là chỉ khuyến khích
tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của
5
nền kinh tế nếu nền kinh tế phát triển quá nóng (tốc độ tăng trưởng kinh tế
quá cao). Điều này có nghĩa là, mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế dự kiến phù hợp với điều kiện nội tại của nền kinh tế nước đó.
Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện tại là thấp
hay cao để sự điều tiết của CSTT sẽ hướng vào khuyến khích hay kìm hãm
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trường hợp cần khuyến khích tăng trưởng kinh tế,
NHTW sẽ thực hiện CSTT mở rộng tức là tăng khối lượng tiền tệ nhằm làm
cho lãi suất giảm xuống, do vậy sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng
GDP. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu (AD), sức mua
hàng hoá trên thị trường tăng lên, hàng hoá tồn đọng của các doanh nghiệp
tiêu thụ được là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP
tăng. Nếu mức gia tăng của GDP cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì nền kinh
tế sẽ thực sự có tăng trưởng. Trường hợp cần kìm hãm tốc độ tăng trưởng
kinh tế, NHTW sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Khi đó, khối lượng
tiền tệ trong lưu thông giảm xuống dẫn đến lãi xuất có xu hướng tăng lên,
đồng vốn đầu tư đắt lên. Khi đó đầu tư giảm, dẫn đến GDP giảm xuống. Mặt
khác khi giảm khối lượng tiền tệ, sẽ làm giảm AD, sức mua sẽ giảm, làm tăng
hàng hoá tồn đọng của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có
cơ sở để mở rộng sản xuất, vì vậy GDP giảm.
- Tạo việc làm, giảm thất nghiệp
Việc làm cho người lao động cũng là một trong các mục tiêu của
CSTT. Chúng ta cũng đã biết rằng nơi nào sức lao động là hàng hoá thì thất
nghiệp là một căn bệnh kinh niên. Để đạt được mục tiêu này, CSTT hướng
vào việc khuyến khích đầu tư, làm gia tăng sản xuất và việc làm sẽ tăng lên;
mặt khác, khi các hoạt động kinh tế được mở rộng, sẽ có tác dụng chống suy
thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được mức tăng trưởng ổn định, góp
phần ổn định cuộc sống của người dân và tạo thêm nhiều việc làm mới. Sự
điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền
tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm.
6
- Ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm phát
Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền
sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nền sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao
(nền kinh tế thị trường).
Lạm phát tác động tới nền kinh tế - xã hội theo cả hai hướng: tiêu cực
và tích cực. Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế-
xã hội, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế; làm phân phối lại thu nhập; kích thích
tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc, gây tình trạng khan
hiếm giả tạo; giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do
đó, đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt
động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn
tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình. Bên cạnh những tác hại mà lạm phát
gây ra cho nền kinh tế, trong chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa
phải, lạm phát lại là yếu tố kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó, lạm phát trở
thành công cụ điều tiết.
Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có
những quyết sách kiềm chế chứ không phải là triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng
là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người lao động,
- Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái
Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hoá nền kinh tế diễn ra rất
nhanh. Tác động của hệ thống tài chính vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để tác
động đến hoạt động của các nền kinh tế khác. Sự tác động này lớn hay nhỏ
phụ thuộc vào mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó.
Một sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến hoạt động kinh tế
trong nước, đặc biệt là hoạt động xuất - nhập khẩu. Một tỷ giá hối đoái quá
thấp (đồng bản tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích
7
nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì lúc này hàng xuất khẩu đắt lên, khó
bán cho nước ngoài. Do đó sẽ gây bất lợi cho những cuộc dịch chuyển ngoại
tệ từ nước ngoài vào trong nước. Khi đó khối lượng dự trữ ngoại hối dễ bị xói
mòn. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao (đồng bản tệ giảm giá so với ngoại
tệ) có tác dụng bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho
hàng nhập khẩu đắt lên, hàng xuất khẩu rẻ đi, sẽ làm tăng khả năng cạnh
tranh, dễ tìm được thị trường hơn. Lưu lượng ngoại tệ có khuynh hướng
chuyển vào trong nước khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng.
