Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Tái cấu trúc hoạt động Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảm bảo ASXH, XĐGN, giải quyết việc làm, góp phần phát triển KTXH là
chủ trương lớn, là sự nghiệp mà Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm hàng đầu.
Để có thể hiện thực hóa mục tiêu đó thì nhân tố “vốn” có tính chất quyết định. Sự ra
đời của NHCSXH đã tạo cơ hội cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác
được tiếp cận với dịch vụ tín dụng NH, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống và từng bước quen dần với nền sản xuất hàng hóa.
NHCSXH đã trở thành một trong những công cụ quan trọng nhằm thực hiện
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về XĐGN và đảm bảo ASXH. NHCSXH đã
tập trung được nguồn lực tương đối lớn để phục vụ người nghèo và các đối tượng
chính sách theo quy định của Chính phủ, huy động được sức mạnh tổng hợp của
chính quyền địa phương và các hội đoàn thể tham gia, góp phần ổn định chính trị,
đảm bảo ASXH ở các địa phương, trong đó có tỉnh Sơn La vẫn phổ biến là sản xuất
nhỏ, phân tán, mang nặng dấu ấn của nền kinh tế bao cấp với CSHT lạc hậu, nền
kinh tế vẫn phải nhờ sự trợ cấp của TW là chủ yếu.
Tuy nhiên, để NHCSXH, trong đó có NHCSXH tỉnh Sơn La là một công cụ
chính, trụ cột cho công cuộc XĐGN, đủ năng lực để thực hiện tốt tín dụng CSXH
của Nhà nước, gắn liền với việc phát triển các sản phẩm dịch vụ hỗ trợ có hiệu quả
hơn cho người nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong xu thế
chung của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, NHCSXH cũng từng bước thực
hiện tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Chính vì vậy, em chọn đề tài
“Tái cấu trúc hoạt động Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Sơn La” làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản tái cấu trúc hệ thống NH
nói chung và tái cấu trúc hoạt động NHCSXH nói riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng hoat động NHCSXH tỉnh Sơn La giai đoạn 2008-
2
2012, phân tích những kết quả đã đạt được, đồng thời chỉ ra hạn chế từ đó đề xuất


các giải pháp tái cấu trúc lại hoạt động của NHCSXH tỉnh Sơn La một cách hợp lý.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tái
cấu trúc hoạt động của NHCSXH tỉnh Sơn La trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để phân tích được quá trình tái cấu trúc hoạt động NHCSXH Việt Nam nói
chung và của NHCSXH tỉnh Sơn La nói riêng. Đề tài nghiên cứu có sử dụng một số
phương pháp nghiên khoa học bao gồm: (i) Phương pháp phân tích tổng hợp: trên
cơ sở phân tích nội dung cơ bản về hoạt động của NHCSXH tỉnh Sơn La đề tài tổng
hợp lại hoạt động NHCSXH tỉnh Sơn La trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn;
(ii) Phương pháp mô tả và so sánh: dùng để mô tả hoạt động NHCSXH tỉnh Sơn La
qua các năm trên cơ sở đó đưa ra những so sánh đảm bảo nội dung phân tích; (iii)
Phương pháp logic biện chứng: được sử dụng nhằm phân tích và sâu chuỗi hoạt
động NHCSXH tỉnh Sơn La từ lý thuyết đến thực tiễn; (iv) Phương pháp thống kê:
dùng để thu thập số liệu về hoạt NHCSXH tỉnh Sơn La qua các năm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của NHCSXH tỉnh Sơn La.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của NHCSXH tỉnh Sơn La giai đoạn 2008-2012.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt, Danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung của Đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Tái cấu trúc hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội
Chương 2. Thực trạng tái cấu trúc hoạt động của Ngân hàng Chính sách
xã hội tỉnh Sơn La
Chương 3. Giải pháp tái cấu trúc hoạt động của Ngân hàng Chính sách
xã hội tỉnh Sơn La
3
CHƯƠNG 1
TÁI CẤU TRÚC HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1. Khái quát về Ngân hàng Chính sách xã hội

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Trên thế giới, nhiều quốc gia có NHCSXH, tuy nhiên nhận thức về mô hình
NH tham gia thực hiện CSXH có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: mô hình NH tham gia thực hiện CSXH phải
là một loại hình NHCS của Chính phủ được thành lập chỉ để thực hiện các chính
sách tín dụng ưu đãi dành riêng cho mục tiêu XĐGN.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Để có thể chuyển tải vốn tới các đối tượng thụ
hưởng CSXH, Chính phủ có thể thông qua hệ thống NHTM thuộc sở hữu Nhà nước
để thực hiện các chương trình tín dụng chỉ định của Chính phủ.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: Người nghèo và các đối tượng CSXH khác
không nhất thiết phải được hưởng ưu đãi về lãi suất mà điều cần thiết đối với họ
chính là được ưu đãi về các điều kiện vay vốn khác. Do đó, theo họ có thể thành lập
NHTM cổ phần để cho vay đối với người nghèo với lãi suất hoàn toàn theo cơ chế
thị trường.
Tóm lại, các quan điểm về mô hình NH tham gia thực hiện CSXH có khác
nhau và sự vận dụng chúng có hiệu quả hay không còn tuỳ thuộc vào việc chúng có
phù hợp với đặc điểm chính trị, KTXH của mỗi nước.
Trong xu thế phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, ở mỗi quốc gia
đều nảy sinh tình trạng có những ngành hàng, những khu vực kinh tế, những đối
tượng khách hàng có sức cạnh tranh kém, không đủ các điều kiện tiếp cận với dịch
vụ tín dụng của các NHTM. Ví dụ, các ngành hàng mang tính lợi ích công cộng,
vùng sâu, vùng xa địa hình khó khăn hiểm trở, bị chia cắt, điều kiện khí hậu tự
nhiên khắc nghiệt , chịu chi phí lớn, rủi ro cao, hơn nữa đòi hỏi vốn đầu tư lớn thời
gian dài, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Tuy nhiên, những ngành hàng,
4
những khu vực kinh tế và những đối tượng khách hàng này không thể bị “bỏ rơi”,
nó buộc phải có sự hỗ trợ của Chính phủ để tồn tại và phát triển bởi tính xã hội của
nó: nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế cân bằng giữa các vùng, miền, giữa các
thành phần, đảm bảo sự chênh lệch giàu nghèo không quá lớn và nhằm giải quyết

các mục tiêu chính trị - xã hội. Để giảm thiểu những mặt trái khuyết tật của cơ chế
thị trường và giải quyết các mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã sử dụng công cụ tín
dụng chính sách.
Như vậy, tín dụng chính sách là các khoản cho vay theo chỉ định của Chính
phủ. Đây là việc cho vay có tính chất phi thương mại đối với các hoạt động bán tài
chính không đòi hỏi phải đáp ứng các điều kiện tiêu chí thương mại, nhưng lại có
tác động xã hội chính trị quan trọng trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia.
Tuỳ điều kiện và nhu cầu của mỗi quốc gia, Chính phủ thiết lập các kênh tín
dụng hoặc thiết lập các NH chuyên biệt để: (i) Cho vay các khu vực kinh tế ưu tiên;
(ii) Cho vay các ngành kinh tế có tính chất chiến lược; (iii) Cho vay các công trình có
tính khả thi về tài chính nhưng đòi hỏi vốn lớn, thời gian dài (công trình CSHT,
đường xá ); (iv) Cho vay XĐGN, phát triển kinh tế nông thôn và các khu vực xã hội.
Các NH được thiết lập để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của
Chính phủ được gọi là Ngân hàng chính sách.
NHCS được chia làm 2 loại:
+ NH phát triển: Là NHCS phục vụ các chính sách phát triển.
+ NHCSXH: Là NHCS phục vụ các CSXH.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm: NHCSXH là loại hình
NH chuyên biệt được các chính phủ thiết lập nhằm cung cấp các khoản cho vay ưu
đãi đối với các đối tượng khách hàng, ngành nghề, khu vực kinh tế được đặc biệt
quan tâm.
1.1.1.2. Đặc điểm
a) Về mục tiêu hoạt động
Khách hàng của NHCSXH phần lớn là những đối tượng hầu như không đủ
điểu kiện để có thể tiếp cận được vốn tín dụng thông thường của các NHTM với các
5
tiêu chuẩn khắt khe về thủ tục, tài sản đảm bảo thế chấp…Do đó khả năng sinh lời
của NHCSXH là rất thấp, thậm chí không thể có được. Chính vì lẽ đó, NHCSXH
thường hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà là nhằm thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia trong kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước.

