Tải bản đầy đủ (.doc) (234 trang)

Nhận định và kiểm soát ban đầu người bệnh cấp cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.73 KB, 234 trang )

NHẬN ĐỊNH VÀ KIỂM SOÁT BAN ĐẦU NGƯỜI BỆNH
CẤP CỨU
I. MỤC TIÊU
- Trình bày được các nguyên tắc chính khi tiếp cận và xử trí người
bệnh cấp cứu.
- Trình bày được các nguyên tắc cần tuân thủ để tránh các sai lầm.
- Rèn luyện kỹ năng thăm khám và cấp cứu người bệnh theo hai bước
(primary và secondary).
- Rèn luyện tác phong khẩn trương và phản ứng theo trình tự.
II. KHÁI NIỆM VỀ CẤP CỨU
- Cấp cứu thường được dùng để chỉ các tình trạng bệnh nội/ngoại cần
được đánh giá và điều trị ngay. Các tình trạng cấp cứu có thể là:
Nguy kịch (khẩn cấp) (critical): người bệnh có bệnh lý, tổn thương, rối
loạn đe doạ tính mạng, nguy cơ tử vong nhanh chóng nếu không được can
thiệp cấp cứu ngay.
- Công tác thực hành cấp cứu có nhiệm vụ đánh giá, xử trí và điều trị cho
các bệnh nhân có bệnh lý/tổn thương/rối loạn cấp cứu.
III. CÁC ĐẶC THÙ CỦA CẤP CỨU
1. Rất nhiều khó khăn, thách thức
- Hạn chế về thời gian: tính chất bệnh lý cấp cứu diễn biến cấp tính và
có thể nâng lên nhanh chóng, do vậy đồi hỏi công tác cấp cứu phải rất khẩn
trương thu thập thông tin, đánh giá và đưa ra chẩn đoán, xử trí và can thiệp
cấp cứu; Bản thân người bệnh và gia đinhg cũng lo lắng và có xu hướng đòi
hỏi thực hiện đón tiếp và cấp cứu thật nhanh.
- Cần đánh giá nhanh và ra quyết định với lượng thông tin hạn chế ,
chưa đầy đủ: do đòi hỏi phải quyết định chẩn đoán xử trí nhanh chóng ngay
sau kh tiếp cận người bệnh (ngoài bệnh viện hoặc trong bệnh viện tại khoa
cấp cứu) cho nên người bác sỹ và y tá cấp cứu thường phải đưa ra chẩn đoán
và quyết định xử trí, chăm sóc dựa vào các thông tin ban đầu sơ bộ, chưa đầy
đủ. Đây là một thách thức sự khi phải đưa ra quyết định nhiều khi mang tính
chất sống còn cho tính mạng hoặc một phần cơ thể của người bệnh trong


khoảng thời gian ngắn và chưa có thông tin đầy đủ:
- Không gian và môi trường làm việc: Môi trường làm việc tại khoa
cấp cứu luôn có nhiều áp lực không kể áp lực thời gian; không gian làm việc
thường nằm ngay gần cổng bệnh viện, không gian mở thường thông thương
với bên ngoài, đông người bệnh, đông người thân của người bệnh và có thể
còn nhiều đối tượng khác, dòng người chuyển vừa đông vừa nhanh (người
bệnh, người thân của người bệnh, nhân viên…) nên dễ có lộn xộn, nhiều tiếng
ôn và khó kiểm soát trật tự, vệ sinh và an ninh.
- Trong cấp cứu trước khi đến viện, nhân viên y tế có thể phải làm
viêck ngoài trời, trong môi trường sinh hoạt không có hỗ trợ về y tế, thời tiết
có thể không thuận lợi, đôi khi có thể nguy hiểm ngay cả cho nhân viên y té
(cháy nổ, hiện trường tai nạn giao thông…)
- Nhiều lo lằng và dễ bị phân tâm: Người nhân viên y tế có thể phải
quan tâm giải quyết nhiều việc khác nhau: tiếp nhận giấy tờ, thủ tục hành
chính, trật tự, phân luôn người bệnh…Nhiều khi các mối bận tâm này làm
người nhân viên y tế khó tập trung vào công tác từ phía người bệnh và người
thân của người bệnh cũng có thể làm các nhân viên y tế gặp khó khăn để đảm
bảo tuân thủ các quy trình và tiêu chí cấp cứu.
2. Không nhất thiết chỉ quan tâm tìm chẩn đoán để có điều trị mà đa
phần trường hợp yêu cầu cần thiết lại là suy nghĩ để các nhận hoặc loại trừ các
bệnh lý rối loạn nặng đe doạ tính mạng hoặc đe doạ bộ phận chi của người
bệnh.
Nhận định và phạn ứng có thể phải tiến hành song song nhiều quy trình
(ví dụ vừa cấp cứu vừa hỏi, vừa khám…) còn phương pháo tham khám và
đánh giá tuần tự, lần lượt từng quy trình có thể lại không phù hợp và nhiều
khi là chậm trễ đối với yêu cầu cấp cứu.
3. Nguy cơ bị quá tải hậu quả là dễ có người bệnh bị bỏ sót (ra viện mà
chưa được xem):
Dòng người bệnh đến cấp cứu rất thây đổi theo thời điểm trong ngày,
giữa ác ngày trong tuần, giữa các mùa… và rất khó dự đoán chính xác được

