Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Quá trình khẳng định vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.22 KB, 17 trang )

PHẦN I
Lời nói đầu
Ở Việt nam, kinh tế gia đình đã trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử. Kinh tế
hộ gia đình đã từng có quyền tự chủ ở thời kỳ khôi phục kinh tế. Nhưng sau đó nó chóng
hoà tan vào kinh tế hợp tác xã. Khi mà kinh tế hợp tác xã không còn mang lại hiệu quả
cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, thì vấn đề tự chủ trong kinh tế hộ gia đình
lại được Đảng và Nhà nước ta chó ý đến như một hình thức kinh tế chiến lược để thúc
đẩy nền kinh tế đất nước phát triển đi lên.
Từ cuối năm 70, đầu những năm 80, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính
sách khuyến khích kinh tế hộ phát triển. Tuy nhiên những chính sách thời kỳ này vẫn
chưa có những thay đổi lớn để thúc đẩy kinh tế hộ phát triển. Thời kỳ sau, nhiều chính
sách đổi mới trong kinh tế của Đảng và Nhà nước được đề ra, kinh tế hé gia đình đã có
được những chính sách đúng đắn để phát triển.
Từ khi có những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế hộ gia
đình, thì kinh tế hộ đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong chương trình
phát triển kinh tế của đất nước. Việc tìm hiểu "Quá trình khẳng định vai trò tự chủ của
kinh tế hộ gia đình " Trong bài viết này sẽ làm nổi bật hơn vấn đề được nêu trên.
PHẦN II
NỘI DUNG
QUÁ TRÌNH KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ TỰ CHỦ
1
CỦA KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
* * * * * * * * * *
I- VAI TRÒ TỰ CHỦ CỦA KINH TẾ HỘ BƯỚC ĐẦU ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH NHỜ CHÍNH
SÁCH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
THỜI KỲ 1981- 1987:
1- Sự hình thành cơ chế khoán mới trong nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị
100/ CT- TW của Ban Bí thư Trung ương:
Trước sự khủng hoảng của mô hình quản lý và sự giảm sút của tình hình sản xuất
nông nghiệp, một số tổ chức Đảng và quần chúng đã tự tìm kiếm cách làm mới. Từ đầu
năm 1975 ở một số nơi đã xuất hiện một số hình thức khoán đến hộ gia đình hoặc cho xã


viên mượn đất, khuyến khích xã viên khai hoang phục hoà đất đai.
Tháng 8 năm 1979, Ban chấp hành TW khoá IV đã họp Hội nghị lần thứ 6 để
nhận định tình hình trước đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, Hội nghị đã ra Nghị quyết về
những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách. Nội dung của Nghị quyết khẳng định một số tư
duy chưa cơ bản toàn diện nhưng đánh dấu một sự khởi đầu của quá trình đổi mới.
Trong đó tư tưởng nổi bật của hội nghị là điều chỉnh một số chính sách kinh tế làm cho
"sản xuất bung ra". Từ đó ra đời một loạt những chính sách cụ thể nhằm khuyến khích
phát triển sản xuất trước hết là nông nghiệp. Chẳng hạn chủ chương cho phép các hộ xã
viên được mượn đất của HTX để sản xuất, với chính sách này, bước đầu đã thừa nhận sự
tồn tại của kinh tế gia đình, xã viên như một bộ phận hợp thành kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Sự xuất hiện của cơ chế khoán hộ thập niên 70 đầu thập niên 80 đã dẫn đến cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng cũ và mới về cơ chế quản lý nông nghiệp trong HTX.
Để lùa chọn một quyết định đúng đắn trước hiện tượng khoán hộ, ngày 20/10/1980.
Ban Bí thư TW ra thông báo số 22 ghi nhận và cho phép các địa phương làm thử hình
thức khoán sản phẩm đối với cây lúa. Sau khi có thông báo số 22, cơ chế khoán hộ được
triển khai ở nhiều HTX trên các vùng đồng bằng trung du, miền nói . . .