- Đối với khu vực kinh tế nông thôn: hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo
điều kiện được học nghề hoặc đi lao động xuất khẩu nhằm từng bước cải thiện và
ổn định cuộc sống.
- Đối với các DNV&N, các HTX, các cơ sở SXKD của người tàn tật…cho
vay để tạo việc làm nhằm giải quyết nguồn lao động dư thừa trong xã hội, tăng thu
nhập cho người dân.
- Đối với các tổ chức kinh tế, hộ SXKD thuộc những khu vực kinh tế kém
phát triển, vùng sâu, vùng xa: cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn SXKD, dịch vụ,
đầu tư phát triển và nâng cao đời sống ở những khu vực này, từ đó tạo cân đối trong
phát triển kinh tế giữa các vùng trong đất nước.
- Đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn: cho vay trang trải các chi phí học tập
trong suốt thời gian đào tạo đối với những gia đình không đủ chi phí cho con em
mình đi học.
Đây là điểm khác biệt rõ nét đối với hoạt động của NHCSXH. Hoạt động của
NHTM là kinh doanh tiền tệ; NH tồn tại và phát triển vì tạo ra một mức chênh lệch
dương giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Lợi nhuận được hình thành từ
nghiệp vụ này. Trong hoạt động của mình, các NHTM luôn quan tâm tới lợi nhuận,
tạo sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường đối với tất cả các dịch vụ mà NHTM
cung ứng. Trong khi đó, NHCSXH ngoài nguồn vốn được Chính phủ cấp thực hiện
các dự án thì NHCSXH phải đi HĐV với lãi suất thị trường để cho vay với lãi suất
ưu đãi (thường là thấp hơn so với lãi suất huy động) đối với hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác theo chỉ định của Chính phủ.
b) Về đối tượng cho vay vốn
NHCSXH thực hiện cho vay các đối tượng khách hàng, các dự án phát triển,
các đối tượng đầu tư theo chỉ định của Chính phủ. Chính vì vậy, đối tượng khách
6
hàng của NHCSXH có thể là: hộ gia đình nghèo, hộ sản xuất, DNV&N ở vùng
nghèo và các đối tượng thụ hưởng CSXH khác tùy theo quy định của Nhà nước
trong từng thời kỳ phát triển khác nhau.
Đây là những khách hàng rất ít có các điều kiện để tiếp cận với dịch vụ tín

dụng của các NHTM; là các khách hàng dễ bị tổn thương, cần có sự hỗ trợ tài chính
từ Chính phủ và cộng đồng để vươn lên tự cải thiện điều kiện sống của chính họ,
cũng như giúp cho sự phát triển của đất nước được ổn định, bền vững.
c) Về nguồn vốn
Trong khi hoạt động đặc trưng của các NHTM là huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế thì nguồn vốn
của NHCSXH lại được tạo lập chủ yếu từ NSNN theo các hình thức như:
- Cấp vốn điều lệ và hàng năm được Ngân sách Trung ương, ngân sách địa
phương cấp để thực hiện các chương trình tín dụng cho các đối tượng chính sách
theo vùng, theo đối tượng.
- Nguồn vốn ODA dành cho chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ.
- Nguồn vốn của Chính phủ vay dân dưới các hình thức phát hành trái phiếu,
công trái hoặc từ Quỹ tiết kiệm bưu điện của Chính phủ để chỉ định thực hiện
chương trình tín dụng chính sách.
- Nguồn vốn huy động trên thị trường, tuy nhiên, khối lượng nguồn vốn huy
động phụ thuộc vào khối lượng và kế hoạch cấp bù từ NSNN.
Do đặc điểm cơ cấu nguồn vốn có nguồn gốc hoặc phụ thuộc vào NSNN,
nên khối lượng nguồn vốn của NHCSXH tăng trưởng thường được xác định theo kế
hoạch được Chính phủ phê duyệt.
d) Về sử dụng vốn
Xuất phát từ đặc thù về đối tượng khách hàng vay vốn thường là những đối
tượng dễ bị tổn thương, gặp khó khăn, sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém
phát triển, ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các NHTM… nên
NHCSXH cũng có những đặc thù về sử dụng vốn, như:
- Món cho vay nhỏ, chi phí quản lý cao, đồng thời việc hoàn trả tiền vay có thể
7
thực hiện làm nhiều lần (theo tuần, tháng hoặc quí) hoặc trả một lần vào cuối kỳ hạn
vay. Tuy nhiên, hình thức hoàn trả được đánh giá cao là trả nhiều lần theo định kỳ
thường xuyên (tuần, tháng). Tần số trả tiền vay phụ thuộc vào nhu cầu của khách
hàng vay, khả năng quản lý của NH. Ưu điểm của hình thức này là: giúp khách hàng

dễ kiếm những món nhỏ để trả nợ; khi kết thúc thời hạn vay còn tài sản mua sắm
được từ vốn vay; kích thích khách hàng năng động trong việc sử dụng vốn, biết tính
toán làm ăn; hạn chế rủi ro mất vốn cho NH; vốn quay vòng nhanh nên nhiều người
sẽ được vay hơn; và đảm bảo mối quan hệ thường xuyên giữa NH và khách hàng.
- Vốn tín dụng đầu tư mang tính rủi ro cao, chẳng hạn các hộ gia đình nghèo
thiếu vốn sản xuất, chủ yếu sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi môi
trường thiên nhiên bị tàn phá, thường xuyên xảy ra bão lụt, hạn hán gây thiệt hại lớn
cho người dân về vật chất. Mặt khác, bản thân họ dân trí thấp, thiếu kiến thức làm
ăn nên trong SXKD dễ bị thua lỗ hoặc mất trắng. Vì vậy, việc sử dụng vốn tín dụng
của những khách hàng này rất dễ gặp rủi ro.
- Các quy định về đảm bảo tiền vay, các quy trình về thẩm định dự án, các
thủ tục và quy trình vay vốn, quy định mức đầu tư tối đa, thời hạn vay vốn, quy định
về trích lập và xử lý rủi ro, quy trình xử lý nghiệp vụ có những khác biệt so với các
quy định của NHTM như: do các đối tượng vay là những người có rất ít tài sản, nên
yêu cầu về tài sản thế chấp cho món vay là không thích hợp, vì vậy NH có thể sử
dụng một số hình thức thay cho tài sản thế chấp như: Nhóm liên đới (cho vay theo
nhóm, thông qua việc sử dụng nhóm là công cụ bảo lãnh cho vốn vay của các thành
viên trong nhóm đó), cho vay dựa trên uy tín và tính cách khách hàng, bảo lãnh của
bên thứ ba…trường hợp phải thế chấp chỉ áp dụng đối với một số trường hợp cho vay
nhất định; Về thời hạn cho vay cũng được xác định dựa trên chu kỳ SXKD của người
vay, khi có những rủi ro do điều kiện khách quan gây ra phần lớn NH sẽ trình Chính
phủ để xử lý theo hướng xóa, khoanh, giãn nợ tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng
của những rủi ro và nguồn NSNN có thể cấp bù.