Tuy nhiên lại gây khó khăn cho nhập khẩu, làm ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp mà sự sản xuất phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập ngoại và các
doanh nghiệp có ý định nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, Như vậy,
một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều xuất hiện những tác động kép: tích cực
và tiêu cực. Chính vì vậy, nhiệm vụ của NHTW là sử dụng những công cụ,
chính sách của mình để can thiệp giữ cho tỷ giá hối đoái không biến động lớn,
tránh gây sự bất ổn định trong nền kinh tế vừa nhằm khuyến khích xuất khẩu
vừa kiểm soát nhập khẩu.
Ngoài những mục tiêu vĩ mô trên, một số nước còn tập trung vào các
mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên do tính chất mâu thuẫn giữa các mục tiêu nên NHTW không thể theo
đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng thời gian nhất định. Điều
này buộc NHTW phải có sự lựa chọn trong từng thời kỳ. Đó chính là mục
tiêu điều hành.
b. Mục tiêu điều hành
Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một
chiều nhất định đến mục tiêu cuối cùng của CSTT (ổn định giá trị đồng tiền,
tăng trưởng kinh tế, việc làm cho người lao động và tỷ lệ lạm phát). Để tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều phải xây
dựng hệ thống mục tiêu điều hành mang tính định lượng cụ thể hơn nhằm
8
thực hiện mục tiêu cuối cùng của CSTT. Căn cứ vào sự phát triển và diễn biến
của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều lựa chọn các mục tiêu điều hành
của CSTT. Trong mục tiêu điều hành của CSTT, hầu hết các NHTW lại chia
mục tiêu điều hành thành mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
- Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian là biến số tiền tệ có tác động trực tiếp đến mục tiêu
cuối cùng của CSTT và chịu tác động gián tiếp bởi sự can thiệp tiền tệ của
NHTW, mạnh nhất là khi NHTW thay đổi mục tiêu hoạt động.
Các biến số tiền tệ thường được lựa chọn để làm mục tiêu trung gian là
các khối tiền: M1, M2, M3 hoặc lãi suất (ngắn hạn và dài hạn). Mục tiêu
trung gian hình thành là do NHTW không thể sử dụng các công cụ CSTT tác
động trực tiếp và ngay lập tức đến mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh
hưởng của CSTT chỉ xuất hiện sau một thời gian nhất định, vì vậy thay vì
nhằm thẳng tới mục tiêu cuối cùng trong một thời gian dài, NHTW của tất cả
các nước thường đưa ra các mục tiêu trung gian cần đạt được ngay trong thời
gian trước mắt, trước khi tiến đến mục tiêu cuối cùng.
Tiêu chuẩn của mục tiêu trung gian:
+ Có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng
Việc đo nhanh và đúng một biến số của chỉ tiêu trung gian là cần thiết,
bởi vì chỉ tiêu trung gian chỉ có ích nếu nó báo hiệu nhanh hơn là mục tiêu khi
chính sách đi "chệch hướng".
Ở các nước công nghiệp phát triển, số liệu về tổng lượng tiền tệ phải
sau hai tuần mới có được, còn số liệu lãi suất thì hầu như có ngay lập tức. Mặt
khác, số liệu về một biến số mục tiêu như GNP được thu thập hàng quý và
phải một tháng sau mới có thể sử dụng được. Hơn nữa số liệu GNP ít chính
xác hơn số liệu về tổng lượng tiền tệ hoặc lãi suất.
