1. Tổng quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank)
1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) thành lập trên cơ
sở hợp nhất Ngân hàng Phát triển kinh tế Gò Vấp và 03 Hợp tác xã tín dụng Tân Bình,
Lữ Gia, Thành Công và chính thức đi vào hoạt động ngày 21/12/1991.
Sacombank ra đời trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tín dụng đầu năm 1990 với số
vốn điều lệ ban đầu 03 tỷ đồng và hoạt động chủ yếu tại vùng ven TP.HCM. Trải qua
hơn 20 năm xây dựng và hoạt động, đến nay Sacombank đã phát triển lớn mạnh theo
mô hình Ngân hàng bán lẻ với một mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước và mở
rộng sang các nước Đông Dương với 424 điểm giao dịch và gần 2,6 triệu khách hàng
gắn bó.
Đến thời điểm 11/03/2013, với mức vốn điều lệ vào khoảng 12.425 tỷ đồng,
Sacombank là một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam về vốn điều
lệ, về mạng lưới hoạt động cũng như về tốc độ tăng trưởng trong hoạt động kinh
doanh. Trong suốt quá trình hoạt động, Sacombank luôn kiên định với chiến lược phát
triển, mở ra những lối đi riêng và trở thành ngân hàng tiên phong trong nhiều lĩnh vực.
1.2 Sứ mệnh và tầm nhìn
Sứ mệnh: Tối đa hóa giá trị cho khách hàng, nhà đầu tư và đội ngũ nhân viên, đồng
thời thể hiện cao nhất trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng.
Tầm nhìn: Phấn đấu trở thành Ngân hàng bán lẻ hiện đại, đa năng hàng đầu Việt Nam
và khu vực Đông Dương.
2. Phân tích hoạt động
2.1. Sản phẩm/dịch vụ cốt lõi
Các sản phẩm/dịch vụ Sacombank được đánh giá là phong phú, đáp ứng hiệu quả nhu
cầu của khách hàng. Sacombank cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng, hiện đại (tín
dụng, tiền gửi, dịch vụ thẻ, mobile banking, internet banking, sản phẩm đầu tư, bảo
hiểm,…) cho nhiều đối tượng khách hàng. Bên cạnh đó, các công ty thành viên
Sacombank kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau tạo điều kiện cung cấp các sản
phẩm dịch vụ trọn gói, không ngừng mở rộng quan hệ khách hàng và thị phần hoạt
động.
2.2 Mạng lưới
Sacombank hiện đang là ngân hàng TMCP có ưu thế về mạng lưới hoạt động. Mạng
lưới hoạt động của Sacombank từ 3 chi nhánh và 1 Hội sở lúc thành lập đã phát triển
đến gần 424 điểm giao dịch tại 48/63 tỉnh thành Việt Nam và 2 nước láng giềng Lào,
Campuchia (tính đến ngày 31/12/2013). Dự kiến đến 2015, mạng lưới hoạt động của
Sacombank sẽ đạt 500 điểm.
Hiện tại, Sacombank có 05 công ty con bao gồm: (1) Công ty Quản lý nợ và khai thác
tài sản Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín – SBA (2) Công ty Kiều hối Ngân hàng Sài
Gòn Thương Tín – SBR (3) Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương
Tín – SBL (4) Công ty chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín – SBS (5) Công
ty Vàng bạc đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín – SBJ.
Các thành viên hợp tác chiến lược với Sacombank gồm có:
Công ty Cổ phần Đầu tư Sài Gòn Thương Tín (STI);
Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal);
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Tân Định (Tadimex);
Công ty Cổ phần Đầu tư – Kiến trúc – Xây dựng Toàn Thịnh Phát (TTP);
Công ty Cổ phần Quản lý quỹ đầu tư Việt Nam (VFM).
Ngoài ra ngân hàng có 03 đối tác chiến lược nước ngoài là International Financial
Company (IFC) trực thuộc World Bank, Dragon Financial Holdings Capital thuộc Anh
Quốc; tập đoàn Ngân hàng Australia và Newzealand (ANZ).
2.3 Tình hình góp vốn, đầu tư giai đoạn 2008 – 2013
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Tình hình góp vốn – đầu tư của Sacombank trong giai đoạn 2008 – 2013 có xu hướng
giảm theo từng năm với trong giai đoạn 2009 – 2011 và 2011 – 2013. Cụ thể:
Năm 2008, Sacombank thực hiện đầu tư 1.254.261.000.000 đồng với hình
thức góp vốn dài hạn, liên doanh vào các công ty liên kết. Đâu cũng là mức
cao nhất của cả giai đoạn phân tích. Sacombank đầu tư mua sắm tài sản cố
định và mở rộng mạng lưới kênh phân phối, điểm giao dịch ATM, POS nhằm
tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ và tính hiệu quả của hệ thống phân phối
để nâng cao tính cạnh tranh của ngân hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện chính
sách đầu tư này, nhất là đầu tư mua đứt bất động sản làm trụ sở, chi nhánh,
phòng giao dịch thay vì thuê mướn đã làm cho chi phí hoạt động gia tăng
mạnh.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Để kiểm soát việc các chi phí có thể gia tăng mất kiểm soát, từ năm 2009 đến
năm 2011 Sacombank giảm đầu tư vào công ty liên kết, giảm góp vốn liên
doanh, kiểm soát và chuyển dần các hướng đầu tư.
Đến giai đoạn 2012 – 2013, cũng như các ngân hàng trên thị trường,
Sacombank thực hiện tăng trích lập dự phòng rủi ro, giảm mạnh đầu tư dài hạn
vì hệ lụy của cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài từ năm 2008 ảnh hưởng đến
các giao dịch trên thị trường tài chính. Do đó các khoản đầu tư – góp vốn
trong năm 2012 và 2013 giảm mạnh so với giai đoạn trước đó (trong đó năm
2012 chỉ đạt 240.936.000.000 đồng – mức thấp nhất).
2.4 Công nghệ
Ban lãnh đạo Sacombank xác định việc đầu tư vào công nghệ là yếu tố then chốt, hỗ
trợ mọi hoạt động và phát triển kinh doanh. Ngay từ ngày đầu thành lập, Sacombank
đã sớm định hướng rõ việc đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào hoạt động ngân hàng,
nhằm phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
Từ 2011, Sacombank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam triển khai thành công dự án
Data Ware House (kho dữ liệu tập trung) vận hành trên hệ thống máy chủ dữ liệu
Oracle Exadata.