- Thực thi các chính sách tín dụng có ưu đãi như: ưu đãi về các điều kiện vay
vốn, ưu đãi về lãi suất cho vay…thường là thấp hơn rất nhiều so với việc đi vay của
8
các NHTM. Tuy nhiên, mức lãi suất ở đây cũng phải đảm bảo cho NH có thể tự
trang trải chi phí trong quá trình hoạt động của mình, đảm bảo kinh doanh đạt được
sự bền vững. Có như thế mới có thể tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng

chính sách khác có cơ hội tiếp cận lâu dài với các dịch vụ NH.
- Không như các NHTM thường giải ngân trực tiếp cho đối tượng được vay
vốn, NHCSXH đa phần áp dụng phương thức giải ngân uỷ thác qua các tổ chức
trung gian như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị - xã hội…
Tuy nhiên, để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, hoạt động tín dụng đối
với các đối tượng chính sách cũng giống như các hoạt động cho vay khác của các
NHTM đều tuân thủ hai nguyên tắc đó là: (i) Vốn vay phải được sử dụng đúng mục
đích đã thoả thuận trong hợp đồng ký kết giữa các bên, và (ii) Các món vay phải
được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Như vậy, do đặc thù, NHCSXH có một số điểm khác biệt cơ bản với NHTM
như sau:
- NHTM lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu trong khi NHCS hoạt động có
thể không vì mục tiêu lợi nhuận.
- NHTM có thể cho vay mọi đối tượng có đủ điều kiện vay vốn mà NHTM
đặt ra trong khi NHCS chỉ cho vay một số đối tượng nhất định.
- Các NHTM hiện có đủ các nghiệp vụ: tín dụng đầu tư, chứng khoán, thanh
toán, thanh toán quốc tế, thị trường mở, thị trường liên NH, ngoại hối… NHCS
thực hiện các nghiệp vụ đó có thể không đầy đủ.
- Lãi suất cho vay của NHTM theo lãi suất thị trường, NHCH cho vay với lãi
suất do Chính phủ qui định có thể bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường.
- Các quy định về đảm bảo tiền vay, quy trình thẩm định dự án, các thủ tục
vay vốn, thời hạn vay vốn, mức cho vay tối đa, trích lập và xử lý rủi ro, quy trình
nghiệp vụ của NHCS có những khác biệt so với các quy định của NHTM tùy thuộc
vào chính sách can thiệp của Chính phủ.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Chính sách xã hội
Cũng giống như các tổ chức tín dụng khác, hoạt động chính của NHCSXH
9
bao gồm các hoạt động về HĐV, sử dụng vốn, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và
một số dịch vụ khác. Tuy nhiên, do NH có nhiệm vụ mục tiêu là cho vay hộ nghèo
và các đối tượng chính sách khác, hoạt động chính của NHCSXH là HĐV và sử

dụng vốn có đặc điểm khác với các tổ chức tín dụng khác.
1.1.2.1. Huy động vốn
Với đặc thù là một NHCS và xuất phát từ tính chất các món cho vay mà NH
cung ứng có tỷ lệ sinh lời thấp (cho vay XĐGN, tạo việc làm, phát triển vùng khó
khăn…), thời gian dài, rủi ro cao nên NHCSXH nhận được nhiều hỗ trợ từ Chính
phủ, chính quyền địa phương, NHNN và các NHTM với cam kết cung cấp vốn cho
các chương trình cho vay hiện tại của NHCSXH. Tuy nhiên, NHCSXH đã bắt đầu
HĐV tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là DN và cá nhân. Nguồn vốn của
NHCSXH bao gồm: (i) vốn từ NSNN; (ii) vốn huy động; (iii) vốn vay (vay NHNN,
vay nước ngoài); (iv) vốn nhận uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
a) Vốn do NSNN cấp. Nguồn vốn của NHCSXH được tạo lập chủ yếu từ nguồn
NSNN dưới các hình thức như:
- Cấp vốn điều lệ: Nhà nước thể hiện vai trò chủ sở hữu bằng việc cấp vốn
điều lệ cho NHCSXH. Vốn điều lệ được cấp lần đầu khi NH mới đi vào hoạt động và
có kế hoạch cấp bổ sung vào các năm tiếp theo. Nguồn vốn này, một phần được sử
dụng để hình thành nên các tài sản cố định của NH (trụ sở, phương tiện làm việc, đi
lại, thiết bị…), một phần cùng các nguồn vốn khác để thực hiện hoạt động cho vay.
- Vốn cấp hàng năm để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách: Hàng
năm, NHCSXH được tiếp nhận một lượng tiền được trích ra từ NSNN để thực hiện
các chương trình tín dụng cho các đối tượng CSXH. Nguồn vốn này ổn định, không
phải trả lãi, nhưng số lượng còn phụ thuộc vào việc phân bổ ngân sách cho việc thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia hàng năm của Nhà nước.
b) Nguồn trái phiếu Chính phủ. Đây là nguồn vốn rẻ, có thời gian sử dụng
dài. Tuy nhiên, lượng vốn huy động được không nhiều và không phải lúc nào cũng có
thể huy động được, lại phải phân chia cho nhiều mục tiêu phát triển của đất nước, nên
NHCSXH chỉ dựa vào nguồn vốn này khi mới đi vào hoạt động hoặc khi gặp khó
10
khăn trong thanh toán.
c) Vốn do ngân sách các địa phương hỗ trợ: Hàng năm, các địa phương đều
trích từ ngân sách của mình một lượng tiền nhất định chuyển cho NHCSXH để thực

hiện các chương trình tín dụng chính sách trên địa bàn. Tuy nhiên, nguồn vốn này
thường rất ít và phụ thuộc vào điều kiện riêng của từng địa phương.
d) Vốn vay lãi suất thấp
- Vốn vay ODA: Là nguồn vốn của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ
trong và ngoài nước dành cho chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ.
Nguồn vốn này có khối lượng lớn, lãi suất tương đối thấp, thời gian sử dụng dài, có
thời gian ân hạn, kèm theo chuyển giao công nghệ, chuyên gia, cung cấp thông tin
và đào tạo. Tuy vậy, nguồn vốn này thường kèm theo các điều kiện kinh tế, chính trị
mà NH không dễ thực hiện, nhiều khi những điều kiện này làm cho vốn đắt lên,
hiệu quả sử dụng thấp đi.
- Vốn vay NNNN, KBNN: NHCSXH tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các tổ chức này để vay với lãi suất ưu đãi (thường là không phải chịu lãi suất, hoặc
lãi suất rất thấp so với thị trường) phục vụ cho các chương trình cho vay của mình.
e) Nguồn vốn huy động và vay lãi suất thị trường. Để bổ sung nguồn phục vụ
cho hoạt động của mình, NHCSXH còn tiến hành huy động nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi của các cá nhân và các tổ chức trong và ngoài nước dưới các hình thức như:
- Nhận tiền gửi từ các TCTD Nhà nước: NHCSXH tập trung vận động các
TCTD Nhà nước gửi tiền vào NH dưới hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi không
hưởng lãi hoặc hưởng lãi suất hợp lý.
- Vốn huy động của tổ chức, cá nhân trên thị trường, bao gồm: tiền gửi, tiết
kiệm, đi vay các tổ chức, nhận vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng có bảo lãnh của Chính phủ…Tuy
nhiên, khối lượng nguồn vốn huy động trên thị trường của NHCSXH phụ thuộc vào
khối lượng và kế hoạch cấp bù phần chênh lệch lãi suất từ NSNN.
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Hoạt động cho vay chủ yếu của NHCSXH là cho vay theo các chương trình
11
chính sách của Nhà nước với những điều kiện ưu đãi nhất định về thủ tục, tài sản
đảm bảo, thế chấp cũng như về lãi suất thấp hơn so với các NHTM; bao gồm các
khoản cho vay để hỗ trợ chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ như cho vay:

các hộ gia đình nghèo để duy trì sản xuất và ổn định đời sống, cho vay hỗ trợ các
CSXH, giáo dục, y tế, giúp những đối tượng chính sách có cơ hội học tập, học nghề,
tạo công ăn việc làm nhằm mục tiêu XĐGN, tạo điều kiện tiền đề phát triển các
vùng kinh tế khó khăn… đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối, xã hội ổn định,
giảm khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Vì vậy, tuy các hoạt động cho vay này
không đáp ứng được các tiêu chí thương mại (thường là các khoản cho vay chỉ định
của Nhà nước, mang lại rất ít hoặc không mang lại lợi nhuận cho NH) nhưng lại có
tác dụng chính trị, xã hội rất quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia. Hoạt
động cho vay của NHCSXH chủ yếu là cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính
sách khác, bao gồm:
a) Hộ nghèo. Cho vay hộ nghèo là một trong những chương trình cho vay có dư
nợ lớn nhất của NHCSXH với mục đích cho vay ưu đãi nhằm phục vụ SXKD, cải
thiện đời sống, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN và việc
làm, ổn định xã hội.
b) HSSV có hoàn cảnh khó khăn. Với mục đích hỗ trợ một phần tài chính cho
những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đi học nhằm nâng cao nhận thức và địa vị
xã hội, góp phần xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, NHCSXH đã cho
các sinh viên đang theo học hệ chính quy tập trung tại các trường đại học, cao đẳng,
trung học dạy nghề công lập, bán công, dân lập vay vốn.
c) Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm là
CSXH cơ bản của đất nước nhằm mục tiêu phát triển bền vững vì con người, góp
phần tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp
với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, NHCSXH thực hiện cho vay đối với các đối tượng thuộc diện
chính sách, hoặc các dự án tạo việc làm mới cho các đối tượng này.
12
d) Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Với mục
đích nhằm giải quyết việc làm tăng thu nhập, nâng cao trình độ nghề nghiệp cho
người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác với các

nước trên thế giới, NHCSXH cho vay ưu đãi cho các đối tượng chính sách đi lao
động có thời hạn ở nước ngoài.
e) Hộ gia đình SXKD tại vùng khó khăn. Chính sách cho vay ưu đãi đối với
vùng khó khăn đã được triển khai từ khá lâu tại các NHTM. Tuy nhiên, do chưa có
một chính sách nhất quán và các biện pháp thống nhất trong công tác triển khai nên
kết quả đạt được còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
NHCSXH ra đời phân định giữa vốn tín dụng chính sách và vốn tín dụng
thương mại thì việc hỗ trợ về lãi suất của các NHTM đối với các hộ SXKD và các
đơn vị kinh tế ở vùng khó khăn không còn nữa, làm cho nhiều hộ gia đình SXKD
và đơn vị kinh tế rất khó khăn về tài chính. Vì vậy NHCSXH được giao trách nhiệm
triển khai thực hiện tín dụng đối với hộ gia đình SXKD tại vùng khó khăn.
f) Đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. NHCSXH thực hiện việc cho
vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn để phát triển sản
xuất, ổn định đời sống, sớm vượt qua đói nghèo.
g) Các cơ sở SXKD, dịch vụ và DN sử dụng người lao động là người sau cai
nghiện ma tuý. NHCSXH cho vay đối với các hộ gia đình, cơ sở SXKD, dịch vụ và
DN sử dụng người lao động là người sau cai nghiện ma túy tại các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án thí điểm “Tổ chức
quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện” theo Nghị quyết
số 16/2003/QH11 ngày 17/6/2003 của Quốc hội.
h) Các đối tượng khác theo chỉ định của Chính phủ: Cho vay DN làm nhà ở,
cho vay mua nhà trả chậm, cho vay NS&VSMTNT, …
Ngoài hai hoạt động cơ bản là HĐV và cho vay nói trên, NHCSXH Việt
Nam cũng cung cấp một số dịch vụ khác như: làm trung gian thanh toán, hoạt động
ngân quỹ… Tuy nhiên, vì là một NH chuyên doanh nên, các hoạt động khác của
NHCSXH kém đa dạng hơn so với các NHTM.
13
1.2. Tái cấu trúc hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội
1.2.1. Khái niệm và nội dung
1.2.1.1. Khái niệm

Phạm vi của tái cấu trúc rất rộng, được đề cập tới trên cả ba giác độ là thể chế,
thiết chế và định chế. Về thể chế, hoạt động tái cấu trúc nhằm định ra một trật tự mới
thông qua các luật, văn bản dưới luật để thực hiện quyền lực của Nhà nước đối với
các NH. Về thiết chế, đây là các quy định nội bộ, quy định các mối quan hệ “dọc
ngang”, “trên dưới” của các bộ phận cấu thành NH và được thể hiện thông qua hệ
thống điều lệ, quy chế, quy định, nội quy cũng như hệ thống quy trình, quy phạm kỹ
thuật chuyên ngành khác. Về khía cạnh định chế, tái cấu trúc được thể hiện qua việc
tách, nhập, thành lập mới, xóa bỏ các bộ phận, các công ty con, các lĩnh vực kinh
doanh nhằm hướng tới sự phù hợp và hiệu quả cao hơn.
Có thể hiểu tổng quát tái cấu trúc là tổng hợp toàn bộ sự thay đổi cả về thể
chế, thiết chế và định chế để quản lý NH theo một trật tự pháp luật chặt chẽ hơn,
minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Trong đề tài, tác giả mong muốn làm rõ hoạt động
tái cấu trúc từ góc độ định chế, và xem xét trong mối quan hệ với thể chế và thiết chế.
Thuật ngữ “tái cấu trúc” hiện nay được nhắc đến rất nhiều như một điều kì
diệu giúp NH vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, hiểu thế nào là tái cấu trúc thì lại là
một vấn đề đang được bàn luận khá nhiều.
Quan điểm thứ nhất: Tái cấu trúc gắn với sự thay đổi của CLKD, là việc áp
dụng vào điều chỉnh hướng chiến lược cũng như tầm nhìn chiến lược của NH. Từ đó
dẫn đến việc phải thay đổi cách thức quản lý tài chính và NNL cho thích hợp. Nhiệm
vụ của tái cấu trúc là xác định lại mục tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh và CLKD của NH.
Trên cơ sở đó, NH xác định các định hướng về lĩnh vực sản phẩm, thị trường và
khách hàng trong bối cảnh mới. Điều này giúp cho NH định hướng tốt về thị trường -
sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Sở dĩ phải điều chỉnh hướng
CLKD là do sự thay đổi của MTKD. Các NH nhận thấy việc tiếp tục áp dụng CLKD
hiện tại không làm tăng hiệu quả kinh doanh, chiến lược hiện tại tỏ ra không còn
thích hợp trong điều kiện mới của thị trường và môi trường.
14
Quan điểm thứ hai: Tái cấu trúc tiếp cận theo hướng cắt giảm chi phí, thích
hợp trong trường hợp kinh tế suy thoái, khủng hoảng, với mục đích là cắt giảm tới
mức tối đa có thể nhằm đạt được sự “cải thiện vận hành” ở một mảng nào đó trong

