Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

day chinh ta cho hoc sinh lop 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.33 KB, 6 trang )

Dạy chính tả cho học sinh lớp 1 thay sách

A. Đặt vấn đề:
Dạy Tiếng việt cho học sinh lớp 1 là dạy cho các em nắm chắc đợc bản chất
ngữ âm của tiếng. Từ đó các em biết ghi âm bằng ký hiệu. Tức là các em biết viết,
biết kí mã và ngợc lại các em biết giải mã. Dạy Tiếng việt 1 là dạy cho các em biết
đọc, biết viết Tiếng việt một cách chắc chắn có ý thức, không cầu may. Trớc hết các
em phải nắm chắc chính tả. Ngay từ lớp một các em đã đợc học cách làm việc khoa
học cần cho con ngời hiện đại. Nh chúng ta đã biết viết đúng Chính tả là một vấn đề
có tầm quan trọng trong vấn đề ngôn ngữ dân tộc. Trong một dân tộc đòi hỏi ngôn
ngữ văn hoá phải có sự thống nhất về chính tả Chính tả thống nhất thì việc giao
tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị trở ngại giữa các địa phơng trong cả nớc,
cũng nh giữa các thời đại, đời trớc về đời sau. Hiện nay mặc dù đã xuất bản cuốn
Từ điển Chính tả của giáo s Hoàng Phê, nhng không vì vậy mà coi nhẹ việc dạy
Chính tả cho học sinh lớp 1 thay sách. Học sinh có làm việc mới tự mình khắc sâu
hơn về tri thức. Mặt khác nó còn ngấm dần và phát huy tác dụng về sau. Muốn thực
hiện đợc trọng trách đó nhà trờng là nơi thực hiện và rèn học sinh mộc cách có hiệu
quả và thiết thực nhất. Chính tả muốn đợc thống nhất thì đòi hỏi phải biết chỉnh tả
nghiêm ngặt đợc quy định rõ về mọi ngời tuân theo. Viết Chính tả đợc hình thành
dần dần trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ viết, đợc phản ánh trên vở ghi của học
sinh.
B. Giải quyết vấn đề:
I. Nội dung ch ơng trình của Chính tả lớp 1:
- Dạy Chính tả ghi âm 1 tiếng.
- Cách viết e, ê, i, c, k, g.
- Cách ghi nguyên âm đôi iê, uô, ơ.
Ngoài ra dạy Chính tả lớp 1 còn đề cập đến cách ghi dấu thanh, dấu hỏi, dấu
ngã, cách viết d, gi, i, y, cách viết hoa đầu câu, cách viết hoa tên riêng, viết tiếng n-
ớc ngoài.
Nội dung đề tài:
1. Cách dạy Chính tả ghi âm 1 tiếng:


Quan trọng nhất là học sinh biết dùng ký hiệu để ghi đợc các âm vị. Bởi Tiếng
Việt là tiếng ghi âm, nghĩa là nghe nh thế nào thì ghi lại nh thế ấy, nghe đúng thì
ghi lại đúng. Do đó chữ viết xuất hiện một cách tự nhiên trong quá trình học của trẻ.
Nh Hồ Ngọc Đại nói Trẻ em đợc học từ âm đến chữ và khi viết chữ thì nhu cầu
viết đúng Chính tả xuất hiện. Muốn viết đúng Chính tả, bắt buộc phải biết cách
viết Chỉnh tả. Do đó các quy tắc Chính tả xuất hiện. Chơng trình thay sách giáo
dục đa dạy Chính tả vào lúc cần thiết, mà đã đa là đa Nghiêm chỉnh, Chính
cống, Dùng cả đời. Muốn cho học sinh viết đúng thầy cần đọc đúng, đọc to, rõ
ràng. Học sinh nhận nhiệm vụ chính xác, cụ thể và ghi đúng. ở đây cách ghi dấu
thanh xuất hiện. Thầy dạy cho học sinh cách đánh dấu thanh vào vị trí ghi âm chính
của vần. Dấu thanh lúc nào cũng nhỏ hơn chữ. Đến các tiếng có nguyên âm đôi
cũng vậy thầy hớng dẫn cho học sinh ghi nh thế nào cho đúng, nhìn vào cân đối và
đẹp mắt. Thầy hớng dẫn cho học sinh cách nói chuẩn để hgi dấu ? (hỏi) và dấu ~
(ngã) đúng.
Ví dụ: Thầy đọc tiếng có dấu đọc giọng nhẹ.
Thầy: Tiếng có dấu ~ đọc nhấn giọng và hơi kéo dài.
Ví dụ: Nhà nghỉ, suy nghĩ. Sau khi dạy phần này tôi đã khảo sát lớp 1A thấy
kết quả nh sau:
Số em viết chuẩn 15 em : Chiếm 45%.
Số em viết cha chuẩn 10 em 30%.
Số em ghi sai hoặc lẫn lộn 8 em 25%.
Với kết quả trên tôi quyết tìm ra phơng pháp viết đúng Chính tả một cách tối u
nhất. Tôi thờng gọi 8 em hay viết sai lên bảng viết lại tiếng thầy vừa đọc. Sau đó
cho học sinh chữa và đọc lại đúng. Tôi kiểm tra việc ghi dấu thanh bằng cách cho
học sinh nhắc lại cách đánh dấu thanh nh thế nào khi ghi âm 1 tiếng. Với cách làm
trên tôi thấy chất lợng khá hơn.
Số em viết đúng 32 em chiếm 97%.
2. Dạy Chính tả e, ê, i, c, k, g:
Khi học âm e và sau đó là ê, i các em không thể viết là ce. Do đó âm cờ đợc
viết bằng con chữ k (ca) xuất hiện nh cách viết Chính tả để ghi âm cờ đứng trớc e, ê,