Năm 2012, Sacombank nâng cấp thành công hệ thống ngân hàng lõi (core banking)
T24 từ phiên bản R8 lên R11 hiện đại nhằm phát huy năng lực quản lý, đa dạng hóa
sản phẩm dịch vụ và tăng cường sức cạnh tranh cho Sacombank.
Năm 2013, Sacombank đang hợp tác với Công ty Infosys triển khai hệ thống Ngân
hàng điện tử mới với nhiều chức năng và tiện ích tối ưu hơn để phục vụ khách hàng.
Chính sự ra đời của hệ thống Ngân hàng điện tử mới này là bước đột phá mới trong thị
trường tài chính - ngân hàng Việt Nam; đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ, thu hút
khách hàng, gia tăng thị phần của Sacombank.
Ngoài ra Sacombank triển khai thành công hệ thống xếp hạng tự động dành cho tất cả
khách hàng trong và ngoài nước. Theo đó, 100% khách hàng mới và trên 80% khách
hàng cũ đã được xếp hạng và cập nhật liên tục trên hệ thống.
Hệ thống tính toán tổn thất được xây dựng dự kiến hỗ trợ việc phán quyết và cấp phát
tín dụng, giúp hạn chế thấp nhất rủi ro với sự tư vấn của Công ty Ernst &Young.
Các chương trình CIC, hệ thống đánh giá môi trường cũng được triển khai thành công.
2.5 Chiến lược kinh doanh
Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao
• Đây là yếu tố trọng tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển 10 năm (2011
– 2020) của Sacombank trên cơ sở nhận thức nguồn nhân lực là tài sản quý
giá nhất. Từ 100 cán bộ nhân viên khi mới thành lập, đến nay, nguồn nhân
lực của Sacombank đã lên đến gần 10.000 người trên toàn hệ thống tại Việt
Nam, Lào và Campuchia.
• Sacombank đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo mọi cấp. Nội dung đào
tạo được mở rộng dần từ các kỹ năng mềm đến các kiến thức chuyên môn,
với sự giảng dạy của các chuyên gia uy tín trong, ngoài nước và đội ngũ
giảng viên nội bộ của Sacombank.
• Ngoài ra, Sacombank thực hiện theo chủ trương xã hội hóa giáo dục của
Nhà nước thông qua chương trình "Thực tập viên tiềm năng" được tổ chức
định kỳ trên phạm vi rộng. Thông qua chương trình, Sacombank đã chủ
động được nguồn nhân sự dự trữ để phục vụ cho nhu cầu mở rộng hoạt
động của Ngân hàng.
Xây dựng nền tảng vận hành hiện đại và vững chắc thông qua việc đầu tư
công nghệ
Tăng cường năng lực tài chính
• Vốn chủ sở hữu của Sacombank tăng qua từng năm. Tính đến 2013 vốn chủ
sở hữu của Sacombank (12.425 tỷ đồng) lớn hơn đến 4.142 lần so với con
số 3 tỷ đồng tại thời điểm thành lập. Việc tăng trưởng nguồn vốn này đảm
bảo cho Sacombank có nguồn lực phát triển chiều sâu về mạng lưới, công
nghệ thông tin, quy mô các công ty con, đào tạo nguồn nhân lực…
• Sacombank tiếp nhận sự tham gia góp vốn, hỗ trợ kỹ thuật của các đối tác
chiến lược là các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn trên thế giới. Đây là
nguồn vốn ổn định với giá thành phù hợp để tăng vốn tự có, nhưng không
gây áp lực tăng cổ tức, không gây pha loãng giá cổ phiếu.
Phát huy tác dụng và hiệu quả của lợi thế mạng lưới
• Sacombank là đơn vị có kinh nghiệm và ưu thế trên thị trường bán lẻ với
mạng lưới rộng khắp gần 424 điểm giao dịch khu vực Đông Dương (Việt
Nam, Lào, Campuchia). Ngoài ra, Sacombank đã thiết lập mối quan hệ đại
lý với hơn 300 ngân hàng tại 82 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế
giới, để thực hiện các giao dịch tài trợ thương mại, tài trợ dự án, thanh toán
và chuyển kiều hối.
• Trên nền tảng lợi thế về mạng lưới rộng khắp, Sacombank có điều kiện
thuận lợi để đưa đến tận tay mọi đối tượng khách hàng cá nhân cũng như
các DN cơ hội tiếp cận nguồn vốn để phục vụ nhu cầu tiêu dùng, phát triển
sản xuất kinh doanh và hàng loạt các dịch vụ ngân hàng - tài chính hiện đại,
đa tiện ích.
3. Phân tích tài chính
3.1 Tăng trưởng tài sản
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng tài sản 67.469 98.474 141.799 140.137 151.282 160.170
Mức tăng trưởng 45.95% 43.96% 1.17% 7.95% 5.88%
Dư nợ cho vay 33.708 55.497 77.486 79.429 98.728 107.848
Mức tăng trưởng 64.63% 39.62% 2.51% 24.3% 9.24%
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Nhìn tổng quan thì tổng tài sản của Sacombank từ năm 2008 đến 2013 có sự tăng
trưởng ổn định từ 67.469 tỷ đồng lên 160.170 tỷ đồng, tức tăng xấp xỉ gần 140%. Đạt
được kết quả này là do có sự tăng trưởng trong hoạt động cấp tín dụng, đầu tư vào hệ
thống công nghệ ngân hàng hiện đại và mở rộng hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng
giao dịch.
Dư nợ cho vay có tốc độ tăng trưởng bình quân (28.06%) lớn hơn tốc độ tăng trưởng
tài sản bình quân (20.05%), nguyên nhân là do vào năm 2009 dư nợ cho vay có mức
tăng trưởng mạnh đạt 55.497 tỷ đồng, tức 64.63%.
Vào năm 2011 là một năm thật sự khó khăn của cả khách hàng vay vốn và ngân hàng.
Dư nợ trong năm này của toàn hệ thống tăng chậm với nhiều nguyên nhân, trong đó
chủ yếu do việc cắt giảm dư nợ cho vay lĩnh vực bất động sản và tiêu dùng; việc huy
động vốn tuy có tăng nhưng không ổn định, các chi nhánh không mạnh dạn cho vay để
đảm bảo tính thanh khoản; do tình hình giá cả tăng nhanh, chỉ số lạm phát tăng, lãi
suất cho vay cao, nếu đẩy mạnh cho vay sẽ không đảm bảo an toàn vốn. Trong bối
cảnh khó khăn chung của nền kinh tế và môi trường hoạt động kinh doanh nhiều rủi
ro, Sacombank cũng không nằm ngoài phạm vi chịu sự ảnh hưởng, lượng tiền mặt của
ngân hàng giảm và đặc biệt tiền, vàng gửi tại các tổ chức tín dụng khác và cho vay các
tổ chức tín dụng khác giảm mạnh từ 21.209 tỷ đồng xuống 9.621 tỷ đồng, điều này dẫn
đến làm tổng tài sản năm 2011 giảm từ 141.799 tỷ đồng xuống 140.137 tỷ đồng (tương
đương 1.17%).