2
Hình thức khoán việc có thưởng, phạt bằng công điểm trước đây thực chất là lối
khoán thời gian cho người sản xuất, chưa gắn trách nhiệm với lợi Ých của người lao
động, với kết quả sản xuất, tức là sản phẩm cuối cùng. Chính vì thế vấn đề phức tạp nhất
trong việc tổ chức quản lý sản xuất trong các HTX là tạo ra được sự quan tâm của người
lao động đối với sản phẩm cuối cùng của tập thể. Hình thức khoán hộ có khả năng thực
hiện được vấn đề đó.
Trên cơ sở tổng kết đánh giá tình hình thực tiễn, ngày 13/1/1981 Ban Bí thư TW
đã ban hành Chỉ thị 100 CT- TW, chính thức quyết định chủ trương thực hiện cơ chế
khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động.
Nội dung chủ yếu của Chỉ thị 100 CT- TW là cải tiến công tác khoán, mở rộng
"khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động" trong các HTX, hoàn chỉnh
hơn nữa cơ chế "Ba khoán" có thưởng phạt công minh đối với đội sản xuất đồng thời
cải tiến các hình thức khoán của đội sản xuất đối với xã viên.

Chỉ thị 100 CT- TW được coi là sự đột phá đầu tiên của mô hình hợp tác hoá, tập
thể hoá cùng với cơ chế quản lý của nó. Sự đột phá này chấm dứt quá trình quản lý
nông nghiệp theo hướng mở rộng quy mô hợp tác xã, tăng cường cơ chế quản lý tập
trung thống nhất ở mức độ cao, mô phỏng cách quản lý trong các xí nghiệp, công nghiệp
. . .
Chỉ thị 100 CT- TW và một loạt các Chỉ thị tiếp theo của Ban Bí thư TW khoá V
đã thể hiện rõ hơn những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp trong
giai đoạn này. Bước đầu đã thừa nhận vai trò của kinh tế hộ gia đình xã viên. Từ chỗ
không có vai trò gì đáng kể đối với kinh tế tập thể, đến nay hộ xã viên được quyền chủ
động ở một số khâu sản xuất và được khuyến khích phát triển.
3
2- Kinh tế hộ gia đình bước đầu đi vào thực tiễn nhờ có cơ chế khoán mới
trong sản xuất nông nghiệp:
Cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm người lao động đáp ứng được yêu cầu của quần
chúng nên nhanh chóng được thực hiện. Trong những năm đầu cơ chế khoán mới có tác
dụng khuyến khích người lao động đầu tư thêm công sức, vốn liếng, áp dụng KHKT để
thâm canh, tăng năng suất, tăng phần sản lượng vượt khoán. Đó là yếu tố mà cơ chế
khoán cũ không có được. Vì thế nông dân ở các địa phương đều hưởng ứng cơ chế này
một khí thế mới trong nông thôn, nông nghiệp được khơi dậy.
Theo kết quả điều tra của ngành thống kê thì sau Chỉ thị 100, mỗi vụ có thêm 80%
đạt và vượt khoán, riêng vụ đông xuân 1984- 1985 có 92% số hộ vượt khoán. Năng suất
thực tế đạt cao hơn từ 5- 20% so với năng suất khoán của HTX, cơ chế khoán mới góp
phần chặn đứng xu hướng giảm sút liên tục của sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1976-
1980, sản lượng lương thực quy thóc tăng 27%, năng suất lúa tăng 23,8%. Diện tích cây
công nghiệp hàng năm tăng 62,1%, đàn bò tăng 33,2%, đàn lợn tăng 22,1%, lương thực
cung cấp cho Nhà nước tăng 2 lần.
Tuy nhiên cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần của Chỉ thị 100 CT- TW vẫn còn
thực hiện trên cơ sở duy trì chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và nhiều yếu tố của
cơ chế quản lý cò. HTX vẫn là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ yếu. Người nhập khoán
phải tuân theo kế hoạch sản xuất, quy trình kỹ thuật và định mức chi phí của HTX, một

phần thu nhập quan trọng vẫn hưởng theo chế độ công điểm của HTX. Vì thế sau một
thời gian phát huy tác dụng tích cực, cơ chế khoán 100 đã bộc lé những nhược điểm hạn
chế của nó.