dòng người bệnh cấp cứu. Trên thực tế là thường xuyên có các thời điểm các
khoa cấp cứu bị quá tải người bệnh và quá tải công việc. Khi mét khoa cấp
cứu bị quá tải lên đến 140% công suất thì sẽ có nguy cơ bỏ sót người bệnh và
sai sót (người bệnh không được cấp cứu kịp thời, có người bệnh ra viện mà
chưa được thăm khám đầy đủ…)
4. Tính ứu tiên cấp cứu (giữa các người bệnh; giữa cac động tác , can
thiệp, chăm sóc) mà không phải theo thứ từ thông thường:
Do có nhiều thời điểm bị quá tải nên các khoa cấp cứu sẽ phải triển
khai quy trình phân loại người bệnh và các nhân viên cấp cứu sẽ phải rèn
luyện kỹ năng phân loại người bệnh và phân loại các công việc, kỹ thuật can
thiệp cấp cứu cho phù hợp với yêu cầu ưu tiên cấp cứu. Phản ứng xử lý cấp
cứu thưo tính ưu tiên cấp cứu (người bệnh nào cần cấp cứu hơn thì được
khám trước, can thiệp nào cân thiết hơn thì ưu tiên thực hiện trước …) giúp
đảm bảo các người bệnh được tiếp cận cấp ciứi kịp thời tương ứng với tình
trạng và yêu cầu cấp cứu của từng người bệnh.
5. Phải tiếp cận và sắp xếp giải quyết khi có người bệnh tử vong
Tại khoa cấp cứu, nhân viên y tế thường xuuyên phải tiếp nhận, cấp
cứu và giải quyết các việc liên quan đến người bệnh ngừng tuần hoàn và tử
vong. Khi có người bệnh tử vong, người bác sỹ cấp cứu phải giải quyết nhiều
việc: xác nhận tử vong, thông báo và chuẩn bỉ tâm lý cho ngườu thân của
người bệnh tử vong… Đồng thời người bác sỹ cũng sẽ luôn phải đặt ra các
câu hỏi và tim câu trả lời: tại sao người bệnh tử vong ? Người bệnh tử vong
có nguy cơ lây bệnh cho người khác (nhân viên y tế, gia đình và người
thân…).
IV. CÁC NGUYÊN TÁC CHÍNH KHI TIẾP NHẬN VÀ XƯT TRÍ
NGƯỜI BỆNH CẤP CỨU
- Một bác sỹ cấp cứu, y tá cấp cứu đang trong ca làm việc cần đảm bảo
bao quát để kiểm soát cả bệnh phòng/ khu vực và tất cả các người bệnh mà
mình phụ trách. Điều đó đòi hòi người nhân viên y tế phải rèn luyện kỹ năng
quan sát nhanh, phương pháp tổ chức làm việc hợp lý và biết tiết kiệm cũng

như phân phối sức lực để đảm bảo cả ca trực.
- Mét trong các nhiệm vụ khó khăn của bác sỹ cấp cứu là ra phải ra các
quyết định, nhất là khi các quyết định đó thường rất quan trọng đến bệnh tật,
diễn biến và tính mạng của người bệnh. Các quyết định diều mà các bác sỹ
cấp cứu thường phải đối mặt:
. Trage: người bệnh nào cần được khám trước ?
. Cần các can thiệp nào để ổn định người bệnh ?
. Các thông tin nào cần cho chẩn đoán ?
. Cần các điều trị cấp cứu nào ?
. Người bệnh có cần nhân viên không? hay có thể ra viện?
. Thông báo cho người bệnh và gia đình người thân như thế nào?
. Khi tiếp cận một người bệnh cấp cứu cần tuân thủ các nguyên tắc nhất
định để đảm bảo ra được các quyết định nhanh, kịp thời và chính xác nhất có
thể, không bỏ sót các cấp cứu, bệnh lý nguy hiểm.
1. Phân loại ưu tiên
- Khi tiếp nhận một người bệnh cấp cứu, người nhân viên y tế trước hết
cần xác định xem người bệnh có nguy cơ tử vong nguy hiểm không ? Nếu
không có nguy cơ tử vong rõ ràng thì câu hỏi tiếp theo là người bệnh có gì bất
ổn cần can thiệp ngày không?.
- Các người bệnh vào cấp ciứi cần được phân loại theo các mức độ ưu
tiên để được tiếp nhận cấp cứu cho phù hợp. Có nhiều bảng phân loại khác
nhau, nhiều mức độ phân loại khác nhau.
- Trên thực tế thì điểm quan trọng nhất là phải xác định xem người
bệnh thuộc loại nào trong sè 3 tình trạng sau:
Nguy kịch (khẩn cấp) (critical) : người bệnh có bệnh lý, tổn thương, rối
loạn đe doạ tính mạng, nguy cơ tử vong nhanh chóng nếu không được can
thiệp cấp cứu ngay. Các người bệnh nguy kịch cần được tập trung cấp cứu
ngay, có thể phài huy động thêm cẩ các nhân viên khác cùng đến tham gia cấp
cứu.
Cấp cứu (emergency): người bệnh có bệnh lý, tổn thương, rối loạn mà

Ýt có khả năng lên nếu không được can thiệp điều trị nhanh chóng. Các người
bệnh cấp cứu cần được tập trung cấp cứu nhanh chóng và theo dõi sát sao,
người bệnh cần được đặt trong tầm mắt cảnh giới theo dõi vủa nhân viên y tế.
Không cấp cứu: người bệnh có các bệnh lý, tổn thương, rối loạn mà Ýt
có khả năng tiến triển nặng. đe doạ tính mạng. Các người bệnh không cấp cứu
có thể chờ để khám lần lượt sau khi các người bệnh nguy cơ kích/cấp cứu đã
được tiếp nhận và tảm ổn định.
2. Ổn định người bệnh trước khi tập trung vào thăm khám chi tiết
Cần tiếp cận người bệnh cấop cứu thưo trình tự vừa đảm bảo ổn định
người bệnh vừa đảm bảo thăm khám được đầy đủ, không bỏ sót tổn thương.
Thăm khám cần tiến hành qua 2 bước tuần tự.
Bước 1 (primary survey); nhận định và kiểm soát ổn định các chức
năng sống.
- Mục tiêu là tìm các rối loạn/tổn thương đe doạ các chức năng sống và
thực hiện ngay các can thiệp để đảm bảo ổn định các chức năng sống.
. Tập trung vào đánh giá và kiểm soát tuần tự ABCD (đường thở, hô
hấp, tuần hoàn, thần kinh).
. Nhanh chóng xác định các tổn thương/rối loạn quan trọng làm ảnh
hưởng các chức năng sống và có thể xử trí được ngay: tràn khí màng phổi áp
lực, viết thương mạch máu, Ðp tim cấp do tràn dịch/máu màng ngoài tim, rối
loạn toàn/kiềm máu nặng, rối loạn kali máu, hạ đường máu…
. Thực hiện ngay các điều trị, thú thuật và can thiệp cấp cứu để ổn định
các chức năng sống: khai thông đường thở, đặt NKQ, bóp bóng, thở ô xy, đặt
đường truyền tĩnh mạch, bồi phụ thể tích, cầm máu, chọc màng phôit, chọc
dịch màng ngoài tim. sốc điện chuyển nhịp nhanh…
- Các thông tin về tiền sử, bệnh sử, thuốc đang dùng, xét nghiệp
nhanh…có thể rát có Ých cho các quyết định xử trí, tuy nhiên không nên mất
nhiều thời gian vào hỏi, thăm khám, làm xét nghiệm/thăm dò và không vì hỏi,
tham khám làm xét nghiệm/thăm do mà làm chậm trễ quá trình đánh giá và
kiểm soát các chức năng sống