NH. Điều này thể hiện trong các trường hợp sau: (i) Quyết định cắt giảm chi phí khi
phát hiện chi phí ở một khâu nào đó phát sinh quá lớn, vượt ra khỏi sự kiểm soát của
NH; (ii) Quyết định loại bỏ, hoặc bán bớt một lĩnh vực kinh doanh để đầu tư cho lĩnh
vực kinh doanh khác trong thời điểm khó khăn, và (iii) Quyết định thu hẹp quy mô
để tồn tại qua thời kỳ suy thoái, khủng hoảng.
Quan điểm thứ ba: Tái cấu trúc tiếp cận theo hướng thay đổi, thiết lập hệ
thống tổ chức mới, nhân sự mới nhằm nâng cao hiệu quả của tổ chức. Các bộ phận
trong tổ chức hoạt động không hiệu quả cần được loại bỏ hoặc tách, sáp nhập nhằm
thống nhất trong công tác quản lý và ra quyết định. Nếu nhận thấy việc bố trí nhân
sự hiện tại là chưa phù hợp, chưa phát huy được năng lực làm việc của nhân viên,
hay chính sách nhân sự của công ty chưa thực tạo động lực cho người lao động thì
NH nên điều chỉnh, tái cơ cấu bộ máy tổ chức để tìm kiếm tính phù hợp và hiệu
quả. Như vậy quan điểm này nhấn mạnh vào cơ cấu tổ chức của NH.
Quan điểm thứ tư: Tái cấu trúc tiếp cận theo hướng thay đổi, thiết lập, sắp
xếp lại các HĐKD của NH. Bản chất là sắp xếp lại các hoạt động cốt lõi của NH để
tăng tính cạnh tranh và đảm bảo tính hiệu quả. Trong điều kiện hội nhập hiện nay,
tái cấu trúc NH hướng tới việc thay đổi các tư duy trong quản lý, tái cấu trúc lại các
HĐKD phù hợp với định hướng kinh doanh của NH.
Xuất phát từ các quan niệm trên, ta thấy tái cấu trúc có nhiều cách hiểu khác
nhau theo từng cách tiếp cận khác nhau. Có thể đưa ra một quan điểm chung như
sau: Tái cấu trúc NH là quá trình thay đổi định hướng CLKD; thiết lập lại hoặc
hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ cấu nguồn lực; cắt giảm các lĩnh vực hoạt
động SXKD; thiết kế lại các HĐKD trong NH nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong
điều kiện MTKD luôn biến động.
1.2.1.2. Nội dung của tái cấu trúc
Tái cấu trúc có thể được đề cập đến toàn bộ các mảng hoạt động của NH. Việc
15
thay đổi, điều chỉnh, sắp xếp lại các hoạt động trong NH nhằm hướng tới hiệu quả
cao hơn. Và nội dung của tái cấu trúc đề cập đến việc tái cấu trúc cơ cấu tổ chức; tái
cấu trúc HĐKD; tái cấu trúc tài chính; và tái cấu trúc các hoạt động khác.

a) Tái cấu trúc cơ cấu tổ chức
Tái cấu trúc cơ cấu tổ chức là việc tạo ra những thay đổi căn bản về cơ cấu tổ
chức của NH nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Theo cách hiểu đơn giản nhất, tái cấu trúc cơ cấu tổ chức chính là việc xây dựng
lại sơ đồ cơ cấu tổ chức, thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới.
Theo cách hiểu rộng hơn, tái cấu trúc cơ cấu tổ chức là sự thay đổi, sắp xếp
lại cơ cấu bộ máy quản lý của NH để đạt được hiệu quả trong kinh doanh. Nó
không chỉ là gắn với sự thay đổi các phòng ban đơn thuần, mà phải thay đổi sắp xếp
phương thức thực hiện công việc, phương thức phối hợp công việc của cơ cấu tổ
chức mới. Cách tiếp cận này đứng trên giác độ định chế và thiết chế.
Và theo quan điểm hiện nay, trên cơ sở gắn với xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế thì những thay đổi, điều chỉnh khi NH có khó khăn chỉ là xu hướng tạm thời
để “chữa bệnh”, chứ chưa có tác dụng “phòng bệnh”. Vì vậy, quan điểm trong điều
kiện hiện nay là tái cấu trúc cơ cấu tổ chức cần phải gắn với việc thay đổi HĐKD
hướng tới phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
Việc tái cấu trúc cơ cấu tổ chức tập trung vào các hoạt động như đổi mới, sắp
xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị và cơ cấu tổ chức bộ máy sản xuất. Tái cấu
trúc cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị được thực hiện với việc xây dựng lại toàn bộ sơ
đồ cơ cấu tổ chức, thậm chí thay đổi bề mặt, thay tên gọi các phòng ban chức năng,
nhằm hướng tới một cơ cầu tổ chức mới có hiệu quả kinh doanh cao hơn. Tái cấu
trúc cơ cấu tổ chức bộ máy sản xuất liên quan đến việc thay đổi, sắp xếp lại hệ
thống sản xuất một cách khoa học, đem lại hiệu quả cao trong phối hợp thực hiện.
b) Tái cấu trúc HĐKD
Tái cấu trúc HĐKD
là sự đánh giá và thiết kế lại hoạt động SXKD
của NH
để đạt được hiệu quả cao hơn. Nó
được xây dựng dựa trên giả thuyết:
cách tư duy và
tổ chức công việc của các NH ngày nay đã không còn phù hợp với những đòi hỏi

16
của thực tiễn.
Nội dung của tái cấu trúc HĐKD thường bắt đầu bằng
một số phân
tích cơ bản về cấu trúc tổ chức NH, các cơ chế kiểm
soát, việc đánh giá văn hóa
DN và làm rõ các vấn đề liên quan đến
chiến lược, hoạt động kin doanh, công
nghệ và con người.
Tái cấu trúc HĐKD tập trung vào việc thiết kế mô hình HĐKD mới, có tính
sáng tạo và đem lại hiệu quả cao hơn trước trên cơ sở mục tiêu hướng tới phục vụ
khách hàng. Do vậy, yêu cầu của việc thay đổi các HĐKD phải xuất phát từ phía
khách hàng chứ không phải từ nội bộ NH.
Quy trình tái cấu trúc HĐKD không quan tâm đến cơ cấu tổ chức và các thủ tục
mà NH đã
dày công gây dựng trước đó mà sẽ làm mới một cách triệt để. Hoạt động
này
thường được thực hiện trên cơ sở CLKD của NH thay đổi. Tái cấu trúc HĐKD
sẽ là nền tảng và điểm xuất phát để
tái cấu trúc các hoạt động khác trong NH như
tái cấu trúc cơ cấu tổ chức
NH.
c) Tái cấu trúc tài chính
Tái cấu trúc tài chính là việc điều chỉnh nguồn tài chính trong NH, huy động
và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Khi thực hiện tốt việc tái cấu trúc tài chính, sắp
xếp lại tài sản và các khoản nợ phải trả của NH có thể giúp NH duy trì khả năng cạnh
tranh ngay cả trong điều kiện kinh tế khó khăn. Một số trường hợp điển hình dẫn đến
nhu cầu tái cấu trúc tài chính có thể thấy như: (i) Tái cấu trúc tài chính để duy trì hoạt
động của NH; (ii) Tái cấu trúc tài chính để cắt giảm chi phí và tăng lợi nhuận; và (iii)
Tái cấu trúc tài chính để vượt qua khó khăn.

d) Tái cấu trúc các hoạt động khác
Tái cấu trúc các hoạt động khác quan tâm đến tính hệ thống và chuyên
nghiệp trong phương thức thực hiện công việc, phối hợp công việc và điều hành
công việc. Tái cấu trúc thường quan tâm đến việc xem xét các hệ thống lập kế
hoạch kinh doanh, hệ thống quản trị chuỗi cung ứng, quản trị thông tin, hệ thống
quản trị nhân lực, hệ thống quản trị tài chính và quản trị quan hệ khách hàng
Các nội dung trên của tái cấu trúc NH có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tái
cấu trúc HĐKD là cơ sở để tái cấu trúc cơ cấu tổ chức của NH, còn tái cấu trúc tài
17
chính và các hoạt động khác ảnh hưởng đến quá trình tái cấu trúc cơ cấu tổ chức
trong mối liên hệ tài chính. Trong điều kiện hiện nay, do áp lực từ phía bên trong và
bên ngoài để thích ứng với điều kiện thay đổi của MTKD, các NH cần phải tiến hành
tái cấu trúc để phù hợp với xu hướng quốc tế hóa, ứng dụng các mô hình kinh doanh
của các NH trên thế giới. Tuy nhiên, tái cấu trúc đòi hỏi các NH phải thay đổi tư duy
quản lý, cải cách về quản lý, tái cấu trúc lại HĐKD, trên cơ sở đó định hình mô hình
và cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và định hướng kinh doanh của mình.
1.2.2. Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh
Mục tiêu của các NH hiện nay là hướng tới kinh doanh có lợi nhuận, tăng
trưởng và phát triển. Để đạt được các mục tiêu đó, trong các NH luôn tồn tại các quá
trình, và thông qua các quá trình này để đạt được mục tiêu của mình. HĐKD trong
NH bao gồm nhiều hoạt động được thiết kế để sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu
khách hàng và thị trường, đó là sự kết nối giữa con người, công nghệ, nguyên liệu,
các phương pháp và môi trường để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Nó được chia thành
ba loại, đó là các hoạt động cốt lõi, các hoạt động hỗ trợ và các hoạt động quản trị.
Thứ nhất, các hoạt động cốt lõi. Các hoạt động cốt lõi tập trung vào việc
thỏa mãn khách hàng bên ngoài. Các hoạt động này sẽ trực tiếp tạo ra giá trị từ các
khách hàng của NH, đáp ứng yêu cầu và thỏa mãn khách hàng. Thuật ngữ “cốt lõi”
(core) được sử dụng để phân biệt các hoạt động thiết yếu tạo ra sự thành công của
một tổ chức. Hoạt động cốt lõi trong NH được coi là một vũ khí chiến lược để đạt