3.2. Tăng trưởng nguồn vốn
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Vốn chủ sở hữu (1) 7.638 10.289 13.633 14.224 13.414 16.703
Vốn điều lệ (2) 5.116 6.700 9.179 10.740 10.740 12.425
Tổng nguồn vốn huy động (3) 58.635 86.335 126.204 111.513 123.753 140.770
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Nguồn vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ của Sacombank giai đoạn 2008 – 2013 đều có sự
gia tăng qua các năm và tốc độ tăng trưởng bình quân lần lượt là 18,07% và 20,13%.
Tuy nhiên vào năm 2012, vốn chủ sở hữu giảm từ 14.224 tỷ đồng xuống 13.414 tỷ
đồng (tương đương 5.7%). Điều này được lý giải do năm 2012 Sacombank giữ nguyên
cơ cấu vốn điều lệ là 10.740 tỷ đồng trong khi khoản mục lợi nhuận chưa phân phối
giảm mạnh từ mức 1.756 tỷ đồng xuống còn 911 tỷ, trong khi các khoản mục khác của
vốn chủ sở hữu thì không có sự thay đổi nhiều. Đồng thời, vốn điều lệ tăng thêm chủ
yếu được chuyển đổi từ nguồn vốn chủ sở hữu như lợi nhuận chưa phân phối, thặng dư
vốn thông qua hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay thưởng cổ phiếu.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng nguồn vốn huy động giai đoạn 2008 – 2013 của
Sacombank là 21%. Năm 2013, Sacombank chiếm 3,6% thị phần huy động vốn của
toàn ngân hàng. Nổi bật vào năm 2010 khi tổng nguồn vốn huy động gia tăng mạnh từ
86.335 tỷ đồng đến 126.204 tỷ đồng, tức 46.17%. Sacombank huy động vốn chủ yếu
tập trung vào nhóm khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ cấu vốn huy
động vốn gồm: tiền gửi của khách hàng (chiếm tỷ trọng trên 70% từ năm 2008-2013),
vốn tài trợ ủy thác từ pháp nhân bên ngoài và phát hành giấy tờ có giá. Tuy nhiên, vào
năm 2011 tổng nguồn vốn huy động lại giảm 11.6% so với đầu năm (cụ thể là từ
126.204 tỷ đồng xuống còn 111.513 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng huy động vốn của
Sacombank có xu hướng giảm do quy định ngừng huy động vàng của NHNN, lãi suất
huy động giảm và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt.
3.3. Tình hình cho vay
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng dư nợ 35.008 59.657 82.484 80.539 96.334 110.565
Nợ đủ tiêu chuẩn 34.671 59.168 82.010 79.840 93.932 108.175
Nợ cần chú ý 129 104 29 235 428 779
Nợ dưới tiêu chuẩn 81 35 31 101 312 169
Nợ nghi ngờ 57 167 60 193 764 422
Nợ có khả năng mất vốn 69 180 352 167 896 1.017
Tỉ trọng nợ xấu 0,60% 0,64% 0,54% 0,58% 2,05% 1,46%
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Giai đoạn từ 2008 -2013 là một giai đoạn mà tình hình kinh tế xã hội trải qua nhiều
diễn biến phức tạp, đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng tài chính dây chuyền bắt đầu ở Mỹ
năm 2007, dẫn đến suy thoái trên diện rộng tại nhiều quốc gia năm 2008, kéo theo lạm
phát và nợ công tăng cao và dư âm còn kéo dài đến năm 2010. Bên cạnh bối cảnh
chung của thế giới thì tình hình trong nước cũng không mấy khả quan, sản xuất đình
đốn, nhu cầu vốn thị trường gần như chạm đáy và Ngân hàng Nhà nước thực hiện
chính sách thắt chặt tín dụn nhưng Sacombank vẫn đạt được sự tăng trưởng tổng dư nợ
khá tốt với tốc độ tăng trưởng hơn 215% trong giai đoạn từ 2008 đến 2013.
Về cơ cấu khách hàng, Sacombank chủ yếu tập trung vào nhóm khách hàng cá nhân,
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và đây cũng sẽ là nhòm khách hàng mục tiêu tiếp tục hướng
đến của Sacombank vì nhu cầu vay ổn định, chênh lệch lãi suất hấp dẫn và rủi ro tín
dụng thấp.
Về cơ cấu ngành, cho vay các ngành sản xuất, nông nghiệp và thương mại chiếm tỷ
trọng trên 50% tổng dư nợ. Đây là những ngành có tốc độ tăng trưởng ổn định, có
nhiều tiềm năng khai thác và chất lượng nợ tương đối tốt.
Tính đến 31/12/2013, tổng dư nợ cho vay khách hàng chiếm 68.86% tổng tài sản. Thị
phần cho vay Sacombank đạt 3,17%, tăng nhẹ so với đầu năm. Tín dụng tăng trưởng
tốt nhưng chất lượng các khoản vay giảm. Cụ thể, tăng trưởng tổng dư nợ vào năm
2012 tăng gần 20% so với năm 2011 và kết quả này là nhờ các khoản cho vay bất động
sản và xây dựng. Sacombank đã dùng khoản cho vay ngắn hạn (giá trị lớn) để giải
ngân cho các dự án bất động sản dài hạn. Trong bối cảnh thị trường bất động sản đang
gặp nhiều khó khăn, việc tăng tỷ trọng tín dụng như vậy có thể khiến rủi ro nợ xấu
tăng trong tương lai. So với các ngân hàng niêm yết khác, Sacombank đang có tỷ trọng
cho vay bất động sản và xây dựng cao hơn từ 5% đến 10%.
Song song với việc tăng trưởng tín dụng vẫn duy trì qua các năm, Sacombank cũng đã
cố gắng duy trì tỷ lệ nợ xấu trong hạn mức cho phép (không quá 3%), năm 2013 tỷ lệ
nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm chỉ còn 1.46% so với 2.05% vào năm 2012. Tuy nhiên,
điểm đáng lưu ý trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2012 là nợ xấu đã tăng hơn gấp 3
lần, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ vào năm 2012 có sự gia tăng đột biến lên 2.05% so
với 0.58% vào năm 2011. Nguyên nhân là vào thời điểm 2012 là giai đoạn khó khăn
đối với ngân hàng nói chung và Sacombank nói riêng, nhất là thời kỳ bất động sản
đóng băng, hàng hóa tồn kho dài hạn khiến cho nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng
kinh doanh thua lỗ và không có khả năng để trang trải các khoản nợ vay tại ngân hàng
khiến cho tỷ lệ các nhóm nợ quá hạn tăng lên nhanh.