Bước 2: (seconday survey): thăm khám một cách hệ thống và chi tiết
theo trình tự.
- Mục tiêu là đánh giá đầy đủ các tổn thương/ rối loạn/bệnh lý để có kế
hoặch xử trí cấp cứu và xử trí điều trị để hợp lý.
- Để đảm bảo không bỏ sót các tổn thương, dấu hiệu/triệu chứng….cần
tuân thủ nguyên tắc và trình tự thăm khám.
. Đứng cạnh người bệnh để thu thập bệnh sử.
. Thăm khám lâm sàng một cách tập trung và liên tực, tránh bị ngắt
quãng.
. Nên thăm khám một cách hệ thống, tuần tự từ đầu đến chân (đầu mặt
cổ, ngực, bụng, khung chậu, chỉ, lưng…) và thăm khám hết tất cả các hệ
thống cơ quan (thần kinh, hii hấp, tim mạch, bụng và tiêu hoá, thận – tíêt
niệu, sinh dục, tai mũi họng. mắt, răng hàm mặt…).
. Nên tập trung thăm khám kỹ vào các bộ phận liên quan đến các lÝ do
chính làm người bệnh đến cấp cứu cũng nh tập trung vào tim kiếm các dấu
hiệu giúp cho định hướng chẩn đoán.
. Chỉ nên làm các thăm dò, xét nghiệm giúp loại trừ hoặc khẳng định
chẩn đoán, hoặc giúp định hướng chuyển/nhập viện người bệnh.
3. Ra quyết định về chẩn đoán và định hướng xử trí.
Ưu tiên chẩn đoán và xử trí các rối loạn/tổn thương nguy hiểm và cố
gắng chẩn đoán loại trừ các cấp cứu.
+ Người bác sỹ cấp cứu thường xuyên phải tận dụng triệt để lượng thông
tin có, xử lý hiểu quả tối đa các thông tin này dựa vào kiến thức, kỹ năng và
kinh nghiệm. Một trong các tính chất khoa cấp cứu là xử lý hiệu quả và nhanh
chóng đưa ra được các quyết định mà chỉ dựa voà lượng thông tin Ýt ỏi có
được,
+ Trong điều kiện áp lực về thời gian và thiếu thông tin, nên tuân thủ
một số nguyên tắc nhất định để có thể tiến đến các chẩn đoán và xử trí hợp lý
nhất.
+ Chẩn đoán nếu có thể, nếu không có chẩn đoán: chẩn đoán và xử trí

các rối loạn/tổn thương nguy hiểm và tập trung vào kiểm soát hoặc loại trừ
các cấp cứu.
- Đưa ra các chẩn đoán bệnh lý cấp cứu nguy hiểm, chẩn đoán nhiều
khả năng nhất trước; Người bác sỹ nên tư duy 3 bước:
. Tính toán và kiệt kê tất các khả năng có thể.
. Sau đó xác định các nguyên nhân/ tổn thương/rối loạn nào là nguy cơ
nặng nề, nguy hiểm nhất và lên kế hoạch chẩn đoán và xử trí theo định hướng
này.
. Xác định xem liệu có các nguyên nhân tổn thương, rối loạn khác cần
phải được xử lý không.
- Tập hợp các thông tin để xác nhận hoặc loại trừ chẩn đoán bệnh cấp
cứu nguy hiểm trước, rồi đến các chẩn đoán nhiều khả năng nhất.
- Tránh chẩn đoán kiểu “chộp được”. Nên tìm chẩn đoán theo sơ đồ
cây chẩn đoán (algorithm).
- Điều trị có thể giúp thêm cho chẩn đoán: đáp ứng với điều trị hoặc
ngược lại không đáp ứng với điều cũng đều là các thông tin tốt giúp thêm cho
định hướng chẩn đoán.
- Chỉ nên làm các thăm dò, xét nghiệm giúp loại trừ hoặc khẳng định
chẩn đoán, hoặc giúp định hướng chuyển/nhập viện người bệnh.
- Nên sử dụng các quy trình, hướng dẫn xử trí, điều trị cấp cứu để tiết
tiệm sức và trí não trong giờ trực.
- Nên nỏ ra Ýt nhất 2 -3 phút tập trung suy nghĩ cho mỗi người bệnh.
4. Định hướng chuyển: vào viẹn/ra viện hay lưu theo dõi
- Trước một người bệnh cấp cứu, người bác sỹ chắc chắn sẽ phải quyết
định xem người bệnh sẽ được bố trí chỗ như thế nào; nhập viện hay ra viện
hay lưu theo dõi? Nếu nhập viện thì cho nhập vào khoa nào? Cho nhập viện
ngay hay chê theo dõi thêm?
- Trong nhiều trường hợp thì quyết định cho vào viện hay cho ra viện là
một quyết định rất khó khăn. Nhất là khi không có sự thống nhất giữa ý đồ
của bác sỹ và nguyện vọng của người bệnh/gia đình người bệnh.

- Để quyết định đỡ khó khắn và giảm thiểu sai sót, rủi ro cần tuân theo
một số nguyên tắc hoặc trả lời một số câu hỏi:
. Người bệnh có cần nằm viện không
. Nếu cho ra viện: có đủ an toàn cho người bệnh không và cần theo dõi
như thế nào?.
. Để người bệnh lưu lại theo dõi thêm tại khoa cáp cứu nếu chưa có
quyết định hoặc còn phân vân khi người bệnh/gia đình người bệnh lo lắng.
. Suy nghĩ cận thận trước khi quyết định. Tránh đưa ra quyết định khi
đang căng thẳng hoặc đang cáu giận: tạm dừng lại trấn tính vài phút rồi sau đó
mới quay lại giải quyết tiết và quyết định.
V. CÁC NGUYÊN TẮC ĐỂ TRÁNH SAI LẦM
- Tránh rào cản lớn nhất đối với chẩn đoán đúng: chẩn đoán trước đó.
- Tránh bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ của người khác: bị nhiều chẩn đoán
và nhiễu từ người khác (bias).
- Chó ý đến các dấu hiệu sống, các nghi chép cỉa tuyến trước và nghi
chép của y tá.
- Tránh “gập” hồ sơ vào quá sớm, khi mà chưa có chẩn đoán rõ ràng:
cần cho người bệnh vào danh sách chưa có chẩn đoán hoặc chẩn đoán chưa rõ
ràng và có cảnh báo, theo dõi thích hợp.
- Thận trọng vào các thời điểm nguy cơ cao: khi người bệnh ký để ra
sớm, khi đông ngươi bênh, giờ cap điểm hoặc thời điểm mệt mỏi.
- Thận trọng với nhóm người bệnh nguy cơ cao: lang thang, nghiện
rựu, nghiện thuốc, bạo lực bị lạm dụng, rối loạn tâm thần.
- Thận trọng với người bệnh quay lại: người bệnh có thể có vavs vấn đề
cấp cứu mà chưa được phát hiện hoặc chưa được xử trí đúng. Người bệnh
quay lại cũng là cơ hội tốt để chúng ta có thể sửa chữa các sai sót hoặc bỏ sót
trong chẩn đoán và xử trí của lần đến cấp cứu trước.
- Chó ý đến các chẩn đoán quan trọng có nguy cơ cấp cứu cao (cần
nghic đến và loại trừ trước ): NMCT, tác động mạch phổi, tắc động/tĩnh
mạch, xuất huyết dưới nhện, chảy máu náo ở người bệnh ngộ độc, viêm màng