i. Khi dạy tôi đã cho học sinh phân giải ngữ âm trong các trờng hợp sau:
ca phân giải cờ - a = ca
ke - cờ - e = ke
kê - cờ - ê = kê
ki - cờ - i = ki
Thầy cho học sinh nhắc nhiều lần, âm cờ đứng trớc âm e, ê, i phải viết bằng
con chữ k (ca). Sau đó để khắc sâu cách ghi Chính tả tôi cho học sinh viết bảng con
để học sinh càng nắm chắc cách viết. Khi học sinh viết tôi theo dõi và cho học sinh
tự chữa chỗ sai của mình. Học sinh nhìn vào bảng và đọc lại rõ ràng. Thầy hỏi vì
sao âm cờ đợc viết bằng con chữ k (ca). Học sinh vì âm cờ đứng trớc âm e, ê, i. Với
c ách dạy trên đem lại kết quả sau:
Số em phân biệt và viết đúng luật 25 em - 75%.
Kết quả nh vậy bản thân tôi hết sức lo lắng, làm thế nào để học sinh nắm chắc
về viết đúng luật 100%. Vì vậy tôi đã dày công luyện cho học sinh một cách có ý
thức.
Ví dụ: ở lớp có giờ luyện tập tôi gọi 8 em yếu này nhiều hơn. Tôi thờng đọc
cho học sinh viết ở bảng con. Sau đó cho học sinh chữa và đọc lại. Ngoài ra tôi còn
kiểm tra bài học ở nhà của học sinh bằng cách kiểm tra đầu giờ học.
Thầy: Vì sao âm cờ viết bằng con chữ k (ca)
Chú ý: Tuy viết âm cờ bằng con chữ k (ca) song khi đọc phân tích vẫn gọi
là cờ.
Ví dụ: cờ - e = ke
cờ - ê = kê
cờ - i = ki
Khi dạy đến âm gờ cách Chính tả lại xuất hiện.
Thầy vẫn thực hiện nguyên tắc đối lập khi cung cấp vật liệu.
Ví dụ: Ga, gô, ghe, ghê, ghi. Nh vậy học sinh đã đợc khắc sâu thêm về cách
viết Chính tả. Cũng nh âm cờ đợc viết bằng con chữ k (ca) mặc dù viết gh nhng khi
đọc phân tích vẫn là gờ. VD: gờ - e = ghe. Khi H đã nắm chắc cách viết Chính tả tôi
cho học sinh viết bảng con ghe, ghê, ghi. Sau mỗi lần viết tôi kiểm tra bảng và chỉ