Chỉ trên cơ sở đó thôi, việc nhằm vào lãi suất và tổng lượng tiền tệ làm
chỉ tiêu trung gian hơn là nhằm vào một mục tiêu như là GNP có thể cung cấp
9
được những tín hiệu rõ hơn về tình hình của CSTT. Dường như có vẻ, lãi suất dễ
đo lường hơn là tổng lượng tiền tệ và do đó có ích hơn với tư cách là chỉ tiêu
trung gian. Các số liệu về lãi suất không những có thể sử dụng được nhanh hơn
số liệu về tổng lượng tiền tệ mà còn dễ đo lường chính xác hơn và rất ít khi bị
điều chỉnh. Ngược lại, với tổng lượng tiền tệ thì lại bị điều chỉnh nhiều lần. Tuy
nhiên lãi suất doanh nghiệp được đo lường nhanh chóng và chính xác, nhưng đó
là một thước đo không tốt để đo lường chi phí vay thực tế, chi phí này được đo
lường một cách chính xác hơn bằng lãi suất thực tế - lãi suất được điều chỉnh
theo tỷ lệ lạm phát dự tính. Tiếc rằng lãi suất thực rất khó lường, bởi vì không có
phương pháp trực tiếp để đo lường lạm phát dự tính.
Do cả lãi suất cũng như tổng lượng tiền tệ đều không đáp ứng tính đo
lường được, vì thế cho nên rất khó lựa chọn và xác định lãi suất hay tổng
lượng tiền tệ làm chỉ tiêu trung gian tốt hơn.
+ Có thể kiểm soát được
NHTW phải có khả năng kiểm soát thực sự một biến số, nếu biến số đó
hoạt động như một chỉ tiêu hữu ích. NHTW có rất ít khả năng kiểm soát trực
tiếp GNP danh nghĩa cho nên GNP danh nghĩa không thể giúp nhiều cho
NHTW có hướng đi để ấn định các công cụ CSTT của mình phải như thế nào.
Trên thực tế, NHTW kiểm soát tổng lượng tiền tệ và lãi suất được
nhiều hơn. Nghiệp vụ thị trường tự do (mở) có thể được sử dụng để ấn định
lãi suất bằng cách trực tiếp tác động đến giá cả giấy tờ có giá. Tuy vậy, nếu
NHTW có thể ấn định trực tiếp lãi suất thì nó lại không thể kiểm soát được
hoàn toàn cung ứng tiền tệ. Vì vậy thoạt nhìn qua thì hình như lãi suất đứng
trên các tổng lượng tiền tệ về tiêu chuẩn tính có thể kiểm soát được, nhưng
thực ra NHTW không thể ấn định được lãi suất thực tế, bởi vì nó không thể
kiểm soát diễn biến dự tính của lạm phát. Do đó lại một lần nữa không thể dứt
khoát được rằng lãi suất lại ưa chuộng hơn tổng lượng tiền tệ hay ngược lại
trong việc lựa chọn làm một chỉ tiêu trung gian.
10
+ Khả năng tác động tính trước được đối với mục tiêu
Một đặc tính mà một biến số cần phải có để làm một chỉ tiêu trung gian
hữu ích là nó phải có một ảnh hưởng đoán trước được đối với mục tiêu. Nhiều
chứng cứ hình như thiên về mối quan hệ chặt chẽ (có thể dự đoán rõ hơn)
giữa những mục tiêu đó với cung ứng tiền tệ hơn là với lãi suất, do đó đưa
đến một vài sự ủng hộ nào đó đối với việc dùng các tổng lượng tiền tệ làm chỉ
tiêu trung gian.
- Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động được hiểu là các biến số tiền tệ mà NHTW có thể
tác động trực tiếp làm thay đổi mục tiêu trung gian và qua thay đổi biến số
này, NHTW điều chỉnh được xu hướng diễn biến của thị trường tiền tệ.
Hệ thống chỉ tiêu này vừa đóng vai trò phản ánh tình trạnh CSTT đồng
thời phản ánh dấu hiệu về định hướng CSTT của NHTW. Việc lựa chọn một
mục tiêu hoạt động được dựa trên cùng một tiêu chuẩn như đã dùng để đánh
giá mục tiêu trung gian. Để thực hiện được CSTT, NHTW phải sử dụng một
bộ các công cụ nhằm tác động vào nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển tới
những mục tiêu xác định.