não, viêm ruột thừa, chửa ngoài tử cụng, xoánh tinh hoàn, chấn thương gân
hoặc thần kinh…
- Thận trọng khi thấy có chẩn đoán ra trước đó khong phù hợp (không
tương ứng với dấu hiệu, triệu chứng…của người bệnh).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Russell Jones T. Approach to the Emergency Department Patient, In:
Current D & T Emergeny Medicine, 2008.
2. Rosen’s. 2006.
3. Vũ Văn Định “Nguyên lý cơ bản hồi sức cấp cứu” Hồi sức nội khoa,
NXB Y học 2003.
4. Nhận định và kiểm soát ban đầu người bệnh chấn thương
BÀI 1: ĐÁNH GIÁ VÀ XỬ TRÍ BAN ĐẦU MỘT NGƯỜI
BỆNH CHẤN THƯƠNG.
I. MỤC TIÊU.
- Xác định được chính xác các bước cần xử trí trong đánh giá và xử trí
người bệnh.
- Nhận biết dấu hiệu và triệu chứng tắc nghẽn đường thở cấp tính.
- Mô tả và thực hiện được kỹ thuật thiết lập và duy trì đường thở.
- Nắm rõ được khái niệm đánh giá ban đầu và đánh giá thì hai.
- Thực hiện được đánh giá bạn đầu và đánh giá thì hai trên người bệnh.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Xử trí người bệnh chấn thương thường là một việc căng thẳng đối với
các nhân viên y tế ngay cả ở những môi trương làm việc tốt. Khi xử trí các
trường hợp chấn thương, cần xem xét quy trình xử trí một người bệnh gồm 4
giai đoạn sau:
- Đánh giá ban đầu: Xác định các vấn đề đe doạ tính mạng người
bệnh.
- Hồi sức người bệnh: Xử trí các vấn đề đe doạ tính mạng người
bệnh
- Đánh giá thì hai: Thực hiện thăm khám toàn thân.

- Chăm sóc thực thụ; Xử trí toàn diện và xử trí các thương tích củ
thể.
III. ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU
Quá trình đánh giá người bệnh và thiết lập các ưu tiên trong việc chăm
sóc và điều trị phụ thuộc vào tình trạng thương tích của người bệnh, các chỉ
số sinh tồn và cở chế chấn thương. Các ưu tiên này giống nhau chó tất cả
những người bệnh chấn thương bao gồm người lớn, trẻ em, phụ nữ có thai. Ở
những người bệnh có các thương tích nghiêm trọng, thứ tự các ưu tiên chăm
sóc và điều trị phải dựa vào việc thăm khám tổng thể người bệnh. Các chức
năng sinh tồn của người bệnh cần phải được đánh giá một cách nhanh chóng
và hiệu quả. Quy trình xử trí một người bệnh bao gồm việc đánh giá ban đầu
một cách nhanh chóng, kèm với quá trình hồi sức tích cực để đảm bảo các
chức năng sinh tồn, đánh giá thì hai một cách tỉ mỉ và cuối cùng là tiến hành
chăm sóc thực thụ cho người bệnh. Trong cấp cứu chấn thương, quá trình
đánh giá phát hiện các thương tổn và xử trí người bệnh được thực hiện theo
trình tự ABCDE như sau:
A (Siway) Duy trì đường thở có bảo vệ cột sống cổ.
B (Breathing) Đánh giá Hô hấp và xử trí các thổn thương ngực gây đe
doạ đến tính mạng người bệnh.
C (Ciculation) Đánh giá Tuần hoàn và kiểm soát chảy máu.
D (Disability and neurological assessment) Đánh giá tình trạng thần
kinh và mức độ trị giác: thực hiện thăm khám thần kinh nhanh và phát hiện
các tổn thương chiếm chố gây tăng áp lực nội soi,
E (Exposure) Bộc lộ nạn nhân/kiểm soát môi trường xung quanh:
Khám xét toàn thân (cởi bỏ quần áo người bệnh (nếu có thể) để thực hiện việc
đánh giá, nhưng tránh làm mất thân nhiệt).
Trong giai đoạn đánh giá ban đầu, việc phát hiện các tổn thương đr doạ
tính mạng người bệnh và tiền xử trí, hồi sức và cấp cứu các tổn thương này
cần diễn ra đồng thời (trong vòng 1 phót).
1. Y trì đường thở và bảo vệ cột sống cổ