chỗ sai cho học sinh tự chữa lại bài của mình. Thầy quan sát hớng dẫn cho đến khi
học sinh chữa đúng và đọc đúng. Thầy hỏi vì sao âm gh đợc viết gh (kép)?. Học
sinh vì âm gh đứng trớc e, ê, i.
Mục đích này nhằm khắc sâu trong trí nhớ của học sinh về cách viết Chính tả.
Đến âm gh thầy cũng tiếp tục các bớc nh quy trình thực hiện với âm ngờ đứng trớc
e, ê, i.
- Thầy: Âm ngờ đứng trớc âm e, ê, i viết bằng ngờ gì?
- Học sinh: Ngh (kép).
- Thầy: Nh vậy âm ngờ có mấy cách viết.
- Học sinh: 2 cách: ng, gh (kép).
- Thầy: Bổ sung hoàn chỉnh.
âm cờ đứng trớc e, ê, i viết bằng chữ k (ce).
Khi viết âm gờ đứng trớc e, ê, i viết bằng chữ gh (kép), khi viết âm ngờ đứng
trớc e, ê, i viết bằng chữ gh (kép) xuyên suốt từ khi học âm e đến học âm ng thầy đã
cung cấp cho học sinh viết đầy đủ về Chính tả e, ê, i thông qua việc làm của học
sinh với những vật liệu mẫu. Đồng thời học sinh cũng nắm chắc thêm cách viết
Chính tả nữa là cách viết d, gi. Để học sinh phân biệt đợc khi viết 2 phụ âm này
thầy nên biết ở đây phải dựa vào nghĩa để làm căn cứ viết đúng chính tả.
VD: gì (cái gì, chuyện gì)
dì (em hay chị mẹ)
da (da dẽ, túi da)
gia (gia đình, quốc gia). Muốn học sinh viết đúng đòi hỏi ngữ điêu nói
của thầy phải chuẩn mực.
VD: Khi đọc các tiếng có âm dờ viết bằng con chữ gi (di).
Thầy đọc nghe rõ tiếng gió bên cạnh nghĩa thầy còn chú ý cả ngữ điệu.
VD: dì ạ! gì ạ?
Với phơng pháp dạy nh vậy tôi thấy chất lợng có khá hơn. Số em nắm
chắc luật 31 em - 93%.
Khi dạy đến câu thì cách viết hoa đầu câu đợc xuất hiện.
Thầy cho học sinh biết khi viết tên riêng cần viết hoa.

VD: Bố mẹ đã về, cô Nga, dì Na. Trong Tiếng Việt hiện nay ngày càng xuất
hiện nhiều từ nớc ngoài. Khi viết các tiếng nớc nogài giữa các chữ phải có gạch nối,
khi viết tên riêng chỉ viết hoa chữ cái đầu.
VD: Mô-da; xô crat; Pi-a-nô; Pơ-Luya.
Dạy cách viết i (y). Khi dạy tôi cho học sinh nắm chắc tiếng chỉ có i âm i thì
có khi viết là i, có tiếng viết là y (dài) học sinh nắm đợc viết y đó là từ gốc Hán,
i đó là từ thuần việt.
VD: ý đức, chú ý, ì ra, chú ỉ. Ngoài ra tôi còn cho học sinh nắm chắc thêm khi
có âm đậm đứng trớc âm i phải viết y (dài). VD: quy, quý, quỹ.
Đối với âm cờ đợc viết bằng con chữ q (cu). Tôi cho học sinh nắm chắc âm cờ
đứng trớc âm đệm phải viết bằng chữ qu (cu) âm đệm 0 viết bằng âm đệm u.
Thầy: Vậy âm đệm 0 có mấy cách viết. Học sinh: 2 cách viết 0 hoặc u. Với
cách dạy nh vậy tôi thấy chất lợng nh sau:
Số em nắm chắc luật 30 em - 90%. Để 100% học sinh viết đúng luật chính tả
tôi lại tiếp tục kiểm tra với những tiếng, ba, ca, ke, ki, kỉ, qua, quả, quá. Thầy cho
học sinh viết từng chữ vào bảng con thầy quan sát và chữa chỗ sai chung, học sinh
chữa lại bảng của mình và đọc đúng. Đến đây học sinh hiểu đợc rằng âm cờ có 3
cách viết.
Âm cờ đợc viét bằn chữ cờ.
- - chữ k (ca).
- - chữ a (cu) và mặc dù viết bằng chữ nào khi phân tích vẫn
là âm cờ. Với cách làm nh vậy học sinh đã nắm đúng luật 32 em - 97%.
3. Chính tả cách ghi nguyên âm đôi:
Ngoài 11 nguyên âm đã học thầy cho học sinh nắm chắc 3 nguyên âm đôi iê,
uô, ơ. Khi dạy tôi cho học sinh nắm chắc đây là một nguyên âm đôi mang tính chất
của 2 âm.
Nguyên âm đôi iê mang tính chất của i và ê.
- uô - u và ô.
- ơ - và ơ.
Khi dạy nguyên âm đôi iê tôi cho học sinh phân tích tiếng lia và liên. Học sinh