Với khoán 100, ruộng khoán và mức khoán không đều, không ổn định, xã viên
không được làm chủ ruộng đất, họ kém phấn khởi, không yên tâm vào đầu tư thâm canh
vì lo sợ HTX sẽ điều chỉnh mức khoán khi năng suất cao và trong thực tế sau một thời
4
gian khuyến khích hộ nông dân, nhiều HTX đã tăng mức khoán. Việc "Trống khoán
trắng đã dẫn đến tình trạng các HTX muốn nắm lại nhiều khâu trong quá trình sản xuất,
nhưng trên thực tế lại không đảm bảo được tốt những khâu đó. Ở nhiều nơi nhân dân chỉ
nhận được từ 15- 20% phần sản lượng trong khoán. Phần sản lượng vượt khoán nhiều
khi không bù đắp được chi phí vật chất đã đầu tư thêm.
Từ vụ đông xuân 1978- 1988, nhiều địa phương đã nghiên cứu cải tiến khoán 100
thành khoán gọn đến hé xã viên và đạt kết quả tốt được nông dân đồng tình. Chẳng hạn
như Thổ tang (Vĩnh Lạc- Vĩnh Phú) HTX đã cắt 30% diện tích đất khoán trước đây giao
cho các hộ sản xuất, các hộ chỉ phải đóng thuế 10%, ngoài ra không phải đóng góp thêm
bất cứ khoán nào (70% diện tích đất còn lại vẫn giao khoán theo cách cũ). Đó là hướng
đi mới xuất hiện trong thực tiễn.
II- CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
THỜI KỲ 1988- 1993:
1- Nghị quyết 10 được Bộ chính trị đề ra:
Thực hiện những tư tưởng đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ngày
5/4/1988 Bộ chính trị TW Đảng đã ra Chỉ thị số 10 về đổi mới cơ chế quản lý nông
nghiệp, với những nội dung hết sức quan trọng trong đó có những chính sách mới đối
với kinh tế hộ gia đình về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, Nghị quyết 10 thực hiện một
bước điều chỉnh quan trọng đó là chính sách giao khoán ruộng đất ổn định trong khoảng
10- 15 năm, chuyển nhượng, bán hoá giá trâu bò và những tài sản cố định mà HTX quản
lý, sử dụng kém hiệu quả cho xã viên. Về quan hệ quản lý, Nghị quyết 10 chủ trương
tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm, hé và hộ xã viên, đến
người lao động và tổ đội sản xuất tuỳ từng điều kiện ngành nghề cụ thể, gắn kế hoạch

sản xuất với kế hoạch phân phối từ đầu.
5
Về quan hệ phân phối, xoá bỏ hoạch toán và phân phối theo công điểm, xã viên
chỉ có nghĩa vụ nép thuế cho Nhà nước và góp đóng góp xây dựng quỹ của HTX. Các
hoạt động dịch vụ sản xuất giữa HTX với xã viên đều không thông qua quan hệ hàng
hoá, tiền tệ. Hộ xã viên được quyền tự chủ về kinh tế được hưởng trên dưới 40% sản
lượng khoán.
Ngoài thành phần kinh tế quốc doanh tập thể, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu
dài, bình đẳng và tác dụng tích cực của thành phần kinh tế cá thể, tư nhân trong nông,
lâm, ngư nghiệp.