Mọi nỗ lực của nhân viên y tế cần phải tập trung vào việc nhanh chóng
phát hiện tình trạng suy thở và thiết lập một đường thở an toàn cho người
bệnh. Trong đánh giá ban đầu một người bệnh chấn thương, đường thở cần
phải được đánh giá trước tiên để xem có thông thoáng không. Giai đoạn đánh
giá nhanh này nhằm mục đích phát hiện các đấu hiệu tắc nghẽn đường thở do
dị vật, do gãy xương mặt, xương hàm dưới, do vì khí quản/thanh quản.
1.1. Duy trì đường thở
Các trường hợp tắc nghẽn đường thở phải được phát hiện nhanh chóng
và xử trí thích hợp trong giai đoạnh đánh giá ban đầu. Các tiếng thở rít, khò
khè, thở khàn và dậu hiệu co kéo thành nhực là các dấu hiệu tắc nghẽn đường
thở. Việc phát hiện các nguy cơ suy thở tiến triển cũng đặc biệt quan trọng.
Các phương pháp thiết lập một đường thở thông thoáng cần được thực
hiện trong khi cột sống cổ vẫn được bảo vệ. Trước tiên, cần thực hiện các thủ
thuật đơn giản nh nânn cằm, hay đẩy hàm để giuy trì đường thơt. Sau đó dùng
ống hút để hút sạch dịch tiết, đờm rãi trong đường thở, nên sử dụng ống hút
có khẩu kính lớn. Lấy bỏ các dị vật nếu có bằng cách dùng các ngón tay móc
vét dị vật hay dùng kẹp. Việc sử dụng các loại canyl đường thơt (ví dụ canyl
miệng hầu) có thể cần thiết giúp duy trig và khai thông đường thở ở những
người bệnh mất ý thức hay mất phản xạ ho.
Nếu người bệnh có thể nói được, thì có thể chắm chắn đường thở chưa bị
nguy hiểm ngay. Tuy nhiên , cần tiến hành việc thăm khám đường thở nhiều
lần để đảm bảo đường thở thông thoáng, đặc biệt ở những người bệnh có biểu
hiện suy hô hấp hay chấn thương hàm mặt. Hơn nữa, những người bệnh chấn
thương đầu nghiêm trọng kèm thưo tri giác điểm Glasgow (GCS) < 8 cần
được thiết lập đường thơt. Cần thiết lập đường thở cho người bệnh khi thấy có
dấu hiệu đáp ứng vận động thiếu chủ định. Xử trí đường thở ở người bệnh nhi
đòi hỏi nhân viên y tế phải có các kiến thức về giải phẫu ở trẻ em cũng như
các dụng cụ hỗ trợ đường thở dành cho trẻ em.
1.2. Bảo vệ cột sống cổ.
Khi đánh giá và xử trí đường thở cần thận, chú ý tránh các cử động mạnh

cột sống cổ. Đầu và cổ người bệnh không được quá duối hay quá gấp hay quá
nhiều trong khi thiết lập và suy trì đường thở. Một điều cần chú ý là thăm
khám thần kinh có thể không loại trừ được tổn thương cột sống cổ, sau đó sử
dụng các thiết bị bất động thích hợp. Nếu các thiết bị bất động cột sống phải
tạm thời tháo bằng tay của một nhân viên của nhóm cấp cứu.
Luôn nhớ: Phải nghi ngờ có tổn thương cột sống cổ bất kỳ ở người
bệnh đã chấn thương nào đặc biệt là ở những người bị suuy giảm ý thưc
hay bị chấn thương kín ở vị trí trên xương đòn.
2. Đánh giá hô hấp và xử trí đối với chấn thương ngực có nguy cơ đe doạ
tính mạng.
Bước đàu tiên trong xử trí suy hố hấo ở người bệnh chấn thương là phát
hiện các dấu hiệu của tình trạng suy hô hấo. Chẩn đoán ban đầu dựa vào đánh
giá lâm sàng với các dấu hiệu thông khí kém hay thông khí không hiệu quả.
2.1. Cơ chế hô hấp và quá trình trao đổi khí.
Một đường thở toàn vẹn chưa chắc đac đảm bảo thông khí đầy đủ. Quá
trình trao đổi khí đòi hỏi tăng tối đa bão hoà oxy và thải khí cacbonic. Quá
trình thông khí đòi hỏi sự toàn vẹn các chức năng của phổi, thành ngực và cơ
hoành. Mỗi một thành tố này có được thăm khám và đánh giá một cách nhanh
chóng.
Cấc béc lộ ngực người bệnh để có thể thăm khám được đầy đủ. Nghe
phổi để đánh giá tình trạng thông khí ở hai phổi. Quan sát chuyển động của
thành ngực, xem người bệnh có sử dụng các hô hấp phụ không và đếm nhịp
thở. Gõ phổi để xem có khí hay dịch ở trong khoang màng phổi không. Nhin
và sờ cũng có thể giúp phát hiện các tổn thương thành ngực gây suy hô hấp.
2.2. Các chấn thương ngực đe doạ đến tĩnh mạng
Các chấn thương ngực đe doạ ngay đến tính mạng người bệnh cần được
phát hiện và xử trí trong đánh giá ban đầu. Các chấn thương có thể gây suy hô
hấp cấp bao gồm tràn khí màng phổi nhiều và tràbn khí màng phổi hở. Các
tổn thương này cần được phát hiện trong giai đoạn đánh giá ban đầu. Tràn khí
màng phổi hay tràn máu màng phổi Ýt, gãy Ýt xương sương và đụng dập phổi

nhẹ có thể gây suy hô hấp nhẹ đến vừa và thường được phát hiện trong đánh
giá thì hai.
Tràn khí màng phổi dưới áp kực và tràn khí màng phổi hở cần được
phát hiện và xử trí trong đánh giá ban đầu. Tràn khí màng phổi dưới áp lực
gây suy hô hấo và tuần hoàn nghiêm trọng và cáp tính, nếu nghi ngờ phải
chọc kim để làm giảm áp lực nghiêm trọng khoang màng phổi ngay. Tràn khí
màng phổi hở cũng gây giảm thông khí nghiên trong và cấp tính, cần phải
bằng Ðp bịt kín tổn thương thành ngực ngay lập tức.
2. Đánh giá tuần hoàn và kiểm soát chảy máu
Chảy máu là nguyên nhân phổ biến nhất gây sốc và tử vong ở người
bệnh chấn thương. Tử vong có thể phòng tránh được nếu được xử trí kịp thời
và trước và tại bệnh viện. Cần phải cầm máu cho người bệnh càng sớm càng
tốt. Chảy máu bên ngoài được cầm bằng Ðp bến ngoài trực tiếp. Chảy máu
bên trong được cầm bằng các can thiệp phẫu thuật.
Bước đầu tiên trong xử trí sốc ở một người bệnh chấn thương là phát
hiện tình trạng sốc. Không có xét nghiệm cận lâm sàng nào có thể quyết định
chẩn đoán xác định sốc. Chẩn đoán ban đầu dựa vào các biểu hiện lâm sàng
của tình trạn tưới máu không đầy đủ cho các cơ quan và thiếu cung cấp oxy
cho các mô, chứ không nên chỉ căn cứ vào dấu hiệu tụt huyết áp. Trong chẩn
đoán và điều trị sốc, cần căn cứ vào định nghĩa sốc - đó là sự bất thường của
hệ tuần hoàn dẫn đến giảm tưới máu tổ chức và cung cấp oxy cho các mô, cơ
quan. Mức độ nặng của các dấu hiệu và triệu chứng của sốc tỷ lệ thuận mức
độ chảy máu.
Bảng 1: ước tính lượng máu và dịch mất dựa vào các biểu hiện ban đầu
Độ I Độ II Độ III Độ IV
Lượng máu < 750 750-1500 1500-2000 >2000
mất (m)
Lượng máu
mất (%tổng
lượng máu