3.4 Tình hình thanh khoản
Thanh khoản là một thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về
sử dụng vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả
tiền gửi, cho vay, thanh toán, giao dịch vốn
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro đặc trưng và phổ biến trong hoạt động ngân hàng
thương mại tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khả
dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh doanh
bị đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng phá sản.
Rủi ro thanh khoản xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như:
Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị
hạn chế do tác động của lạm phát và lòng tin.
Các NHTM đã không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh khoản một
cách khoa học và bài bản.
Rủi ro thanh khoản cũng là rủi ro tài chính do tính lỏng của tài sản không ổn
định. Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu
chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với
tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó
khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó.
Rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng.
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá rủi ro thanh khoản, dựa trên báo cáo thường niên và sự
thuận lợi, nhóm sẽ xem xét 4 chỉ tiêu để đánh giá thanh khoản của Sacombank:
Chỉ số tiền mặt/tổng tài sản
Chỉ tiêu này cần đảm bảo đủ cao và ổn định, thể hiện khả năng đáp ứng cho nhu cầu
thanh toán tức thời.
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Qua biểu đồ ta thấy:
Giai đoạn 2008 – 2010: chỉ tiêu này của Sacombank cao và ổn định (>20%)
Giai đoạn 2011 – 2013: chỉ tiêu này giảm mạnh so với các năm trước. Năm
2013 Sacombank giảm mạnh về khả năng thanh khoản, lượng tiền mặt chiếm
tỉ lệ thấp nhất (7,54%). Nguyên nhân là do Sacombank đã thay đổi tỉ lệ các
khoản mục trong cơ cấu: tăng mạnh khoản mục cho vay khách hàng và giảm
lượng tiền mặt nắm giữ.
Chỉ số cho vay/tổng tài sản (Càng cao càng rủi ro)
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Chỉ số cho vay/tổng tài sản của Sacombank có xu hướng tăng trong giai đoạn 2008-
2013, chỉ số này đạt cao nhất vào cuối năm 2013. Sacombank có thể gặp phải rủi ro về
lãi suất nếu chỉ tiêu này quá cao. Tuy nhiên, khi NHNN thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ để đảm bảo khả năng thanh toán, các ngân hàng buộc phải thay đổi giảm chênh
lệch giữa lãi suất tiền gửi và cho vay, việc tăng cường cho vay là hoạt động phù hợp.
Tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Tỷ lệ cho vay/huy động được hiểu là ngân hàng đã sử dụng bao nhiêu phần trăm tiền
gửi của khách hàng để cung ứng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấp thì khả năng thanh
khoản của ngân hàng càng cao và ngược lại. Từ biểu đồ ta thấy tỷ lệ cho vay/huy động
tăng qua các năm. Năm 2011, chỉ tiêu này tăng vượt trội so với các năm trước
(84,89%)
Tuy nhiên theo quy định của Thông tư 13 về “Giới hạn tỷ lệ cho vay trên vốn huy
động không quá 80%” thì giai đoạn 2011-2013 Sacombank đã vượt quá mức này. Nếu
Sacombank tiếp tục để vượt quá mức này thì buộc ngân hàng phải vay TCTD khác để
đảm bảo khả năng thanh khoản. Nguyên nhân là do chính sách thắt chặt tiền tệ của
NHNN làm lãi suất giảm nên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn. Trong khi đó,
Sacombank lại tiếp tục tăng dư nợ cho vay khách hàng để đạt mục tiêu lợi nhuận.
Tỷ lệ tiền gửi và cho vay TCTD/tiền gửi và vay từ TCTD (Chỉ tiêu này càng thấp
thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng cao và ngược lại)
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Qua biểu đồ ta thấy tỷ lệ này của Sacombank qua các năm đều khá cao. Đặc biệt trong
năm 2009, tỷ lệ này lên tới 595,68% cho thấy nguồn vốn Sacombank khá dồi dào. Lúc
này Sacombank đã gửi nhiều hơn đi vay các TCTD khác và ngân hàng có nhiều lợi thế
trong việc huy động đảm bảo thanh khoản của mình. Ngược lại, năm 2011 tỷ lệ này
khá khiêm tốn chỉ đạt 77.75% lúc này hoạt động tiền gửi và cho vay không thật sự tốt
do biến động về lãi suất, chính sách thắt chặt của NHNN ngoài ra năm 2011
Sacombank đã thua lỗ khá nhiều trong việc đầu tư chứng khoán dẫn đến Sacombank
phải đi vay nhiều hơn cho vay các TCTD khác.
3.5 Chất lượng tài sản
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tiền mặt, vàng bạc, đá quý 8.459 8.702 12.678 11.857 9.704 4.229
Tiền gửi tại NHNN 3.225 2.634 3.619 2.807 4.599 3.301
Tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và
cho vay các TCTD khác
7.048 15.200 21.210 9.621 7.574 7.470
Chứng khoán kinh doanh 370 850 2.280 349 1.272 2.651
Các công cụ tài chính phái sinh và các
tài sản tài chính khác
7 609 7 3 383 44
Cho vay và cho thuê tài chính khách
hàng
34.757 59.141 81.664 79.727 94.888 109.214
Chứng khoán đầu tư 8.970 9.912 21.525 24.368 19.984 19.894
Góp vốn, đầu tư dài hạn 1.254 603 651 666 241 319
Tài sản cố định 1.696 2.481 3.136 3.708 5.219 5.307
Bất động sản đầu tư - - - -
Tài sản Có khác 2.654 3.886 5.618 8.362 8.255 8.949
Tổng 68.439 104.019 152.387 141.469 152.119 161.378
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sacombank qua các năm)
Giai đoạn 2008 – 2010 Sacombank đã có bước đột phá mạnh trong tổng tài sản, tổng tài
sản 2010 là 152.387 tỷ đồng tăng hơn gấp đôi so với năm 2008 là 68.439 tỷ đồng.
Trong giai đoạn này chúng ta cũng phải công nhận Sacombank có mức tăng trưởng tốt,
dư nợ tín dụng cao, phát huy được điểm mạnh về thương hiệu và công nghệ ngân hàng.