Nh vậy Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Nghị quyết Hội nghị TW 6 (Khoá VI) là
bước tiến xa so với Chỉ thị 100 CT- TW trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
nông nghiệp. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh trên cả ba phương tiện: Sở hữu, quản
lý, phân phối cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
2- Vai trò kinh tế hộ gia đình đã có chuyển biến sâu sắc:
Những thay đổi lớn về vị trí, vai trò của kinh tế hộ đã khơi dậy các tiềm năng to
lớn Èn dấu trong từng hộ gia đình nông dân. Từ chỗ không thiết tha với ruộng đất, nông
dân đã có ý thức chăm sóc, bồi bổ và sử dụng đất đai có hiệu quả hơn nhiều địa phương,
nông dân đã bỏ sức để khai phá các diện tích đất hoang để đưa vào sản xuất. Chỉ trong
vòng 3 năm (Đầu 1988- 1990) tổng diện gieo trồng đã tăng 3,9% (từ 8.641.700 ha lên
8.983.300 ha), khai hoang được 257.000 ha, trồng rừng mới được 327.000 ha, diện tích
mặt nước được sử dụng vào môi trường thuỷ sản tăng lên 27,5%. Các hộ nông dân còn
chủ động mua sắm thêm công cụ, máy móc để phát triển sản xuất, đàn trâu cày kéo sau
chuyển giao về cho hộ xã viên quản lý đã được chăm sóc nuôi dưỡng và sử dụng tốt hơn
trước. Tổng đàn trâu, bò cày kéo dã tăng từ 3.050.700 con (1987) lên 3.201.700 con
(năm 1990).
6
So với giai đoạn thực hiện khoán 100 thì ở giai đoạn này vai trò tự chủ của hộ
nông dân được khẳng định và được xác lập trên thực tế. Hộ nông dân tự chủ không chỉ
trong 3 khâu nh giai đoạn trước mà trong toàn bộ quá trình sản xuất. Mức độ tự chủ

cũng cao hơn trên cả ba phương diện: Sở hữu, quản lý, phân phối. Do đó động lực mới
mạnh hơn và chắc hơn sẽ còn phát huy được trong thời gian dài.
Nh vậy có thể nói rằng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã được đề
ra và đang từng bước được khẳng định một cách đúng đắn, những chính sách Êy thông
qua vai trò tự chủ của hộ gia đình trong giai đoạn 1988- 1993.
Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, hộ nông dân trở lên thành đơn vị kinh
tế tự chủ nhưng đó mới chỉ là có quyền, còn khả năng và điều kiện thực hiện các quyền
đó giữa các hộ nông dân không giống nhau. Có những hộ có khả năng làm tốt, còn có
những hộ lại cần giúp đỡ về cách làm ăn, vốn, kỹ thuật, vật tư. Ngay cả những hộ có khả
năng thực hiện quyền tự chủ thì không phải khâu sản xuất nào cũng có thể tự mình làm
được một cách có hiệu quả. Do đó tất cả các hộ nông dân đều có nhu cầu hợp tác. Hộ
nghÌo sản xuất tự cung tù cấp có nhu cầu hợp tác để vay vốn ,đổi công lao động. Hộ
giàu có nhu cầu hợp tác để mở rộng quy mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường, hạn chế sự thao túng chèn Ðp của tư thương. Mặt khác đa số những hộ nông dân
nước ta là những hộ tiểu nông, điểm xuất phát kinh tế thấp, mới thoát ra những cơ chế
tập trung bao cấp và phải bươn trải trong nền kinh tế thị trường đầy biến động. HTX sẽ
giúp cho các hộ vượt khỏi hạn chế đó và tiếp tục phát triển. Vì vậy các hộ nông dân với
tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ đã tìm đến với nhau, hình thành các tổ hợp tác mới.
III- VAI TRÒ TỰ CHỦ CỦA KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH CỤ THỂ
VÀ RÕ RÀNG TRONG GIAI ĐOẠN 1993- 1997:
1- Chính sách tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp của Nhà nước thời kỳ 1993- 1997:
7
Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới và căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII, Hội nghị TW lần thứ V, Ban chấp hành TW khoá VII đã họp ngày
3/6/1993 và đề ra Nghị quyết tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
Hội nghị TW 5 khoá VII đã thảo luận về vấn đề ruộng đất và thống nhất đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, nhưng phải giao cho nhân dân sử dụng lâu dài, có quy định mức
hạn điền, mức để lại dành cho nhu cầu công Ých của các địa phương, lới rộng quyền hạn
của sử dụng đất như Nghị quyết TW 2 khoá VII đã đặt ra vấn đề này.