được mục tiêu của tổ chức và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai, hoạt động hỗ trợ. Hoạt động này được xác định như các hoạt động
chức năng và chúng có mối liên hệ với nhau thông qua hoạt động cốt lõi. Hoạt động
hỗ trợ tập trung vào việc thỏa mãn các khách hàng từ phía trong, tạo ra giá trị gián
tiếp thông qua việc hỗ trợ các hoạt động cốt lõi hay tạo ra giá trị trực tiếp bằng cách
cung cấp môi trường làm việc thích hợp.
Thứ ba, các hoạt động quản trị. Hoạt động quản trị liên quan đến việc quản
lý, điều hành hai hoạt động cốt lõi và hoạt động hỗ trợ.
18
Các hoạt động này hỗ trợ lẫn nhau nhằm thực hiện công việc một cách có
hiệu quả nhất, đạt được mục tiêu của NH. Điều quan trọng nhất là phải xác định
được hoạt động “cốt lõi” của NH. Đây là một yếu tố tạo lợi thế cạnh tranh đồng thời
là cơ sở để thiết kế cơ cấu tổ chức quản trị của NH. Hoạt động cốt lõi được đề cập
đến như một “vũ khí” có tính chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức,
đồng thời nó cũng tác động đến việc hình thành các hoạt động hỗ trợ trong NH. Một
NH có thể có một hoặc nhiều hoạt động cốt lõi tùy thuộc vào quy mô và lĩnh vực
kinh doanh của NH. Thông thường, với những NH quy mô nhỏ thì chỉ có một đến
hai quá trình cốt lõi, nhưng với các NH lớn, đặc biệt với các NH có quy mô kinh
doanh toàn cầu thì sẽ có nhiều hơn.
1.2.2.2. Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
Đầu những năm 90 của Thế kỷ XX, khái niệm “Tái cấu trúc quá trình kinh
doanh” (Business Process Re-engineering - BPR) đã bắt đầu được quan tâm và
được xem như là thành quả của những nỗ lực tìm kiếm và giải quyết vấn đề cải tổ
HĐKD của NH. Tại thời điểm này, mặc dù ý tưởng về tái cấu trúc HĐKD đã được
hoàn thiện qua nhiều học thuyết, nhưng việc áp dụng vào thực tế để cải tổ NH thì
chưa nhiều và mới chỉ đem lại thành công cho một số ít NH được coi là mạo hiểm.
Nguyên nhân của vấn đề này là sự tồn tại của các quan niệm bảo thủ cho rằng vấn
đề quan trọng là nên để cho nhân viên làm việc trong môi trường ổn định, còn việc
cải tổ NH là chưa cần thiết vì khi nào có vấn đề thì tự nó sẽ phải điều chỉnh.
Khái niệm về “Tái cấu trúc HĐKD” được nhắc tới lần đầu tiên trong tạp chí

Harvard Business Review bởi Michael Hammer, giáo sư khoa học máy tính của học
viện MIT, nhằm nhấn mạnh sự cần thiết phải thay đổi nền tảng lý thuyết tổ chức NH.
Theo ông, “Tái cấu trúc HĐKD là sự đánh giá lại một cách cơ bản và thiết kế lại tận
gốc rễ qui trình hoạt động SXKD để đạt được sự cải thiện vượt bậc đối với các chỉ
tiêu cốt yếu, có tính nhất thời như chi phí, chất lượng, dịch vụ và hiệu năng”.
Nội dung của tái cấu trúc HĐKD thường bắt đầu bằng một số phân tích cơ
bản về cấu trúc tổ chức NH, các cơ chế kiểm soát, việc đánh giá văn hóa NH và làm
rõ các vấn đề liên quan đến chiến lược, HĐKD, công nghệ và con người. Trong các
19
vấn đề đó thì chiến lược và HĐKD thường được ưu tiên xây dựng trước để xác định
khung, trục xương sống chính để rồi mới có thể triển khai các ứng dụng công nghệ
và tổ chức lại cơ cấu nhân sự cho toàn NH. Tuy nhiên, vấn đề thay đổi tổ chức khi
tái cấu trúc HĐKD sẽ tác động lớn nhất đối với đội ngũ nhân viên trong NH, có thể
làm hàng ngàn nhân viên bị sa thải; có thể phá tan cơ cấu một phòng ban do tiến
hành phương thức làm việc mới.
Việc tái cấu trúc HĐKD tập trung vào việc thiết kế mô hình hoạt động mới, có
tính sáng tạo và đem lại hiệu quả cao hơn trước trên cơ sở mục tiêu hướng tới phục
vụ khách hàng. Do vậy, yêu cầu của việc thay đổi các HĐKD phải xuất phát từ phía
khách hàng chứ không từ nội bộ NH. Thiết kế hoạt động mới trên cơ sở từ bỏ tư duy
chuyên môn hóa quá sâu từng công việc đơn lẻ.
Có ba nhóm nhân tố chính trong hoạt động tái cấu trúc HĐKD, đó là nhóm
yếu tố nền tảng, nhóm yếu tố của hoạt động, và nhóm yếu tố kết quả.
Thứ nhất, nhóm yếu tố nền tảng bao gồm chính sách sản xuất và kinh doanh;
bản phân tích chuỗi quá trình và dòng sản phẩm được lựa chọn; hoạt động/sản phẩm
hiện tại. Chính sách định hướng cho tổ chức và hướng dẫn thực hiện các hoạt động
sản xuất và các HĐKD của NH. Đây chính là yếu tố nền tảng tạo ra sự thay đổi
trong tổ chức. Sự thay đổi CLKD, chính sách có tính xác định mô hình khung hoạt
động cho NH và từ đó, hình thành bảng phân tích chuỗi hoạt động và dòng sản
phẩm được lựa chọn để chỉ ra những hạn chế bên trong của HĐKD, đồng thời hình
thành hoạt động/ sản phẩm hiện tại của NH.

Thứ hai, nhóm yếu tố của hoạt động bao gồm những đặc điểm liên quan đến cơ
cấu tổ chức, đến các hoạt động như hậu cần, kế toán, bán hàng,… và các vấn đề quản
trị. Đây chính là những điều chỉnh, những thay đổi theo khung đã được xác định theo
các yếu tố nền tảng nhằm tạo ra sự thay đổi đồng bộ trong hoạt động của một NH.
Thứ ba, nhóm yếu tố kết quả chỉ ra những kết quả chủ yếu trong việc đổi mới
hoạt động, đó là những hoạt động được hoàn thiện hay những hoạt động mới được
hình thành nhằm tiếp cận với các cơ hội bên ngoài. Và hoạt động/ sản phẩm hiện tại
ở trên đã được hoàn thiện hơn.
20
1.2.2.3. Sự cần thiết tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
Tái cấu trúc HĐKD được xây dựng dựa trên giả thuyết: cách tư duy và tổ
chức công việc của các NH ngày nay đã không còn phù hợp với những đòi hỏi thực
tiễn. Điều này thể hiện ở:
Thứ nhất, tư duy và cách làm việc cũ được thiết kế để thực hiện một cách
đơn lẻ thủ công, và sau đó đã được “dây chuyền hoá” hay “tự động hoá” một phần
nhờ những tiến bộ của công nghệ. Tuy nhiên, các hoạt động này thường không
được áp dụng triệt để do đó chưa đem lại những cải thiện rõ rệt, đồng thời, nó còn
tạo ra nhiều sự chồng chéo, phân mảnh công việc.
Thứ hai, nguyên tắc phân chia nhỏ công việc, chuyên môn hóa ở mức cao rất cần
thiết, làm cơ sở xây dựng các NH trong hơn thế kỷ qua nay lại đang cản trở hoạt động
của NH. Chuyên môn hóa là một trong các yêu cầu của hoạt động tổ chức sản xuất trong
NH. Chuyên môn hóa càng thấp thì năng suất lao động thấp và ngược lại, mức độ
chuyên môn hóa càng cao thì năng suất lao động cao. Tuy nhiên, trong điều kiện MTKD
biến động hiện nay thì nếu chuyên môn hóa quá sâu sẽ dẫn đến sự thích ứng thấp với sự
thay đổi của công việc, của sản phẩm và làm chia cắt các hoạt động trong NH. Do vậy,
việc tái cấu trúc HĐKD là cần thiết đối với các NH để hạn chế cái hại do chuyên môn
hóa gây ra, nhưng vẫn đảm bảo được sự linh hoạt trong HĐKD của NH.
Thứ ba, quan điểm tổ chức theo hoạt động của NH đã đem lại nhiều lợi ích,
giúp cho NH hướng tới khách hàng nhiều hơn, phục vụ khách hàng tốt hơn.
Mô hình tổ chức của NH được hình thành các hoạt động và các hoạt động hỗ