Tuy nhiên tính đến 31/12/2013, tổng tài sản Sacombank đạt 161,378 tỷ đồng. Trong đó cho
vay và cho thuê tài chính khách hàng chiếm tỉ trọng lớn nhất với 109,214 tỷ đồng. Điều này
có nghĩa là cơ cấu tài sản của Sacombank phụ thuộc khá nhiều vào cho vay khách hàng. Vì
vậy Sacombank có thể gặp rủi ro khá lớn trong danh mục đầu tư tài sản của mình.
Trước tình hình khả năng phục hồi của nền kinh tế còn chậm, tính thanh khoản của
toàn hệ thống ngân hàng nói chung còn gặp nhiều vấn đề do sức ép của thị trường, tác
động suy thoái kinh tế thì Sacombank nên việc tập trung đa dạng hóa danh mục tài sản
của mình, đầu tư tài sản có tính ổn định lâu dài để phát triển bền vững và tránh rủi ro
thanh khoản.
3.6 Chất lượng thu nhập
Cơ cấu thu nhập của Sacombank thay đổi khá nhiều từ năm 2008 đến 2013. Năm 2008
thu nhập của Sacombank khá đa dạng, với thu nhập từ lãi thuần chỉ chiếm khoảng 47%
tổng thu nhập kinh doanh của Sacombank thì đến năm 2013 tỷ lệ này đã tăng lên đáng
kể là 87%. Thu nhập từ kinh doanh của Sacombank hầu hết đều đến từ thu nhập lãi
thuần và lãi thuần từ hoạt động dịch vụ.
Đơn vị tính:Tỷ đồng
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Thu nhập lãi thuần
1.146.66
8
2.302.935
3.890.55
1
5.842.227
6.497.17
9
6.627.43
7
Lãi/lỗ thuần từ hoạt động dịch vụ 562.349 1.036.192 1.142.758
1.041.39
5
686.489 947.900
Lãi/lỗ thuần từ hoạt động kinh
doanh ngoại hối và vàng
510.041 314.108 (502.212) 204.268 218.164 (203.332)
Lãi/lỗ thuần từ mua bán chứng
khoán kinh doanh
86.856 16.024 18.046 (186.449) 3.585 (67.760)
Lãi/ lỗ thuần từ mua bán chứng
khoán đầu tư
(88.253) 412.690 (151.395) (10.723) (387.086) 27.674
Lãi thuần từ hoạt động khác 116.209 (73.011) 135.451 106.076 (81.567) 97.078
Thu nhập từ góp vốn, mua cổ
phần
120.089 87.189 522.808 (242.027) (83.412) 172.310
Tổng thu nhập kinh doanh
2.453.95
9
4.096.127 5.056.007
6.754.76
7
6.853.35
2
7.601.30
7
Chi phí hoạt động 1.269.935
1.638.75
9
2.177.73
3
3.589.13
6
4.154.23
6
4.206.024
Lợi nhuận thuần từ hoạt động
kinh doanh trước chi phí dự
phòng rủi ro tín dụng
1.184.02
4
2.457.36
8
2.878.274
3.165.63
1
2.699.116
3.395.28
3
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng 74.097 282.429 317.832 394.957
1.331.26
5
434.635
Tổng lợi nhuận trước thuế 1.109.927
2.174.93
9
2.560.442 2.770.674
1.367.85
1
2.960.648
Lợi nhuận sau thuế 954.753 1.670.559
1.910.34
0
1.995.857 1.002.370 2.229.109
Lãi cơ bản trên cổ phiêu (VNĐ) 1.869 2.771 2.422 2.241 1.029 1.982
Trong bối cảnh nợ xấu đang có xu hướng gia tăng, cùng với đó là các yêu cầu về an
toàn – hiệu quả, việc kiểm soát trong hoạt động ngân hàng được đề cao. Mặc dù thu
nhập lãi kinh doanh Sacombank khá cao tuy nhiên việc quá lệ thuộc vào cho vay tín
dụng có thể tiềm tàng nhiều rủi ro cho ngân hàng liên quan đến vấn đề thanh khoản.
Để hạn chế rủi ro này thì buộc ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro cao hơn đồng
nghĩa với giảm lợi nhuận, dẫn đến ROE giảm. Minh chứng cho điều này là năm 2012
Sacombank trích dự phòng rủi ro tín dụng (1.331.265 tỷ đồng) bằng một nửa lợi nhuận
thuần từ hoạt động kinh doanh( 2.699.116 tỷ đồng). Cùng với đó là các hoạt động mua
bán chứng khoán đầu tư và chứng khoán kinh doanh, kinh doanh ngoại hối và vàng,
góp vốn, mua cổ phần và các hoạt động khác cũng liên tục thua lỗ làm cho các nhà đầu
tư, gửi tiền nghi ngại và rụt rè hơn trong vấn đề giao dịch với Sacombank.
3.7 Các hệ số doanh lợi và các hệ số tài chính cơ bản khác
Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA)
ROA=
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường
Tổng tài sản
Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh
nghiệp. ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ
lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành
lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm
được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
NĂM 2008 2009 2010 2011 2012 2013
ROA 1,44 1,94 1,46 1,41 0,68 1,42
ROA của Sacombank biến động tương đối ổn định qua các năm, tỷ số này biến động
giảm mạnh vào năm 2012, lợi nhuận sau thuế chỉ đạt khoảng 987 tỷ đồng. Nguyên
nhân là tín dụng tăng trưởng thấp, lãi suất vay giảm, chi phí hoạt động và dự phòng rủi
ro tăng cao. Đây cũng là tình hình chung của thị trường.
Kết quả kinh doanh năm 2013 cho thấy ROA của Sacombank trở lại khả quan, ổn
định, lợi nhuận sau thuế đạt 2.229 tỷ đồng.
Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROA=
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường
Vốn cổ phần thường
Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao
nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ
phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của
công ty nào.
Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có
nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai
thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho
nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
NĂM 2008 2009 2010 2011 2012 2013
ROE 12,64 18,25 15,24 14,47 7,15 14,49
ROE của Sacombank tương đối cao và duy trì ổn định trong giai đoạn 2008 – 2013.
Năm 2013, ROE đạt 14,49% cao hơn nhiều so với trung bình các ngân hàng ở Việt
Nam, điều nay cho thấy Sacobank sử dụng vốn tương đối hiệu quả. Cũng như ROA,
chỉ số này trong năm 2012 xuống đến 7,15%, giảm mạnh so với các năm khác.