Trên cơ sở đó ngày 14/7/1993 Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 3 thông qua luật đất
đai sửa đổi, thay thế luật đất đai đựơc quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29/12/1987.
Ngày 29/7 1993, chính phủ ra Nghị định 64/CP- Ban hành bản quy định về việc
giao đất nông nghiệp cho các hô gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và mục đích
nông nghiệp.
Tất cả các văn kiện trên đều khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao cho các hộ gia đình, cá nhân theo quy định
64/CP là giao chính thức và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ổn định lâu dài.
Thời hạn giao đất sử dụng nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản 20
năm, để trồng cây lâu năm là 50 năm.
Về chính sách tín dụng, để tạo điều kiện cho các hộ phát huy vai trò tự chủ của
mình, ngày 28/6/1991, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra Chỉ thị số 202/CT "Về việc
cho vay vốn sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp đến hộ sản xuất. Năm 1993 chính phủ lại
ra Nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn của Ngân hàng đã chuyển
nhanh từ doanh nghiệp nông nghiệp, các hợp tác xã sang các hộ nông dân. Mức lãi suất
còng thay đổi theo hướng giảm dần và bỏ hẳn sự phân biệt tín dụng giữa doanh nghiệp
Nhà nứơc với hộ sản xuất và các thành phần khác.
8
Ngoài nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, các hộ nông dân còn
được các tổ chức trong và ngoài nước cho vay vốn "Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo" ở
nông thôn được thành lập từ năm 1995, quỹ "Tạo việc làm ở nông thôn" thành lập năm
1992 và các nguồn vốn tín dụng từ nước ngoài đã có từ năm 1991 trở lại đây được đưa
vào Việt Nam theo các dự án giúp cho người nghèo ở nông thôn vay để sản xuất.
Mặc dù nguồn vốn có mục tiêu khác nhau, chế độ cho vay khác nhau nhưng chiều
hướng đến việc trợ giúp nông dân nghèo có vốn sản xuất. Vì vậy tuy chưa đáp ứng nhu
cầu đầy đủ của nông dân. Đặc biệt ở những vùng có nhu cầu vay vốn lớn nhưng đã giúp
cho nông dân tránh được tình trạng quá thiếu vốn phải vay tư nhân với lãi suất cao. Nhờ
chính sách trên mà các hộ nông dân ngày càng có điều kiện phát huy vai trò tự chủ của
mình.
Về chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp, năm 1983 Hội đồng Nhà nước Ban

hành pháp lệnh thuế nông nghiệp chung cho cả nước, năm 1989 có bổ sung và sửa đổi.
Nhưng chính sách thuế nông nghiệp từ sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị không khuyến
khích được nông dân đầu tư vốn vào sản xuất. Trước tình hình đó năm 1993, luật thuế sử
dụng đất nông nghiệp Nhà nước chỉ thực hiện thu một loại thuế đối với sản xuất nông
nghiệp ngành trồng trọt của đại bộ phận nông dân. Đó là thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Ngoài ra Nhà nước còn Ban hành nhiều chính sách trong nông nghiệp nhằm
khuyến khích kinh tế hé gia đình như: Chính sách khoa học công nghệ và khuyến nông,
chính sách lưu thông nông sản và vật tư nông nghiệp, chính sách xoá đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm và phát triển nông thôn, chính sách thuỷ lợi . . . Như vậy có thể nói
tới thời kỳ này, Nhà nước ta đã xác định được rõ tầm quan trọng của kinh tế hộ gia đình
trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Nhà nước đã ra hàng loạt những chính sách
mới để khuyến khích kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp phát triển. Nhờ vậy mà kinh
9
tế hộ gia đình đã có những điều kiện thuận lợi để khẳng định mình trong thời kỳ mới của
công cuộc xây dựng đất nước.