trợ. Trong mô hình này, chúng ta thấy được chuỗi cung cấp - khách hàng trong sản
phẩm, dịch vụ được phân phối tới người tiêu dùng. Công việc kinh doanh được mô
tả như một mạng lưới các hoạt động và đã khắc phục được những điểm yếu trong
mô hình tổ chức truyền thống, đó là việc xây dựng và ra quyết định thuộc về cấp
trên, đỉnh của mô hình.
Thứ tư, trong một nghiên cứu của Robert Half Management thực hiện năm
2007, việc cải tiến các HĐKD là ưu tiên hàng đầu mà họ cần thực hiện trong các năm
tới. Và công cụ BPM (Quản trị quá trình KD - Business Process Management) là
21
công cụ hữu ích cho yêu cầu cải tiến này.
Xét về mặt quản lý, BPM là cách tiếp cận có hệ thống nhằm giúp các tổ
chức/NH tiêu chuẩn hóa và tối ưu hóa các hoạt động với mục đích giảm chi phí, tăng
chất lượng hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu cần thiết. Về mặt công nghệ, BPM là
một bộ công cụ giúp các tổ chức/NH thiết kế, mô hình hóa, triển khai, giám sát, vận
hành và cải tiến các HĐKD một cách linh hoạt. Nghiên cứu này cho thấy, đây cũng là
một mục tiêu đổi mới theo xu hướng chung của các NH trong những năm tới.
Tóm lại, việc tái cấu trúc HĐKD là cần thiết, xuất phát từ nhu cầu thực tế của
các NH nhằm cải thiện, đổi mới HĐKD, đáp ứng nhu cầu thay đổi liên tục trong
MTKD luôn biến động.
1.2.2.4. Các cơ sở để tái cấu trúc hoạt động kinh doanh
Thứ nhất, mục tiêu chiến lược và định hướng phát triển của NH. CLKD xác
định hướng đi cho NH trong dài hạn, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của NH.
Chính vì vậy, CLKD tác động rất lớn đến HĐKD của NH. MTKD thay đổi đã làm
thay đổi CLKD, thay đổi mục tiêu của NH. Khi có sự thay đổi của chiến lược thì
HĐKD cũng thay đổi. Nếu chiến lược và các HĐKD phù hợp với nhau sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược, nếu không sẽ trở thành một cản trở đối
với quá trình triển khai thực hiện chiến lược. Như vậy, CLKD ảnh hưởng rất lớn
đến HĐKD của NH, việc tái cấu trúc HĐKD phải được xem xét với định hướng
chiến lược trong dài hạn.
Thứ hai, đặc điểm của các HĐKD hiện tại trong NH. Đây là cơ sở để thiết kế

lại các HĐKD mới cho NH nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao hơn. Trong điều kiện
MTKD thay đổi như hiện nay thì việc các NH phải xây dựng, điều chỉnh CLKD là
điều cần thiết và thể hiện sự chủ động của các NH trong dự báo môi trường. Một
trong những cơ sở để xây dựng CLKD có hiệu quả là hình thành các HĐKD trong
NH. Như vậy, HĐKD hiện tại là cơ sở để NH tiến hành tái cấu trúc HĐKD.
Thứ ba, đặc điểm cơ cấu tổ chức hiện tại và NNL của NH. Mô hình hiện tại
mà các NH đang áp dụng là mô hình phân cấp tổ chức và có tính liên kết, ổn định
rất cao, khó phá vỡ, phù hợp với điều kiện môi trường tương đối ổn định. Nhưng
22
trong xu thế phát triển hiện nay thì tính linh hoạt trong mô hình tổ chức lại là một
ưu thế, bởi nó thích ứng được với sự thay đổi trong kinh doanh, đặc biệt là hướng
tới việc hình thành chuỗi giá trị toàn cầu. Như vậy, mô hình tổ chức hiện tại với
những bất ổn của nó đã ảnh hưởng tới HĐKD của NH.
Tái cấu trúc HĐKD của NH là một trong những nội dung của quản trị sự
thay đổi. Một trong những lực lượng thúc đẩy sự thay đổi lại chính là lực lượng lao
động trong NH. Đội ngũ lao động trong NH là một nhân tố vừa thúc đẩy, vừa kìm
hãm tái cấu trúc HĐKD của NH. Vì vậy, có thể nói lực lượng lao động có vai trò rất
quan trọng trong quá trình tái cấu trúc HĐKD của NH.
Thứ tư, đặc điểm cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những vấn đề mà nhiều
NH quan tâm hiện nay. Các NH luôn muốn tạo được lợi thế cạnh tranh để nâng cao
hình ảnh, thương hiệu của NH mình trong mắt khách hàng so với các NH khác. Mục
đích của các NH là làm thế nào để thỏa mãn được nhu cầu và làm hài lòng khách
hàng. Do vậy mà NH thường cạnh tranh nhau về sản phẩm, giá cả, chất lượng, cũng
như các dịch vụ đi kèm. Đối tượng mà NH hướng tới đó là khách hàng, hiểu được
nhu cầu khách hàng và đáp ứng tốt nhất nhu cầu đó. Làm được như vậy là các NH đã
có lợi thế trong kinh doanh. Xuất phát từ mục đích này, mà nhiều NH đã đổi mới
HĐKD, xây dựng các HĐKD hướng tới từng đối tượng khách hàng. Việc hình thành
các hoạt động “cốt lõi” và các hoạt động “hỗ trợ” nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho
NH, để hướng tới khách hàng một cách tốt nhất.
Thứ năm, quan điểm hội nhập và toàn cầu hóa. Đặc điểm của xu thế hội