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
NIM=
Thu nhập lãi ròng
Tổng tài sản
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net Interest Margin – NIM) là chỉ số được sử dụng để xác
định chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi phải trả của ngân hàng, cho biết hiện
các ngân hàng đang thực sự hưởng chênh lệch lãi suất giữa hoạt động huy động và
hoạt động đầu tư tín dụng là bao nhiêu.
Tỷ lệ này càng cao càng có lợi cho ngân hàng vì tỷ lệ lãi tạo ra trên tài sản có sinh lời
của đơn vị là cao. NIM có xu hướng cao ở các ngân hàng bán lẻ quy mô nhỏ, các ngân
hàng thẻ tín dụng và các tổ chức cho vay hơn là NIM của các ngân hàng bán buôn, các
ngân hàng đa quốc gia hay các tổ chức cho vay cầm cố. Tỷ lệ NIM tăng cho thấy dấu
hiệu của quản trị tốt tài sản Nợ - Có trong khi NIM có xu hướng thấp và bị thu hẹp thì
cho thấy lợi nhuận ngân hàng đang bị co hẹp lại.
NĂM 2008 2009 2010 2011 2012 2013
NIM (tỷ lệ thu nhập lãi cận biên) 2,06 3,24 3,6 4,8 5,3 4,7
Nhìn chung, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng Sacombank giai đoạn (2008-
2013) tăng trưởng khá tốt và tương đối ổn định; NIM đã tăng từ 2,06% trong năm
2008 lên 5,3% trong năm 2012 và 4,7% trong năm 2013 (mức cao so với đa phần các
Ngân hàng khác)
Nguyên nhân là do:
Cơ cấu tài sản tập trung vào hoạt động có mức sinh lời cao như cho vay
khách hàng, đầu tư chứng khoán;
Huy động vốn và cho vay chủ yếu tập trung ở nhóm khách hàng cá nhân,
doanh nghiệp vừa và nhỏ (nhóm khách hàng có chênh lệch lãi suất tốt);
Lãi suất đầu ra bình quân giảm chậm hơn lãi suất đầu vào bình quân.
Tỷ lệ lãi biên (NIM) giảm ở giai đoạn hiện tại là phù hợp do:
Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, thanh khoản ngân hàng khả quan đã tạo
điều kiện để NHNN thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, giảm mặt bằng lãi
suất. Theo đó, lãi suất chính sách và trần lãi suất huy động đã giảm nhiều so
với giai đoạn trước. Lãi suất cho vay giảm nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng; tuy nhiên tốc độ giảm chậm hơn lãi suất huy động.
Sacombank tăng đầu tư vào chứng khoán nợ và giảm tỷ trọng chứng khoán
vốn nhằm giảm bớt rủi ro. Trong khi đó, chi phí đầu vào bình quân sẽ khó
giảm do ngân hàng đã mất đi nguồn huy động vàng với chi phí thấp trong khi
duy trì lãi suất huy động ở mức phù hợp để đảm bảo thị phần huy động vốn.
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) phản ánh tỷ lệ vốn tự có tối thiểu ngân hàng phải đạt được
trên tổng tài sản “có” rủi ro.
Sacombank luôn duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR ở trên mức quy định 9% của
ngân hàng nhà nước. Tỷ lệ này đã giảm dần từ năm 2008 ở mức 12,16% xuống mức
9,97% năm 2010. Năm 2011 CAR có tăng lên nhưng sang năm 2012 vẫn bị giảm.
Nguyên nhân do tốc độ tăng trưởng vốn cấp 1 không bắt kịp với tốc độ tăng trưởng
của tổng tài sản có rủi ro. Tuy nhiên theo đánh giá của nhóm, với kế hoạch tăng vốn
điều lệ lên hơn 13.000 tỷ đồng năm 2014 thì Sacombank sẽ không gặp khó khăn trong
việc duy trì CAR ở trên mức 9% theo quy định của NHNN, nhưng có thể tỷ lệ CAR
tăng sẽ khiến cho ROE giảm nhẹ.
3.8 So sánh kết quả lợi nhuận với các đối thủ
Trong nhiều năm, Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank), Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Eximbank), Ngân hàng Kỹ thương
(Techcombank) và Ngân hàng Quân đội (MB) đã định hình top 5 ngân hàng thương
mại cổ phần (Nhà nước không nắm tỷ lệ sở hữu chi phối) hàng đầu tại Việt Nam.Sự
định hình này có cơ sở từ quy mô vốn, tổng tài sản, mạng lưới, thị phần và đặc biệt là
hiệu quả trong hoạt động.
Giai đoạn 2006 - 2011, ACB gần như khẳng định vị trí số 1 một cách tuyệt đối ở các
tiêu chí trên; Techcombank, Sacombank, Eximbank và MB bám đuổi quyết liệt;
khoảng cách so sánh giữa các thành viên không quá lớn.
Song, chỉ sau hai năm vừa qua, khác biệt về hiệu quả kinh doanh trong nhóm đã thể
hiện rõ nét. Diễn biến của sự phân hóa này cũng phản ánh được nhất định bức tranh
của hoạt động ngân hàng Việt Nam những năm gần đây.
Cho đến năm 2013, với báo cáo tài chính vừa công bố, ngoại trừ MB, Sacombank và
03 thành viên còn lại đều có sự sụt giảm so với thời kỳ trước. Một phần có yếu tố chủ
quan và đặc thù, một phần khách quan phản ánh khó khăn chung của nền kinh tế và
hoạt động ngành.
Dù đây là nhóm thể hiện khả năng kiểm soát khá tốt trong hệ thống, nhưng tỷ lệ nợ
xấu có xu hướng tăng khá mạnh hai năm gần đây. Dù giảm được nhanh ngay trong
năm 2013 từ mức 5,9%, nhưng tại Techcombank vẫn có tỷ lệ khá cao với 3,65%; kế
đến là ACB, sau nhiều năm nợ xấu mới vượt mốc 3% trong năm 2013; nợ xấu của MB
cũng tăng đáng kể, từ dưới 2% năm 2012 lên 2,45%; Eximbank cũng gặp khó khăn ở
khía cạnh này khi tăng từ 1,32% lên 1,98%; riêng Sacombank giảm được từ mức
1,89% năm 2012 xuống 1,45%.
Thời kỳ tăng trưởng nóng nói chung của các ngân hàng đã qua. So với cuối 2012, tổng
tài sản của Sacombank và MB tăng nhẹ, trong khi Eximbank giảm không đáng kể, còn
ACB vẫn cho thấy vẫn còn khó khăn còn đeo bám hay đúng hơn là thay đổi lớn trong
các trục kinh doanh (gắn với thị trường liên ngân hàng) khi tiếp tục giảm gần 5,5%. Ở
quy mô này, MB hiện là thành viên có quy mô tổng tài sản lớn nhất.