<15% 15-30% 30-40% >40%
Mạch <100 >100 >120 >140
Huyết áp Bình thường Bình
thường
Giảm Giảm
Trương lực
mạch (mmHg)
Bình thường
hoặc tăng
Giảm Giảm Giảm
Nhịp nhở 14-20 20-30 30-40 >40
Lượng nước
tiểu (ml/h)
>30 20-30 5-20 Không
đáng kể
Tình trạng thần
kinh
Hơi lo lắng Lo lắng nhẹ Lo lắng lú lấn Hôn mê
Bù dịch Dịch tinh thể
(Crystaloid)
Dịch tinh
thể
(Crystaloid)
Dịch tinh thể
(Crystaloid)
Dịch tinh
thể và máu
3.1. Khối lượng tuần hoàn và cung lượng tim
Tụt huyết áp sau chấn thương cần phải được xem là giảm khối lượng
tuần hoàn (cho đến khi chứng tỏ được rằng không phải là như vậy). Do đó,

việc đánh giá nhanh và chính xác tình trạng huyết động của người bệnh là vô
cùng quan trọng. Theo dõi lâm sàng sẽ cung cấp những thông tin quan trọng
như mức độ ý thức, màu sắc da và mạch. Để đánh giá mức độ tưới máu tổ
chức, cần tìm các dấu hiệu đi kèm với giảm lưu lượng máu do giảm cung
lượng tim, ví dụ như nhịp tim nhanh, chi lạnh do hiện tượng co mạch, mạch
nhanh nhỏ và huyết áp động mạch tụt trong giai đoạn sau. Tốt nhất là sốc cần
phải được chẩn đoán trước khi người bệnh chuyển sang giai đoạn tụi huyết áp
rõ ràng.
3.2. Những điểm cần đặc biệt chú ý
Trẻ em, người già, các vận động viên, phụ nữ có thai và những người
có bệnh mạn tính không đáp ứng với giảm khối lượng tuần hoàn theo các
thông thường và thậm chí có biểu hiện bên ngoài rất “bình thường”. Do vậy,
cần phải đề phòng và có thái độ nghi ngờ cảnh giác với những trường hợp
này.
Chảy máu: Chảy mái bên ngoài cần được phát hiện và cầm máu trong
giai đoạn đánh giá ban đầu. Chảy máu ngoài gây mất máu nhanh vần được xử
trí bằng Ðp tiếp bằng tay trên vết thương. Các dụng cụ nẹp bằng hơi cũng có
thể giúp kiểm soát chảy máu. Không nên sử dụng garo vì garo có đè chặt lên
mô và gây thiếu máu ở ngoại vị, trừ một số trường hợp đặc biệt như thương
gây cắt cụt chi.
3.3. Các chấn thương nực đe doạ tính mạng gây sốc: Một người bệnh bị
chấn thương ở phía trên cơ hiành có thể có các dấu hiệu giảm tưới máu tổ
chức do chức năng co bóp của tim kém có thể do các nguyên nhân: chấn
thương tim. trang khí màng phổi dưới áp lực gây ra cản trở sự trở về của máu
tĩnh mạch, hay chảy máu nhiều vào trong khoang ngực
3.3.1. Tràn khí màng phổi dưới áp lực
Tràn khí màng phổi dưới áp lực là một trường hợp cấp cứu ngoại khoa
thực sự đòi hỏi phải được chẩn đoán và điều trị tức thời. Tràn khí màng phôit
dưới áp lực cơ thể gây ra các triệu chứng đau ngực và suy hô hấp cấp. Loại
tràn khí màng phổi này cũng có thể giảm huyết áp do gây chèn Ðp tĩnh mạch

chủ trên và/hoặc tĩnh mạch chủ dưới. làm giảm sự trở về của tĩnh mạch. Tràn
khí màng phổi dưới áp lực là một chẩn đoán lâm sàng và do đó không được trì
hoãn việc điều trị tới khi được xác định chắc chắn bằng kết quả chụp X –
quang. Điều trị tràn khí màng phổi dưới áp lực bằng cách chọc kim dẫn lưu để
giảm áp khoang màng phổi, sau đó có thể là đặt ống dẫn lưu màng phổi,
Tràn máu màng phổi có thể suy giảm cấp tính sự thông khí, xẩy ra khi
có trên 1500ml máu tích tụ trong khoang màng phổi. Tràn máu màng phổi
nhiều cũng nhanh chóng gây tụt huyết áp và sốc. Tràn máu màng phổi nhiều
được xử trí ban đầu bằng hồi phục khối lượng tuần hoàn đồng thời với dẫn
lưu năng cần phải mở ngực sớm để kiểm tra và cầm máu.
3.3.3. Chèn Ðp tim
Chèn Ðp tim có thể gây ra bởi sự chảy máu của các mạch máu lớn và
các mạch máu màng ngoài tim vào khoang màng ngoài tim. Nhanh chóng dẫn
lưu máu khoang màng ngoài tim (chọc dịch màng ngoài tim) được chỉ định
đối với những người bệnh có nguy cơ chèn Ðp tim.
4. Đánh giá tình trạng thần kinh và mức độ tri giác
Sau khi đánh giá và xử trí tuần hoàn, bạn cần tiến hành đánh giá các
chức năng thần kinh một cách nhanh chóng. Việc đánh giá tình trạng thần
kinh bảo gồm đánh giá mức độ ý thức cũng như kích thước và phản xạ đồng
tử của người bệnh. Để sơ bộ nhận định ý thức của người bệnh từ tỉnh đến hôn
mê có thể dựa vào các bước là các chữ cái đều viết tắt là tiếng Anh AVPU
đơn giản dễ nhớ sau:
A (Alert) Tỉnh.
V. (Responds to Vocal stimuli) - Đáp ứng với gọi hỏi.
P. (Responds to Painful stimuli) – Chỉ đáp ứng với các kích thích đau.
U. (Unresponsive to all stimuli) – Không đáp ứng với tất cả các kích
thích.
Thang điểm Glasgow đánh giá chi tiết hơn và có giá trị tiên lượng người
bệnh. Nếu chưa được sử dụng trong giai đoạn đánh giá ban đầu, thang điểm
này cần được áp dụng nhằm tìm kiếm các thông tin cần thiết khi khám thần