2- Chính sách mới của Nhà nước đã được các hộ nông dân thực hiện một cách
có hiệu quả:
Những chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ này đều
góp phần củng cố vai trò tự chủ của kinh tế hộ trong đó quan trọng nhất là chính sách
ruộng đất.
Theo tinh thần của luật đất đai sửa đổi thì về mặt pháp lý đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Quy mô, mục đích, thời hạn sử dụng còng
nh quyền định đoạt cuối cùng thuộc về Nhà nước. Song trên thực tế không thể không
thừa nhận người nông dân đã có những quyền hạn không chỉ thuần tuý của người sử
dụng mà phần nào của người sở hữu. Hay nói cách khác với những quyền hạn đó, người
nông dân là người sở hữu. Trên thực tế phần ruộng đất được giao trong thời hạn nhất
định.
Sự nới rộng các quyền hạn của nông dân đối với ruộng đất và việc thể chế hoá
bằng luật pháp các quyền đó tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế, pháp lý và tâm lý để phát
huy hơn nữa các tiềm năng to lớn của kinh tế hộ. Chế độ sở hữu, sử dụng ruộng đất

trong nông nghiệp hiện nay là cơ sở vững chắc cho vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia
đình với những quyền hạn đó, người nông dân yên tâm đầu tư vào khai hoang phục hoá,
tăng vụ, cải tạo đất, chủ động trong việc thay đổi cơ cấu cây trồng. Một số hộ nông dân
có điều kiện tập trung ruộng đất mở rộng quy mô sản xuất, hình thành các nông trại sản
xuất hàng hoá. Đồng thời chế độ sở hữu, sử dụng ruộng đất trong nông nghiệp cũng góp
phần thúc đẩy phân công lao động trong nông nghiệp, phát triển các ngành nghề nông
thôn. Những người có khả năng chuyển sang những ngành nghề phi nông nghiệp thì
không bị trãi buộc vào ruộng đất, họ có thể chuyển nhượng ruộng đất để tập trung vốn
10
đầu tư cho hướng sản xuất mới. Vì thế chế độ sở hữu ruộng đất trong nông nghiệp ngày
nay góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển trong cơ chế thị trường, từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nó phù hợp với tính chất trình độ sản xuất tạo ra địa bàn rộng lớn hơn nữa cho
sự phát triển sức sản xuất.
Các nông hộ trở thành những đơn vị quản lý sử dụng phần lớn đất đai các loại.
Theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn năm 1994 của Tổng cục thống kê thì cả
nước có 6.342.693 ha đất nông nghiệp trong đó đã giao cho các hộ là 4.234.787 ha
( Chiếm 84,3%). Đất nông nghiệp trong đó đã giao cho các hộ là 840.970 ha (chiếm 7%)
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản đã giao cho các hộ là 160520 ha (66,3%).
Việc thay thế các chính sách đất đai đã tạo điều kiện từng bước hình thành thị
trường chuyển nhượng đất đai. Nếu như trước khi có luật đất đai năm 1993 việc chuyển
nhượng và mua bán đất đai diễn ra còn Ýt và ngấm ngầm trong nông thôn, thì sau khi có
luật đất đai, xác định rõ 5 quyền ngưêi sử dụng đất, việc chuyển nhượng đất đai có chiều
hướng tăng lên. Vì nhiều lý do khác nhau, một bộ phận nông dân đã phải chuyển
nhượng ruộng đất và trở thành những hộ không có ruộng. Tình trạng này phổ biến ở
đồng bằng Sông Cửu Long.