Năm 2013, MB cũng là thành viên dẫn đầu trong nhóm về lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu
chính tạo cách biệt rất lớn trong top 5 ngân hàng cổ phần hàng đầu hiện nay.
So sánh trực quan theo giá trị tuyệt đối, dù giảm nhẹ so với năm 2012, nhưng với
3.013,9 tỷ đồng tổng lợi nhuận trước thuế, MB có mức lợi nhuận lớn nhất. Kế đến là
Sacombank với và cũng là thành viên duy nhất trong nhóm hoàn thành chỉ tiêu kế
hoạch năm. Trong khi đó, ACB với mức lỗ khá lớn trong quý 4, lợi nhuận trước thuế
chỉ đạt 1.035 tỷ đồng. Techcombank vẫn chưa cho thấy sự trở lại, dự kiến lợi nhuận
tiếp tục giảm nhẹ, đạt 878 tỷ đồng. Đứng cuối và cũng là thất vọng nhất trong nhóm là
Eximbank, chỉ đạt 827 tỷ đồng.
Kết quả kinh doanh của MB vẫn cho thấy sự ổn định trong khả năng sinh lời,
Sacombank đã trở lại khả quan, ACB, Eximbank và Techcombank vẫn khó khăn trong
hoạt động kinh doanh. Có những nguyên nhân chủ quan, song kết quả kinh doanh của
ba ngân hàng trên cũng đủ để phản ánh khó khăn chung của nền kinh tế năm qua, cũng
như của nhiều thành viên trong hệ thống những năm gần đây.
Ngược lại, nếu so sánh riêng về con số giá trị tuyệt đối của lợi nhuận, năm 2013, bộ ba
trên đã có thể trở thành “đàn em” của một số thành viên ở nhóm sau, đơn cử như Ngân
hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) với 1.002 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong các so sánh, con số lợi nhuận chỉ là tương đối, tùy thuộc vào mức độ
tuân thủ hay sự sòng phẳng của mỗi nhà băng trong việc phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro.
4. Phân tích SWOT
4.1 Điểm mạnh
Mạng lưới hoạt động rộng
Với định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, trong những
năm vừa qua Sacombank chú trọng vào chính sách mở rộng mạng lưới hoạt
động.
Mạng lưới hoạt động của Sacombank từ 3 chi nhánh và 1 Hội sở lúc thành lập
đã phát triển đến gần 424 điểm giao dịch tại 48/63 tỉnh thành Việt Nam và 2
nước láng giềng Lào, Campuchia (tính đến ngày 31/12/2013). Dự kiến đến
2015, mạng lưới hoạt động của Sacombank sẽ đạt 500 điểm giao dịch.
Sacombank đã thiết lập mối quan hệ đại lý với hơn 12.300 đại lý của 328 ngân
hàng tại 82 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, để thực hiện các giao
dịch tài trợ thương mại, tài trợ dự án, thanh toán quốc tế và chuyển kiều hối.
So với các ngân hàng niêm yết khác, Sacombank có số điểm giao dịch dẫn đầu
khối NHTMCP, vượt qua VCB và chỉ đứng sau CTG. Mạng lưới hoạt động
rộng là lợi thế để ngân hàng cạnh tranh trong dài hạn, gia tăng thị phần tín
dụng, thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư đồng thời cung cấp những sản
phẩm, dịch vụ tài chính bán lẻ đến tất cả các đối tượng khách hàng.
Có lợi thế mảng Ngân hàng bán lẻ
Việc sở hữu mạng lưới rộng khắp tạo lợi thế phát triển cho mô hình Ngân
hàng bán lẻ. Trong cơ cấu khách hàng, tỷ trọng khách hàng cá nhân chiếm gần
78%, doanh nghiệp tư nhân chiếm gần 13%. Đây là nhóm khách hàng còn
nhiều tiềm năng khai thác. Do vậy chất lượng dịch vụ tốt, lợi thế mạng lưới
rộng sẽ là động lực chính để Sacombank tiếp tục tập trung đẩy mạnh huy động
tiền gửi từ nhóm khách hàng này trong tương lai.
Năng lực tài chính lớn, và thương hiệu mạnh
Sacombank không chỉ hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng mà còn mở rộng
kinh doanh sang lĩnh nhiều lĩnh vực khác. Sự đa dạng trong ngành nghề hoạt
động kinh là một thế mạnh của Sacombank.
4.2 Điểm yếu
Có định hướng đúng đắn đầu tư cho hoạt động dịch vụ nhưng hiệu quả chưa cao
Thời gian qua Sacombank đã đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và hoạt động
theo hình thức tập đoàn, tuy nhiên thu nhập chính của Sacombank vẫn từ hoạt
động tín dụng mà tập trung chủ yếu vào tín dụng cá nhân, một lĩnh vực có
mức rủi ro cao.
Sản phẩm dịch vụ của Sacombank cũng không đa dạng bằng một số ngân
hàng khác, đặc biệt là ngân hàng nước ngoài.
Trong hoạt động ngoại hối, do chưa dự báo chính xác diễn biến của thị trường
tài chính cũng như không thể lường hết diễn biến bất thường của thị trường tài
chính, dẫn đến tỉ giá ngoại tệ niêm yết chưa linh hoạt, tỉ giá mua lại ngoại tệ
thường thấp hơn các NHTM cổ phần trên địa bàn khiến cho các khách hàng
chuyển sang ngân hàng khác mở tài khoản; các nghiệp vụ phái sinh chưa ứng
dụng nhiều ở các chi nhánh do kiến thức về nghiệp vụ này còn hạn chế.
Chưa áp dụng công nghệ hiện đại trên toàn hệ thống
Năng lực công nghệ được đánh giá là một thế mạnh của Sacombank, tuy nhiên
vẫn chưa được áp dụng một cách đồng bộ trên toàn hệ thống. Ở một số chi
nhánh vẫn còn sử dụng hệ thống Smartbank thay vì hệ thống mới
Corebanking, do đó thời gian giao dịch với khách hàng còn chậm, thường
xuyên bị rớt mạng.
4.3 Cơ hội
Ngành ngân hàng bán lẻ còn nhiều tiềm năng khai thác
Thị trường ngân hàng bán lẻ Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong vài năm tới.