kinh cho người bệnh trong giai đoạn đánh giá thì hai.
Suy giảm trị giác có thể là biệu hiện của giảm cung cấp oxy cho não, hay
cũng có thể do tổn thương trực tiếp nhu môc não. Nếu có dấu hiệu suy giấm
trị giác, cần phải đánh giá lại việc cung cấp oxy, thông khí và tình trạng tưới
máu cho người bệnh. Rượu và/hoặc các thuốc khác cũng có thể làm thay đổi
trị giác của người bệnh. Tuy nhiên, nếu loại trừ được nguyên nhân do thiếu
oxy mô và tổn thương hệ thần kinh trung ương.
Người bệnh bị chấn thương sọ não cần được theo dõi toàn diện, đặc biệt
lưu ý phát hiện “khoảng tỉnh” thường xuuyên hiện trong chấn thương sọ não
có tụ máu ngoài màng cứng, nếu không được phát hiện người bệnh sẽ nhanh
chóng hôn mê sâu và tử vong. Việc đánh giá lại các chức năng thần kinh một
cách thường xuyên sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ tử vong này.
5. Đảm bảo thân nhiệt
Đệ tiện cho đánh giá và thăm khám toàn thân, cần cởi bỏ toàn bộ quần
áo người bệnh, thường bằng cách cắt bỏ quần áo ngoài. Khi kết thức việc
đánh giá, cần đắp chăn Êm cho người bệnh hay sử dung các vật dụng làm Êm
bên ngoài khác để phòng ngừa hạ thân nhiệt. Làm Êm các dịch truyền tĩnh
mạch trước khi truyền cho người bệnh và duy trì nhiệt độ phòng ở nhiệt độ
thích hợp.
Cần coi việc làm cho người bệnh và ngăn ngừa hạ thân nhiệt như một
việc quan trọng trong suốt quá trình đánh giá và hồi sức.
IV. HỒI SỨC CHO BỆNH NHÂN
Hồi sức được tiến nhành đồng thời với đánh giá ban đầu. Hồi sức tích
cực và xưt trí các thương tích đe doạ đến tính mạng phát hiện trong đánh giá
ban đầu là vô cùng quan trọng nhằm tăng khả năng sống sót cho người bệnh.
A. Đường thở
Đường thở cần được bảo vệ đối với tất cả những người bệnh và cần được
duy trì ở người bệnh có nguy cơ suy hô hấp. Có thể chỉ cần sử dụng các
nghiệm pháp đơn giản nh nâng cằm và đẩy hàm. Một canyl đường thở đặt
trong giai đoạn xử trí ban đầu có thể giúp thiết lập và duy trì đường thở thông

thoáng ở những người bệnh tỉnh. Nếu người bệnh không tỉnh và mất phản xạ
ho, canyl miệng hầu có thể hữu Ých thạm thời. Tuy nhiên, cần lập một đường
thở thông thoáng. Ở nhứng người bệnh suy thở do các yếu tố cơ học, hay có
các vấn đề về thông khí, hay những bệnh bất tỉnh, có thể thực hiện bằng cách
đặt nội khí quản (NKQ) đường miệng hay đường mũi. Chú ý bảo vệ cột sống
cổ liên tục khi thực hiện thủ thuật này. Phẫu thuật đường thở (mở màng nhẫn
giáp) được đặt ra khi có chống chỉ định hay không thể đặt ống NKQ đường
miệng hay đường mũi.
B. Hô hấp – thông khí/Thở oxy
Người bệnh chấn thương cần được cung cấp oxy để đạt được độ bão hoà
oxy tối ưu. Nếu người bệnh không phải đặt ống hau có thể tự thở được, vẫn
cần phải được thở oxy qua mask (loại không thở lại) để đạt được độ bão hoà
oxy tối đa. Nếu người bệnh được đặt ống NKQ, cần được cung cấp oxy và hỗ
trợ thông khí bằng thiết bị bóng bóp có van. máy đo độ bão hoà oxy mao
mạch rất có giá trị tring việc theo dõi độ bão hoà huyết sắc tố (Hb) đầy đủ.
Đặt ống dẫn lưu ngực là bắt buộc khi xử trí các trường hợp chấn thương
ngực đe doạ tức thời tính mạng người bệnh nh:
- Tràn khí màng phổi dưới áp lực, sau khi chọc kim giảm áp màng
phổi
- Tràn khí màng phổi hở , sau khi băng Ðp kín lên trên vết thương.
- Tràn máu màng phổi lớn cùng lúc với hoàn trả lại khối lượng tuần
hoàn.
C. Tuần hoàn
Bước đầu tiên, nhưng quan trọng nhất trong việc xử trí sốc là làm dừng
chảy máu. Cầm máu bằng cách Ðp trực tiếp lên trên vết thương hay can thiệp
phẫu thuật. Trừ một số trường hợp ngoại lệ, những người bệnh bị tụt huyết áp
khi nhập viện đòi hỏi phải được phẫu thuật cấp cứu.
Sau khi đã kiểm soát được tình trạng chảy máu, bước quan trọng thứ hai
trong xử trí sốc là bồi phụ khối lượng tuần hoàn. Cần đặt Ýt nhất hai catheter
tĩnh mạch có khẩu kính lớn.