1.1.2.2. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Hệ thống các công cụ CSTT được chia thành các công cụ trực tiếp và
các công cụ gián tiếp. Các công cụ trực tiếp được sử dụng thông qua việc
NHTW ấn định một mức lãi suất tiền gửi và cho vay đối với Ngân hàng
thương mại (NHTM); ấn định một hạn mức tín dụng đối với NHTM khi cho
vay nền kinh tế; công cụ quản lý ngoại hối (gồm dự trữ ngoại hối, tác động
vào thị trường hối đoái, điều hành tỷ giá). Ngoài ra, NHTW còn sủ dụng một
số biện pháp khác như việc phát hành tiền trực tiếp cho Ngân sách nhà nước
(NSNN) để đầu tư, kiểm soát tín dụng tiêu dùng, để vận hành CSTT. Các
công cụ gián tiếp: NHTW quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc; điều hành CSTT
thông qua thị trường mở, đưa ra chính sách tái cấp vốn, Các công cụ đó là:
11
a. Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM.
Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt, NHTW đã tăng lượng tiền
cung ứng, mặt khác, tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông
được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức
khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn
được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này,
công cụ này được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác, hoạt động tái
cấp vốn của NHTW đối với các NHTM được thực hiện không chỉ dưới hình
thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác: chiết khấu, tái chiết
khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay dưới hình
thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn; cho vay trong thanh toán
bù trừ; cho vay theo hình thức chỉ định; cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Với
công cụ này NHTW sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái
chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở
rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông. Khi NHTW
thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn
xuống. Điều này sẽ khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả tín
dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi
NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp
vốn lên. Lúc này, một mặt làm tăng chi phí tín dụng nhằm hạn chế các NHTM
có ý định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu
NHTM vẫn quyết định vay. Bên cạnh tác động thông qua lãi suất tái cấp vốn,
NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng
đối với dự trữ của hệ thống NHTM, cụ thể: khi NHTW tăng tổng hạn mức tái
cấp vốn, điều đó có nghĩa là các NHTM có thể được vay ở NHTW nhiều hơn,
từ đó tăng khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền
12
của hệ thống ngân hàng và điều này trực tiếp làm tăng lượng tiền cung ứng
trong nền kinh tế. Những tác động trên sẽ hoàn toàn ngược lại nếu NHTW
giảm hạn mức tái cấp vốn xuống.
Công cụ này thường được ưu tiên sử dụng khi NHTW đang theo đuổi
một CSTT mở rộng nhằm bổ sung thêm tiền cho phát triển kinh tế một cách
nhanh chóng, và đây cũng chính là ưu điểm của công cụ này. Tuy nhiên, công
cụ này cũng có những nhược điểm của nó, đó chính là việc cấp vốn một cách
thiếu công bằng hay thậm chí một cách quá dễ dãi trong khi theo đuổi mục
tiêu CSTT mở rộng. Đương nhiên, các Ngân hàng thương mại Nhà nước
(NHTMNN) và các NHTM, tổ chức tín dụng (TCTD) có quan hệ thân thiết
nhất sẽ là những đối tượng được ưu tiên đầu tiên, điều này tạo ra sự lệch lạc
về lãi suất, và gây nhiều hiệu ứng bất cập khác.
b. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động NHTW mua, bán giấy
tờ có giá (GTCG) chủ yếu là ngắn hạn (như Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu
kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ,
điều hoà cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các
NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn
đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể: bằng cách bán các loại
giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng
tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. Ngược lại, khi NHTW mua các
loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc
đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các ngân
hàng thương mại.
OMO là một trong những kênh vô cùng quan trọng để NHTW đưa tiền
vào lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về qua nghiệp vụ mua hay bán
các GTCG. Qua nghiệp vụ này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các
NHTM, tác động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm
13
tăng hay giảm lượng tiền cung ứng. Bên cạnh đó, OMO còn có tác động qua
lãi suất, đó là ảnh hưởng gián tiếp. Một mặt, OMO tác động trực tiếp tới giá
của GTCG giao dich, điều này làm thay đổi lợi tức của chúng; mặt khác,
OMO làm thay đổi cung cầu vốn của NHTW, và điều này cũng làm lãi suất
thay đổi.