Kinh tế nông hộ đã trở thành đơn vị kinh tế cơ sở, trong các ngành kinh tế khác
nhau của nền kinh tế nông thôn sự phân công lao động theo ngành nghề ở nông thôn đã
có sự tiến triển. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 1994 thì tỷ lệ các hộ phân theo
ngành nghề trong cả nước nh sau:

Sè hộ điều tra 11.974.515 hé 100%
Số hộ nông nghiệp 9.528.896 hé 79,58%
Số hộ lâm nghiệp 18.156 hé 0,15%
11
Số hộ thuỷ sản 229.909 hé 1,92%
Số hộ công nghiệp, TTCN 160.370 hé 1,34%
Số hộ xây dựng 31.914 hé 0,27%
Số hộ thương nghiệp 384. 272 hé 3,21%
Số hộ dịch vô 141.657 hé 1,18%
Số hộ khác 1.479.314 hé 12,35%
Theo số liệu thống kê cho thấy, số hộ xã viên, tập đoàn viên giảm đi, số hộ cá thể
tăng lên và đặc biệt trong nông thôn đã xuất hiện các loại hình hộ chuyên đi làm thuê.
Đây là những hộ không có đất hoặc Ýt đất nông nghiệp, nguồn thu của họ chủ yếu là lao
động làm thuê.
Những hộ nông dân có nhiều đất đai, nhiều vốn đã mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, vật nuôi hoặc chuyển sang ngành nghề khác, tiến hành sản xuất hàng hoá loại
hộ này có chiều hướng tăng lên ở hầu khắp các vùng.
Vùng ven biển từ Móng cái đến Hà Tiên đã có nhiều hộ nông dân đầu tư vốn và
lao động vào để khai thác vùng ven biển, nuôi trồng các đặc sản nh Tôm, cua, cá, rau
câu . . . đem lại nguồn lợi lớn.
Vùng ven biển huyện Hải Ninh- Quảng Ninh có hàng ngàn hộ nuôi cua cá xuất
khẩu, các vùng đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện có nhiều hộ nông dân đi vào thâm
canh sản xuất lúa mùa, rau, cây ăn trái, chăn nuôi, phát triển ngành nghề, làm dịch vụ kỹ
thuật ở nông thôn họ đã làm ra nhiều nông sản hàng hoá và thu nhập khá cao.
Do vậy ở tỉnh nào cũng có hàng ngàn hàng vạn hộ nông dân thu nhập từ 5- 10
triệu đồng trở lên. ở tỉnh Vĩnh Phú có 13.000 hé thu nhập từ 6 triệu đồng trở lên, Nghệ
An, Hà Tĩnh có 15.000 hé thu nhập 10 triệu đồng trở lên, ở các tỉnh Tây Nguyên có trên
12
30.000 hộ người dân téc định cư thu nhập từ 5- 10 triệu đồng, ở tỉnh Hậu Giang có gần
40.000 hé thu nhập từ 12-20 triệu đồng.

Kinh tế hé nông dân đang phát triển từ kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc lên kinh tế
hợp tác, kinh tế nông trại hàng hoá phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường, sự chuyển biến này mạnh hơn giai đoạn trước.
Ở nước ta năm 1994 đã có 93.343 hộ nông dân sở hữu từ 3- 5 ha/hộ, 18.572 hộ sở
hữu 5- 10 ha/hộ, 1823 hộ có trên 10 ha. Nh vậy ở nước ta đã có 113.747 hộ có từ 3 ha
trở lên.
Cũng từ thời kỳ này, kinh tế trang trại có những bước phát triển vượt bậc. Theo
báo cáo của UBKT trung ương sau Hội nghị kinh tế trang trại tổ chức trong 2 ngày 30
và 31/7/1998 tại Bình Dương thì đến 7/1998 tỉnh Yên Bái đã có 9.226 hộ sản xuất kinh
doanh nông, lâm, ngư nghiệp theo mô hình trang trại (chiếm 10% tổng số hộ nông dân
toàn tỉnh). Tỉnh Sơn La năm 1998 có 4.700 hộ, tỉnh Ninh Thuận có 773 trang trại, tỉnh
Kom Tum có 998 hé trang trại, tỉnh Bình Phước có 2.076 hé trang trại. Phần lớn cá trang
trại trên có quy mô ruộng đất ở dưới mức hạn điền, sử dụng dưới 10 lao động thuê mướn
ở mức thường xuyên. Nhưng cũng đã có một số trang trại có quy mô lớn. ở tỉnh Yên Bái
có một trang trại trồng nguyên liệu sản xuất giấy có quy mô 500 ha, ở Kom Tum có 3
trang trại, quy mô trên 30 ha, ở Bình Phước có một trang trại diện tích khoảng 450 ha,
Long An có 1 trang trại trồng mía 1.800 ha, 1 trang trại trồng bạch đàn có diện tích
khoảng 2.300 ha.