Với quy mô thị trường 90 triệu dân sẽ mở ra cơ hội lớn cho các ngân hàng
thương mại nói chung và Sacombank nói riêng nhằm giúp người tiêu dùng gia
tăng giá trị tài sản và quản lý tốt hoạt động kinh doanh của mình cũng như
thực hiện các hoạt động thanh toán hàng ngày.
Những lợi ích từ hội nhập kinh tế quốc tế
Việc Việt Nam là thành viên của WTO đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nói
chung và ngành ngân hàng nói riêng có những bước phát triển nhanh chóng.
Mở cửa nền kinh tế giúp các NHTM Việt Nam có nhiều cơ hội mở rộng quan
hệ hợp tác, liên doanh, liên kết với các NH nước ngoài, mở chi nhánh ở nước
ngoài.
VAMC thành lập sẽ tạo tác động tích cực đến quá trình xử lý nợ xấu.
4.4 Thách thức
Cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt.
Bên cạnh sự lớn mạnh nhanh chóng của các Ngân hàng nội địa với nhiều hình
thức (tăng vốn, sát nhập), sự tham gia của các Ngân hàng nước ngoài thông
qua quá trình gia nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã gây ra áp lực không nhỏ
cho các Ngân hàng Việt Nam nói chung, Sacombank nói riêng. Các Ngân
hàng nước ngoài có ưu thế về vốn và công nghệ đang từng bước tăng cường
sức ảnh hưởng đến thị trường.
Tỷ lệ nợ xấu gia tăng khi nền kinh tế gặp khó khăn
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì vấn đề
giải quyết nợ xấu của các ngân hàng là bài toán nan giải nhất trong ngắn hạn.
Ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế và sự đóng băng của thị trường bất động
sản đã làm các ngân hàng buộc phải kiểm soát cơ cấu nợ - cho vay, dự phòng
rủi ro.
5. Vấn đề sáp nhập Southern Bank - Sacombank
5.1 Sơ lược về hiện trạng Sacombank và Southerbank
Sacombank một trong các ngân hàng cổ phần hoạt động hiệu quả nhất, có tổng tài sản
gấp đôi, vốn gấp 3, lợi nhuận gấp 7 lần Southern Bank.
Sacombank có vốn điều lệ 12.425 tỷ đồng, nằm trong nhóm các ngân hàng lớn trong
nước. Trong khi đó, Southern Bank hoạt động với quy mô quá nhỏ, ít người biết đến,
hiện số vốn điều lệ của ngân hàng này mới đạt 4.000 tỷ đồng. Hiệu quả kinh doanh của
Southermbank trong mấy năm qua đều rất thấp. lợi nhuận trước thuế cả năm 2013 là
17,94 tỷ đồng, đạt 3,21% kế hoạch (chỉ tiêu kế hoạch năm 2013 là 560 tỷ đồng); so với
năm 2012 lợi nhuận trước thuế giảm 104,03 tỷ đồng, tương ứng giảm 85,29%.
Theo báo cáo tài chính quý 3/2013, tổng tiền gửi của khách hàng tại Southern Bank là
66.545 tỷ đồng, tuy nhiên, số tiền cho khách hàng vay chỉ có 43.367 tỷ đồng. Phần tài
sản còn lại chủ yếu nằm trong khoản phải thu là 24.995 tỷ đồng.
Điều đáng nói ngân hàng vẫn chưa trích lập bất kỳ một khoản tiền nào cho khoản phải
thu khổng lồ này. Báo cáo tài chính gần nhất cho thấy tỷ lệ nợ xấu của Southermbank
là 3,8%, tăng 25% so với cuối năm 2012.
5.2 Mặt tích cực của việc sát nhập
Nếu kịch bản sát nhập xảy ra, Sacombank mới (thương hiệu Southern Bank sẽ biến
mất) trở thành ngân hàng cổ phần có quy mô lớn nhất hệ thống NHTM với vốn điều lệ
16.500 tỷ đồng, tổng tài sản khoảng 240.000 tỷ. Như vậy, về quy mô, Sacombank chỉ
còn đứng sau 4 "ông lớn" quốc doanh Agribank, Vietinbank, Vietcombank, BIDV.
Sự thừa hưởng mạng lưới chi nhánh, uy tín thương hiệu, chất lượng quản trị, bí quyết
kinh doanh, cơ sở khách hàng cũng là điều đáng quan tâm.
Trong bối cảnh quy định mở rộng mạng lưới, chi nhánh ngày càng thắt chặt,
Sacombank hoàn toàn có thể xin NHNN đổi chi nhánh tại nơi thừa sang các khu vực,
tỉnh khác cần mở rộng mà chưa có giấy phép. Điều này rất có lợi cho một đơn vị xác
định đi theo con đường bán lẻ.
5.3 Mặt tiêu cực của việc sát nhập
Việc sát nhập này sẽ tăng thêm gánh nặng nợ xấu lên Sacombank và ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng do việc kinh doanh của Southernbank thời gian
gần đây có diễn biến không tốt.
6. Kết luận
Qua bài phân tích này chúng ta cũng phần nào hiểu rõ tình hình tài chính, khả năng
thanh toán, triển vọng phát triển của Sacombank. Số liệu phân tích cho thấy
Sacombank đã trải qua giai đoạn khó khăn và đang có những tăng trưởng ổn định,
vững chắc Bên cạnh những yếu tố tích cực, Sacombank vẫn còn hạn chế: nợ xấu vẫn
còn tiềm ẩn, mô hình quản trị, định hướng kinh doanh chưa đạt hiệu quả như mong
muốn…
Nhằm đảm bảo tiếp tục tăng trưởng ổn định và kiểm soát rủi ro, Sacombank cần tập
trung thực hiện các vấn đề sau:
Tăng cường tính minh bạch, chuyên nghiệp, chuẩn mực và tuân thủ trong các
hoạt động quản trị – điều hành – kiểm soát;
Triển khai có hiệu quả chiến lược bán lẻ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện
đại;
Tiếp tục điều chỉnh, cấu trúc hướng đến phát huy tối đa thế mạnh về mạng
lưới, công nghệ và con người;
Tăng cưởng công tác quản trị rủi ro, xử lý nợ xấu và ngăn chặn nợ quá hạn
phát sinh;
Tăng cường quy mô hoạt động và năng lực tài chính thông qua việc phát hành
thêm cổ phần, nghiên cứu khả năng sát nhập với tổ chức tài chính khác. Việc
sáp nhập trong tương lai chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến kết quả hoạt
động, nhưng những dấu hiệu tích cực của các năm trước cho thấy Sacombank
sẽ nhanh chóng ổn định và tiếp tục thực hiện chiến lược trở thành Ngân hàng
bán lẻ hàng đầu Việt Nam.