Ưu điểm của OMO là sự linh hoạt và rất tiện lợi, nó có thể điều tiết một
lượng tiền lớn hay nhỏ tuỳ ý, hoàn toàn tôn trọng các quy luật giá cả. Bên
cạnh đó, OMO rất dễ đảo lộn, một quyết định không hợp lý có thể được sửa
sai tức thì thông qua việc mua, bán GTCG có thể ngay trong ngày. Tuy nhiên,
nó cũng có những nhược điểm của nó, đó là do OMO hoạt động theo quy luật
thị trường cho nên không thể áp đặt các quy định hành chính trong việc mua
bán GTCG vì mục tiêu của CSTT. Không mang tính ép buộc cho nên OMO
chỉ tồn tại, phát triển khi các đối tác tìm thấy được lợi ích từ việc tham gia
OMO, Điều kiện áp dụng OMO là rất khác nhau giữa các nước, mỗi nước
có những điều kiện riêng nhưng về cơ bản OMO hoạt động tốt tại các nước có
nền kinh tế phát triển, tức có thị trường tài chính phát triển.
c. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần
vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh
toán và cho vay của các NHTM.
Nếu khả năng thanh toán quá lớn (NHTM đang dư thừa tiền) thì việc
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng
tiền tệ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM (bành trướng khối tiền tệ).
Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến khối lượng và
giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại từ đó tác động đến khả năng
cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. Về số lượng:
tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong toả,
14
cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM. Về chi
phí: giảm hay tăng dự trữ bắt buộc (dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi,
nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các
NHTM. Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng, giảm chi phí; tăng
giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) do NHTW quyết định tuỳ
thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. Đây cũng là nhược điểm của công
cụ này. Vì mang tính hành chính bắt buộc, nên DTBB thường mang lại những
phản ứng phụ cho nền kinh tế, đó là các phản ứng tức thời của hệ thống ngân
hàng (HTNH) trong việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, Nhưng trong
những điều kiện nhất định, việc áp dụng công cụ này lại mang lại cho NHTW
một kêt quả tốt trong điều hành CSTT. Do đó, công cụ này là một trong
những công cụ quan trọng và thường xuyên được sử dụng nhất trong điều
hành CSTT.
d. Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong việc
điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không làm tăng
hoặc giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có
thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất.
Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương,
chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất
trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Cơ chế này được
thực hiện theo nguyên tắc: trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ
công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc
cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các
mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa
trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều
15
chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp
với mục tiêu của CSTT từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc
điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó
tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác
động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong
nền kinh tế. Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các
nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt
hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị
trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn.
Cơ chế điều hành trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể
về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch
lãi suất bình quân, Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa
hoặc lãi suất tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế.
Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định
lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có
thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong
các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở các nước
có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính chất quản lý
trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm
dần sự quản lý trực tiếp này.
e. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của
NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín
dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo tính tăng trưởng của tổng phương
tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra.
Hạn mức tín dụng là hạn mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các ngân
hàng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ cho từng
16
ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, trong định hướng
cơ cấu kinh tế và trong giới hạn tổng hợp dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ
nền kinh tế trong một thời gian xác định. Hạn mức tín dụng được sử dụng để
khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó hạn mức tín dụng được sử dụng để
khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế lượng tiền cung ứng cho
nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt của NHTW đối
với hệ thống ngân hàng. Qua sử dụng hạn mức tín dụng, NHTW nhằm điều
chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của
nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu
thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng ngân hàng thương
mại. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn
cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ
thống ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng
hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động
cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy
định sẽ bị xử phạt.