Tốt nhất, nên thiết lập các đường truyền tĩnh mạch ở chỉ trên. Các biện
pháp như sử dụng đường truyền tĩnh mạch ngoại vi khác, mở tĩnh mạch, đặt
đường truyền tĩnh mạch trung tâm được sử dụng khi cần thiết, tuỳ thựôc trình
độ và kỹ năng của bác sỹ. Khi thiết lập đường truyền tĩnh mạch ngoại vị, cần
lấy máu để làm xét nghiệp nhóm máu, phạn ứng chéo và các xét nghiệp huyết
học cơ bản, bao gồm cả xét nghiệm thử phản ứng thai cho các phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ. Sau đó cần tiến hành truyền dịch cho người bệnh bằng dung
dịch muối đẳng trương. Tất cả các dịch truyền tĩnh mạch cần dược làm Êm
trước khi truyền (37 – 40
0
C).
Quyết định vẩn chuyển người bệnh
Trong giai đoạn đánh giá ban đầu và hồi sức, bác sỹ đánh giá người bệnh
thường có đủ thông tin để có thể đưa ra quyết định vẩn chuyển người bệnh tới
một cơ sở y tế thích hợp. Quyết định vẩn chuyển người bệnh được đưa ra khi
việc chữa trị người bệnh vượt quá khả năng của cơ sở chữa trị ban đầu. Người
bệnh cần được đáp ứng được nhu cầu điều trị của người bệnh, lý tưởng nhất là
một trung tâm điều trị chấn thương.
Khi ra quyết định vẩn chuyển người bệnh, việc trao đổi thông tin giữa
các bác sỹ ở cơ sở chuyển đi với các bác sỹ ở cơ sở nhận tiếp người bệnh
đóng một vai trò thiết yếu. Luôn nhớ, các phương pháp nhằm cứu sống tính
mạng người bệnh cần được bắt đầu ngay khi các vấn đề được phát hiện, chứ
không phải sau giai đoạn đánh giá ban đầu.
V. ĐÁNH GIÁ THÌ HAI
Chi tiết hành đánh giá thì hai sau khi giai đoạn đánh giá ban đầu
(ABCDE) đã được hoàn thành, các nỗ lực hồi sức người bệnh đã được thực
hiện, và chức năng sinh tồn của người bệnh đã ổn định trở lại.
Đánh giá thì hai là một đánh giá toàn diện, một thăm khám từ “đầu tới
chân” một người bệnh chấn thương, đó là việc khai thác đầy đủ bệnh sử và
thăm khám lâm sàng, gồm có việc đánh giá lại tất cả các dấu hiệu sinh tồn.

Mỗi một vùng cơ thể cần được đánh giá đầy đủ. Khả năng bỏ sót tổn thương
hay thất bại trong đánh giá mức độ nghiêm trọng một chấn thương là cao đặc
biệt ở những người bệnh không đáp ứng hay không ổn định.
Trong đánh giá thì hai, một thăm khám thần kinh toàn diện bao gồm
đánh giá thang điểm Glasgow, nếu chưa được thực hiện trong đánh giá ban
đầu. Trong giai đoạn này, các chỉ định chụp Xquang cho người bệnh được
thực hiện (chụp Xquang các vị trí nghi ngờ tổn thương). Các thăm khám này
có thể được tiến hành vào các thời điểm thích hợp trong đánh giá thì hai.
Các quy trình đặc biệt, ví dụ, các đánh giá chẩn đoán hình ảnh củ thể,
các xét nghiệm cận lâm sàng cũng được thực hiện trong giai đoạn này. Đánh
giá đầy đủ một người bệnh đòi hỏi các thăm khám lâm sàng nhiều lần.
1. Bệnh sử
Thăm khám đầy đủ bao gồm việc thu thập thông tin về cơ chế chấn
thương. Trong nhiều trường hợp, các thông tin về bệnh sử khồn thể thu thập
được từ người bệnh. Các nhân viên y tế trước bệnh viện và gia đình người
bệnh cần được thẩm vấn để thu thập các thông tin, vì những thông tin này làm
tăng sự hiểu biết về tình trạng các chức năng sinh lý của người bệnh. Sử dụng
cụm từ viết bằng tiếng anh AMPLE giúp ghi nghí trong việc thu thập các
thông tin về bệnh sử của người bệnh.
A. (Allergies) – Tiền sử về dị ứng.
M. (Medications currently used) – Các thuốc hiện người bệnh đang
dùng.
P. (Past illnesses/Pregnancy) – Tiền sử bệnh tật/thai nghén.s
L. (Last meal) – Bữa ăn cuối cùng của người bệnh.
E. (Events/Environmenr relaeted to the injury) – Các sự kiện/môi trường
liên quan đến thương tích của người bệnh.
Tình trạng của người bệnh bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cơ chế của chấn
thương. Các nhân viên y tế trước bệnh viện có thể cung cấp những thông tin
có giá trị về cơ chế chấn thương có thể dự đoán được dựa vào hướng đi của
lực tác động và nguồn năng lượng giải phóng. Chấn thương được chia ra làm

hai loại chính là chấn thương và chấn thương hở (xuyên).
1.1. Chấn thương kín
Chấn thương kín thường gặp trong tai nạn và chạm ô tô, ngã cà các
chấn thương liên quan đến giao thông, giải trí nghề nghiệp khác.
Loại chấn thương có thể dự đoán được dựa vào cơ chế chấn thương.
Loại hình chấn thương cũng ảnh hưởng bởi đổ tuổi và các hoạt động của
người bệnh.
1.2. Chấn thương hở.
Các yếu tố quyết định loại và mức độ chấn thương và cách thức xử trí
tiếp theo bao gồm vùng cơ thể tổn thương, các cơ quan, tổ chức gần với
đường đi của vật thể có tính chất đâm xuyên và tốc độ của vật gây sát thương.
Do vậy tốc độ, khẩu kính, hướng đi, khoảng cách của vật gây sát thương là
những yếu tố quan trọng để dự đoán sự lan rộng của tổn thương.
1.3. Các chấn thương do bỏng và lạnh.
Bỏng là một loại tổn thương đáng kể khác của chấn thương có thể xẩy
ra đơn lẻ hay có thể đi kèm với các chấn thương kín hay hở do hậu quả của
cháy xe hơi, nổ, mảng cháy sập, sử nỗ lực thoát ra khỏi đám cháy của người
bệnh, hay từ một sự tấn công sử dụng hoả khí hay dao. Các tổn thương so hít
phải hơi nóng và ngộ độc khí cacbon monoxit (CO) thường làm phức tạp
thêm các chấn thương do báng. Do đó, điều quan trọng là phải biết được
hoàng cảnh xẩy ra bỏng. Đặc biệt là kiến thức về môi trường nơi xẩy ra bỏng
(kín hay mở) các chất gây cháy (nhựa, các chất hoá học…) và các chấn
thương kèm theo có thể xẩy ra là rất quan trong chi việc điều trị người bệnh.
Những người bệnh bỉ bỏng hoá học bề mặt cơ thể cần được lấy vỏ các
chất hoá học và/hoặc phải xối sạch vùng da bị ảnh hưởng.
Hiện tượng hạ nhiệt độ nhanh hay từ từ mà cơ thể không được bảo vệ
khỏi quá trình mất nhiệt dẫn đến các tổn thương do lạnh toàn thân hay một

×