nhập và toàn cầu hóa ngày nay tác động đến HĐKD của các NH. NH cần có bước
chuyển mình, thay đổi quy trình kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu chiến lược
của NH, nếu không kịp thời tái cấu trúc HĐKD, NH sẽ có nguy cơ bị tụt hậu.
1.3. Điều kiện tái cấu trúc hoạt động của Ngân hàng
Chính sách xã hội
Hoạt động tái cấu trúc của NHCSXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố, tuy nhiên có
thể phân thành nhóm những nhân tố chủ quan và nhóm những nhân tố khách quan.
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
23
1.3.1.1. Mô hình tổ chức và năng lực quản trị điều hành của lãnh đạo
Ngân hàng chính sách xã hội
- Mô hình tổ chức có ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động của NHCSXH.
Mô hình tổ chức ở đây được hiểu là sự tổ chức các hệ thống mạng lưới chi nhánh
của NH trên các địa bàn khác nhau, là sự phân chia các cấp bậc quản lý, sự phân
chia các phòng ban với các chức năng khác nhau và sự bố trí NNL, vật lực trong
hoạt động của NHCSXH. NH được tổ chức một cách khoa học không chỉ đảm bảo
được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của các phòng ban, giữa các NH với nhau
trong cùng hệ thống, mà còn đảm bảo được mối quan hệ giữa NH với các cơ quan
liên quan khác. Do đó, nó tạo điều kiện để NH đáp ứng kịp thời tất các yêu cầu tín
dụng của khách hàng, quản lý có hiệu quả vốn tín dụng, từ đó nâng cao chất lượng
tín dụng.
Nếu NH phân chia các phòng ban hợp lý sẽ đơn giản trong việc luân chuyển
công việc giữa các phòng ban, tiết kiệm chi phí trong công tác quản lý. Khi phát
hiện ra sai sót ở bất kỳ khâu tín dụng nào cũng dễ dàng điều tra, quy trách nhiệm cụ
thể đến từng đối tượng để xử lý. Điều này là động lực để nhân viên NH có trách
nhiệm hoàn thành tốt hơn công việc của mình, phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách
hàng. Các NNL, vật lực được phân phối đều đặn giữa các chi nhánh, khoa học và
phù hợp với nhiệm vụ và chức năng từng bộ phận, tức là mỗi một công việc phát
sinh hay mỗi một bước của quy trình tín dụng đã được quy định và phân công xử lý
đến từng phòng ban, từng cá nhân. Nhờ vậy, NH phát huy được hết những tiềm lực

sẵn có, nâng cao hiệu quả xử lý mỗi công việc. Mỗi hợp đồng tín dụng sẽ được xử
lý nhanh chóng, đúng quy định và tránh được khả năng sai sót. Khi khách hàng đưa
ra bất kỳ yêu cầu tín dụng nào hoặc có thắc mắc gì cần giải đáp, NH sẽ xem xét và
đưa yêu cầu của khách hàng đến đúng bộ phận, đúng đối tượng để hướng dẫn và xử
lý. Việc này tiết kiệm được thời gian cho cả khách hàng và NH. Nhờ đó, hiệu quả
công việc và chất lượng phục vụ khách hàng được nâng cao. Mặt khác, các đối
tượng chính sách thường sinh sống tại địa bàn vùng sâu vùng xa, khả năng nhận
thức và nắm bắt thông tin thường kém, vì vậy việc bố trí mạng lưới hoạt động là vô
24
cùng quan trọng. Mạng lưới của NHCSXH phải đáp ứng được về chiều rộng và
chiều sâu, tức là nơi nào có nhu cầu tín dụng ưu đãi thì cần có NHCSXH hoạt động
và hoạt động phải thực tế và có hiệu quả thật sự. Có như vậy thì nguồn vốn của
NHCSXH mới được phổ biến rộng khắp đến bất kỳ đối tượng nào được vay vốn.
Khi đó, NHCSXH có thể hoàn thành và đạt mục tiêu đề ra là đưa vốn tín dụng ưu
đãi đến được với tất cả những người nghèo và các đối tượng chính sách nhằm từng
bước giúp họ thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, việc bố trí mạng lưới
rộng khắp, bố trí NNL lớn đồng nghĩa với việc chi phí quản lý và vận hành tăng lên,
nhưng nếu không bố trí rộng khắp thì khó kiểm soát và nắm bắt được hết nguồn vốn
và nhu cầu vay vốn khiến chất lượng tín dụng sẽ giảm. Do đó, đây là một vấn đề mà
các NHCSXH cần xem xét rất kỹ lưỡng khi mở rộng mạng lưới hoạt động hay tổ
chức sắp xếp nhân sự.
Mô hình tổ chức mạng lưới rộng khắp là một trong những yếu tố thúc đẩy sự
phát triển của NHCSXH. Bởi vì, đối tượng phục vụ chính của NHCSXH là các hộ
gia đình nghèo, đối tượng chính sách, lao động chưa có việc làm hay muốn mở rộng
mô hình SXKD, mà các đối tượng này lại chủ yếu nằm ở các vùng nông thôn, đặc
biệt là các vùng sâu vùng xa, vùng núi cao, hải đảo cho nên mạng lưới của
NHCSXH phải được thiết lập sao cho phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi nhất phục
vụ cho các đối tượng đó.
- Năng lực quản trị điều hành có vai trò vô cùng quan trọng trong quản lý
NH nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Năng lực quản trị điều hành tốt sẽ có

phương pháp quản lý tốt và hạn chế những rủi ro có thể phát sinh, đảm bảo cho hoạt
động của NH luôn ổn định và phát triển. Để có thể đáp ứng kịp thời các nhu cầu và
có hiệu quả các yêu cầu cao trong họat động của NH thì việc tuyển chọn NNL trong
quản trị và điều hành là yếu tố quan trọng hàng đầu. Năng lực quản trị và điều hành
tốt sẽ tạo được thành công cho hoạt động của NH.
- Năng lực quản trị và điều hành là yếu tố thuộc về các cấp lãnh đạo của NH.
Năng lực quản trị điều hành ảnh hưởng trực tiếp tới phương thức hoạt động, chiến
lược hoạt động, cách tổ chức vận hành các hoạt động của cả NH. Nếu các cấp lãnh
25
đạo của NH nói chung có năng lực tốt, có khả năng điều hành, quản lý nhân viên,
đưa ra các chiến lược hoạt động khoa học, quản lý và kiểm soát tốt tất cả các hoạt
động của từng bộ phận sẽ giúp cho hoạt động của NH thông suốt, trơn tru, hiệu quả.
Hơn nữa, việc đưa ra phương thức hoạt động cũng như quy trình hoạt động tuần tự,
dễ hiểu, đầy đủ và chặt sẽ giúp NH quản lý tốt tín dụng ở tất cả các khâu từ cho vay,
đến giám sát sử dụng tiền vay, thu tiền vay. Từ đây, NH tránh được rủi ro xảy ra,
tránh thất thoát vốn, đảm bảo trạng thái hoạt động ổn định và phát triển.
Một ban lãnh đạo có năng lực quản trị, điều hành sẽ biết cách tạo động lực
làm việc và tạo môi trường tốt nhất cho mỗi cán bộ nhân viên, thể hiện năng lực của
mình, có chính sách thưởng phạt công bằng cho công sức của người lao động. Từ
đó sẽ tạo ra môi trường hoạt động lành mạnh trong NH, giúp mỗi hoạt động của NH
đều được mỗi nhân viên phấn đấu hoàn thành tốt nhất có thể. Vì thế, chất lượng tín
dụng cũng như chất lượng phục vụ khách hàng được đảm bảo. Ngược lại, nếu sự
quản lý và điều hành của Ban Giám đốc kém hiệu quả sẽ dẫn đến tác phong, lề nối
làm việc, tinh thần và thái độ làm việc của nhân viên sẽ cứng nhắc, chậm chạp, ỷ
nại, thiếu đi sự sáng tạo và tính trách nhiệm trong công việc. Điều này đồng nghĩa
với chất lượng tín dụng sẽ yếu kém.
1.3.1.2. Nhận thức về sự phát triển và chiến lược hoạt động của Ngân
hàng chính sách xã hội
- Chiến lược phát triển là phương châm và kế hoạch có tính chất toàn cục,
xác định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp, tổ chức lực lượng trong một giai đoạn

nhất định của NHCSXH nhằm mục tiêu phát triển. Đây là nhân tố ảnh hưởng quan
trọng tới chất lượng, hiệu quả các hoạt động của NHCSXH, đòi hỏi NHCSXH phải
nghiên cứu, hoạch định một cách khoa học chiến lược phát triển của mình, từ đó
đưa ra các phương án thích hợp để hướng tới các đối tượng khách hàng của mình
trong ngắn hạn cũng như trung, dài hạn để nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Hoạt động của NHCSXH phát triển đến mức nào và theo lộ trình nào phụ
thuộc hoàn toàn vào nhận thức của Ban lãnh đạo và toàn bộ nhân viên trong ngân
hàng đó. Để phát triển theo hướng bền vững về hoạt động và tài chính thì hoạt động

×