Ưu điểm của công cụ này là có thể khống chế và lượng hoá mức tín
dụng trong nền kinh tế một cách khá chính xác, từ đó có thể tính toán và đưa
ra quyết định chuẩn xác trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng và tạo điều
kiện tốt cho việc thực hiện CSTT. Tuy nhiên, đây là một công cụ mang tính
áp đặt cho nên nó có nhiều bất cập, nhiều khi gây thất vọng cho giới ngân
hàng và tác động, can thiệp chủ quan lên hệ thống tài chính tiền tệ, làm phản
ánh sai thực trạng của nền kinh tế.
f. Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ
cung - cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy
điều tiết cung - cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước.
17
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức mạnh mẽ đến
sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh
toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất, tỷ giá
không phải là công cụ của CSTT bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng
tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có
nền kinh tế đang phát triển hay đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ
trợ quan trọng cho điều hành CSTT. Công cụ tỷ giá hối đoái sử dụng một loạt
các phương pháp điều hành tỷ giá: chính sách hối đoái; quỹ dự trữ bình quân
hối đoái; phá giá tiền tệ; nâng giá tiền tệ; chính sách lãi suất chiết khấu. Do có
nhiều nhược điểm cho nên các nước phát triển ngày nay thường theo đuổi một
chính sách tỷ giá thả nổi. Đó là việc tỷ giá được phản ảnh theo biến động của
thị trường và hoàn toàn khách quan. Tuy nhiên, việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá
nhiều khi gây khó khăn trong việc điều hành CSTT. Vì vậy, theo đuổi chế độ
tỷ giá nào là dựa trên thực trạng kinh tế mỗi nước và hoàn cảnh quốc tế trong
từng giai đoạn.
Như ta đã thấy, có rất nhiều công cụ để điều hành CSTT của mỗi quốc
gia, tuy nhiên, việc sử dụng công cụ nào còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế,
tài chính, phụ thuộc vào năng lực điều hành CSTT của mỗi NHTW khác
nhau. Trong giai đoạn ngày nay, hầu hết các quốc gia đều có xu hướng loại bỏ
dần công cụ trực tiếp, chỉ sử dụng chúng trong trường hợp đặc biệt và ưu tiên
sử dụng công cụ gián tiếp. Chính vì vậy, có thể thấy rõ ràng rằng, công cụ thị
trường mở là một trong những công cụ quan trọng nhất - một công cụ mà hầu
hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều sử dụng.
1.2. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế phát triển tiên
tiến áp dụng từ những năm đầu của thế kỷ 20. Với những ưu điểm vượt trội,
cho đến nay, nó đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu
thông tiền tệ tại nhiều quốc gia.
18
1.2.1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của
NHTW với các đối tác trên thị trường mở nhằm thực hiện CSTT quốc gia.
Các đối tác giao dịch mua bán với NHTW có thể là các tổ chức tín dụng, các
doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác. Thông qua hoạt động mua,
bán giấy tờ có giá, NHTW tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống ngân
hàng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó ảnh hưởng đến lượng
tiền cung ứng thông qua tác động cả về lượng và giá.
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation - OMO) là nghiệp
vụ NHTW thực hiện việc mua vào hoặc bán ra các giấy tờ có giá (chủ yếu là
ngắn hạn) nhằm thay đổi cơ số tiền tệ, trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền
cung ứng và lãi suất ngắn hạn.
Theo cách hiểu chung nhất, khái niệm “ Nghiệp vụ thị trường mở” là
hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa chọn để
qua đó tác động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác đó.
Thuật ngữ “thị trường mở ” ở đây được hiểu là một thị trường có tính
chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác tham gia thị trường và đa dạng về các
loại giao dịch trên thị trường. Trong OMO phải có sự tham gia của NHTW
bởi vì nếu không có NHTW tham gia thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ
không thay đổi. Một NHTM này bán chứng khoán cho một NHTM khác, xét
trong toàn cục, chỉ là sự chuyển dịch chứng khoán và di chuyển ngược lại của
một phần dự trữ đang dư thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu
vốn mà thôi.