ghi 2 tiếng đó vào mô hình.
Thầy nhận xét ở mô hình (1) các em phân tích và viết vậy chỉ đúng về âm, nh-
ng còn sai về chính tả.
Thầy bổ sung: Mỗi nguyên âm đôi có 2 cách viết:
- Khi vần không có âm cuối viết ia.
- Khi vần co âm cuối viết iê.
Thầy cho học sinh nhắc lại và thực hiện mô hình tiếng lia, liên vào bảng con.
Học sang vần iên iết - Thầy bổ sung về luật chính tả. Nếu có âm đệm có âm
cuối nhng lại không có âm đầu thì nguyên âm iê phải viết yê. Thầy cho học sinh
nhắc lại.
VD: yên, yết.
Thầy: Cho học sinh thực hiện ở bảng con để kiểm tra cách viết của
học sinh.
VD: Bia, liên, yên, yết khuyên - tuyết.
Thầy: Nếu có âm đệm mà không có âm cuối thì iê viết ya.
VD: Khuya, luya, tuya.
Thầy: Thống nhất lại nguyên âm đôi iê có 4 cách viết: ia, iê, ya, yê
Vậy nguyên âm đôi iê cũng tuân theo một nguyên tắc chính tả e, ê, i.
VD: Kìa, kiếm, quyễn, nghiêm, nghiệm, nghĩ.
Nguyên âm đôi uô, uờ mỗi nguyên âm có 2 cách viết: ua, uô, a, ơ. Qua khảo
sát tôi thấy học sinh viết sai nguyên âm đôi nhiều nhất so với các luật chính tả khác.
Số em viết đúng nguyên âm đôi 25 em - 75%. Số em viết còn lẫn lộn 8 em - 35%.
Để giúp học sinh nắm chắc cách viết 100%, tôi cho học sinh biết cách viết
chính tả không chỉ đọc thuộc mà để viết đúng. Vì vậy tôi đã cho học sinh luyện tập
nhiều ở trên lớp, luyện tập kiên trì và luyện tập một cách có ý thức. Ngoài giờ chính
khoá tôi đã cho 8 em này (Long, Long, Ly, Thọ, Hiển, Dơng, Tính, Hng học thêm
vào buổi học thứ 2 trong tuần). Khi dạy tôi cho học sinh viết vào bảng con, thầy chỉ
chỗ sai chung, sau đó học sinh tự chữa lại bài của mình và đọc lại đúng. Mỗi lần
l ia l iê n
l ia l iê n

học sinh đọc là một lần thầy hỏi vì sao viết iê, ya, yê, ua, uô, uơ, ơ. Ngoài ra 8 em
yếu này có thêm mỗi em một quyển vở để học cách viết chính tả vào 2 buổi trong
tuần.
Với cách làm trên đa số các em đã nắm chắc cách viết chính tả 32 em chiếm
97%.
Tóm lại: Phơng pháp chủ yếu mà tôi thực hiện với đối tợng học sinh để học
sinh nắm chắc cách viết chính tả là phơng pháp đối lập. Với phơng pháp này đợc coi
nh là một u thế để học sinh nắm chắc đợc cách viết chính tả. Ngoài ra tôi còn sử
dụng một số phơng pháp khác nh: Kiểm tra cách viết chính tả trong các tiết học ở
trên lớp. Thông qua phụ huynh để phụ huynh hớng dẫn học ở nhà của học sinh qua
vở luyện tập.
Qua vấn đề này với các phơng pháp trên, nếu đợc áp dụng một cách liên tục
không ngừng, chúng tôi tin rằng nó sẽ có hiệu quả một cách khả quan đối với học
sinh và sẽ góp phần vào việc Viết đúng chính tả là một tiêu chí trực quan đối với
ngời có văn hoá. Đồng thời chúng ta phải chăm lo việc này ngay từ lần đầu tiên
học sinh lớp 1 gặp luật chính tả và mãi sau này vẫn phải lu ý đến chuyện đó. Mặt
khác chúng ta thấy ứng dụng của quy tắc viết chính tả sẽ góp phần vào việc giữ gìn
và thống nhất của Tiếng Việt. Cho phép tôi mợn lời của giáo s Hoàng Phê đã kết
thúc bài luận này:
Trong một tơng lai không xa chuẩn hoá chính tả sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc sử dụng máy tính điện tử
Chúc các bạn vận dụng thành công!
Quảng Sơn, ngày 16 tháng 4 năm 2005

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×