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về kinh tế trang trại, xã hội còn chưa có sự
nhìn nhận thống nhất nhưng một số mặt tích cực của kinh tế trang trại đối với sự phát
triển của kinh tế nông nghiệp đã được thừa nhận.
13
Nói chung, so với giai đoạn trước, ở giai đoạn này kinh tế có nhiều điều kiện hơn
để nâng cao vai trò tự chủ của mình. Các chính sách thuế về ruộng đất, khuyến nông, tín
dụng, thuế sử dụng đất nông nghiệp, lưu thông nông sản hàng hoá và vật tư nông nghiệp
đều có tác dụng củng cố vai trò kinh tế hộ.
PHẦN III
KẾT LUẬN
Nh vậy kinh tế hộ gia đình ở nước ta đã từng bước khẳng định vai trò tự chủ của
mình trong nền kinh tế thị trường. Hàng loạt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà

nước trong việc phát triển nông nghiệp, từ chỉ Chỉ 100 CT- TW của Ban Bí thư Trung
ương, Nghị quyết số 10 của Bộ chính trị đến Nghị quyết 64/CP của chính phủ. Mỗi một
lần đổi mới của Chính phủ trong kinh tế nông nghiệp thì kinh tế hộ gia đình ở nước ta lại
thêm một điều kiện để khẳng định rõ hơn vai trò của mình. Cho đến Nghị quyết 64/CP
của chính phủ về chính sách giao đất nông nghiệp cho hé gia đình, cá nhân sử dụng lâu
dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp thì kinh tế hộ gia đình có những điều kiện và
chính sách hết sức thuận lợi để phát triển và trên thực tế trải qua một thời gian thực hiện
kinh tế hộ gia đình đã khẳng định roc vai trò của mình trong nền kinh tế mới. Điều này
14
cũng khẳng định những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trong kinh tế nông
nghiệp là hoàn toàn đúng đắn. Với những kết quả đã đạt được, kinh tế hộ gia đình đã
góp phần thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta đi lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- TS: Trương Thị Tiến : Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam - NXB Chính trị quốc gia - HN 1999.
2- GS: Vũ Đình Bách và Ngô Đình Giao: Đổi mới hoàn thiện chính sách KT-
NXB chính trị quốc gia - HN 1993.
3- Ban nông nghiệp TW: KTXH nông thôn ngày nay - NXB tư tưởng- VH- HN
năm 1991 - T1
4- Nguyễn Sinh Cóc : Thực trạng nông nghiệp nông thôn và nông dân Việt Nam
- NXB thống kê- HN 1991.
5- Phạm Quốc Doanh: "Vốn tín dụng đối với phát triển sản xuất của hộ Nông
dân" tạp chí quản lý kinh tế nông nghiệp - Tháng 3 và 4 năm 1992.
6- Đảng cộng sản Việt Nam: Mét số văn kiện Đảng về phát triển nông nghiệp-
NXB chính trị quốc gia - HN 1993.
15
7- Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TW khoá VII-
HN 1993.
8- Học viện Nguyễn ái Quốc - Khoa quản lý KT đổi mới quản lý KTNN- NXB tư
tưởng văn hoá- HN 1990.

PHỤ LỤC
PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN II: NỘI DUNG 3
I- Vai trò tự chủ của KT hộ bước đầu được khẳng định nhờ chính sách đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp của Đảng và Nhà nước thời kỳy 1981-
1987 3
II- Chính sách đổi mới kinh tế nông nghiệp thời kỳ 1988- 1993 7
III- Vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình được khẳng định cụ thể và rõ ràng trong
giai đoạn 1993- 1997 11
PHẦN III: KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
16
17

×