OMO được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1914, được coi là một trong
các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiện đang được các nước trên thế giới
sử dụng. Các GTCG được sử dụng trên thị trường là các GTCG ngắn hạn và
dài hạn như tín phiếu, trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHTW, trái phiếu doanh
nghiệp, trái phiếu ngân hàng v.v Chủ thể của thị trường mở là NHTW và các
19
đối tác, chủ yếu là các ngân hàng, và có thể là các tổ chức tài chính, tín dụng
phi ngân hàng.
Về mặt hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên thị trường mở ở các nước khác
nhau lại khác nhau về phạm vi, loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ
giao dịch trên thị trường.
1.2.2. Sử dụng thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ
Để có cái nhìn toàn cảnh về việc sử dụng OMO trong điều hành CSTT,
phải thấy được hàng hoá của OMO, các chủ thể tham gia OMO, cơ chế tác
động của OMO và phương thức thực hiện nó.
1.2.2.1. Hàng hoá của thị trường mở
Chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong OMO không giống
nhau ở mỗi nước. Với Anh và Hoa Kỳ, OMO là hành vi giao dịch các chứng
khoán Chính phủ của NHTW. Nhưng chủng loại các chứng khoán được giao
dịch trong OMO lại phong phú hơn ở các nước như Nhật Bản, Pháp, Úc. Mặt
khác, có nước lại chỉ cho phép các chứng khoán ngắn hạn được giao dịch
trong nghiệp vụ thị trường mở, trong khi các chứng khoán dài hạn lại được
chấp nhận ở nước khác.
Thực tế cho thấy, nguyên tắc lựa chọn căn bản nhất về một hàng hoá
cho thị trường mở, đó là việc hàng hóa đó phải có tính thanh khoản cao, có
quy mô đủ lớn và rủi ro phải thấp. Về mặt lý thuyết, OMO không giới hạn cụ
thể chủng loại cũng như thời hạn các chứng khoán giao dịch, tuy nhiên những
loại chứng khoán nợ chủ yếu là:
- Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do Chính phủ phát hành để bù đắp
thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là
dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của OMO tại hầu hết các NHTW các
nước. Sở dĩ như vậy vì tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao, được phát
20
hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can thiệp
của NHTW với các mức độ khác nhau.
Bộ Tài chính có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát
hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành
hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của Chính phủ. Vì vậy, khối
lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của Chính phủ trong
những thời điểm nhất định.
- Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các định chế tài
chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân
hàng trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước.
Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường
hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự
thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: chuyển từ quản lý tài sản nợ
sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động
cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của
chứng chỉ tiền gửi chính là đảm bảo cho sức sống của nó, và do đó nó được sử
dụng như là hàng hoá phổ biến cho nghiệp vụ thị trường mở.
- Thương phiếu
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán
hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời
gian nhất định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp
nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn hạn.
Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn
cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương
phiếu. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu; có thể là ngân hàng
(thông qua các hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương
phiếu) hoặc các tổ chức phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp (cơ
21
chế bảo lãnh của ngân hàng là cho thương phiếu tính chuyển nhượng cao và
vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán của các tổ chức này). Vì vậy,
việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của
các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.
- Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được nhà nước phát
hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến
trong nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn
định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả tín phiếu kho
bạc trên thị trường tài chính.
- Trái phiếu chính quyền địa phương
Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa
phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu.
Thông thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương
được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW
qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ.
Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu để tài trợ cho chi tiêu của họ và
thường chỉ có chính quyền địa phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này
được các nhà đầu tư ưa chuộng và các NHTM thường dùng loại chứng khoán
này tái chiết khấu tại NHTW. Tại các nước phát triển loại trái phiếu này được
sử dụng nhiều hơn.
- Các hợp đồng mua lại
Đây là những món vay ngắn hạn trong đó tín phiếu kho bạc được dùng
làm vật bảo đảm cho tài sản Có mà người cho vay nhận được nếu người đi
vay không thanh toán nợ.
Phần lớn các hợp đồng mua lại là do người kinh doanh thực hiện qua
đêm, người kinh doanh ngân hàng và phi ngân hàng thường vay để tài trợ cho
22