TRẦN VĂN ƠN ( 1931 – 1950 )
Trần Văn Ơn sinh năm 1931, dân tộc
Kinh, quê ở xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành,
tỉnh Bến Tre.Sinh ra trong một gia đình nông dân
nghèo, năm 1940, sau khi học xong tiểu học ở thị xã
Mỹ Tho, Trần Văn Ơn được lên Sài Gòn theo học tại
trường Pétrus Trương Vĩnh Ký.
Năm học 1947 – 1948, anh tham gia phong trào học
sinh yêu nước tại trường và gia nhập Hội học sinh
sinh viên Việt Nam - Nam bộ. Trần Văn Ơn đã vận
động nhiều học sinh tham gia bãi khố phản đối vua
bù nhìn Bảo Đại đến trường, tổ chức mítting kỷ niệm
ngày quốc tế lao động1-5
Anh đã tuyên truyền sách báo, tài liệu nói về chủ
nghĩa Mác,và Liên Xơ .Anh được phâncơng phát triển
thêm mạng lưới cơ sở Hội học sinh Việt Nam. Sáng
ngày 9-1-1950, Trần Văn Ơn đã dẫn đầu đồn biểu
tình với khẩu hiệu đòi quyền lợi cho học sinh, phản
đối độc lập giả hiệu. Vào lúc 13 giờ, chính quyền Sài
Gòn huy động một lực lượng lớn cảnh sát kết hợp
với lính lê dương bao vây khu vực học sinh biểu
tình. Một cuộc đàn áp đẫm máu diễn ra. Trần Văn Ơn
đã dũng cảm đương đầu với dùi cui, che chở cho
học sinh nhỏ tuổi và các nữ sinh thoát ra ngoài. Bọn
địch nổ súng, Trần Văn Ơn đã anh dũng hy sinh. Anh
vừa tròn19 tuổi. Ngày 23-3-2000 Trần Văn Ơn được
Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân.
LÝ TỰ TRỌNG (1915-1931)
Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng
quê xã Thạch Minh,huyện Thạch Hà, tỉnh
Hà Tĩnh, Gia đình bị giặc khủng bố phải
chạy sang Thái Lan và anh sinh ra ở đó.
Năm 1926, anh được sang Quảng Châu
học , rồi làm việc tại cơ quan Tổng bộ Việt
Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội.
- Năm1929 anh được phái về Sài Gịn
cơng tác ở cơ quan Trung ương An Nam
Cộng sản Đảng. Ngày 9-2-1931, trong
cuộc mít tinh kỷ niệm khởi nghĩaYên Bái,
anh bắn chết viên thanh tra cảnh sát Pháp
Lơ-Grăng để bảo vệ người diễn thuyết .
Anh bị bắt, bị tra tấn dã man rồi lại dụ dỗ,
nhưng anh ln ln giữ khí tiết cách
mạng. ữa đêm một ngày cuối năm 1931
kẻ thù đưa anh lên máy chém Trước lúc hy
sinh anh còn hát vang bài Quốc tế ca.Lúc
ấy anh mới 17 tuổi
NGUYỄN VĂN TRỖI ( 1940 – 1964 )
Ngô Gia Tự ( 1908 - 1935)
Quê anh ở xã Thanh Quýt, huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Năm 15 tuổi anh ra Đà Nẵng làm việc rồi vào Sài Gòn làm
thợ điện, trở thành một chiến sĩ giải phóng trong đơn vị
biệt động bí mật của Sài Gịn sau khi được tổ chức vào
Đồn Thanh niên.
Anh đã nhận nhiệm vụ chôn bom ở cầu Công Lý để giết tên
Mác Na-ma-ra. Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ đến Sài Gòn
để ra lệnh cho tay chân chống lại nhân dân ta.
Ngày 9-5-1964, trong khi chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ đặt
chất nổ ở cầu Công Lý thì anh bị địch bắt. Chúng tra tấn
anh rất dã man và tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng
anh khơng hề lay chuyển.Chúng hỏi anh muốn gì? Anh trả
lời: “Tao muốn giết hết bọn Mỹ, tao muốn miền Nam được
giải phóng.”
Cuối cùng chúng quyết định giết anh. Ra tới nới bắn người
ở trường bắn, chúng bịt mắt anh. Anh giật chiếc khăn ra
và nói:- “Khơng! Phải để tơi nhìn mảnh đất này! Mảnh đất
thân yêu của tôi”.
Và anh hô to: “Hãy nhớ lấy lời tôi:Đả đảo đế quốc Mỹ!Đả
đảo Nguyễn Khánh!Hồ Chí Minh mn năm!Hồ Chí Minh
mn năm!Hồ Chí Minh muôn năm!Việt Nam muôn năm!”
Anh đã được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.
Ngô Gia Tự sinh ngày 3-12-1908 ở làng Tam Sơn, phủ
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc
Ninh). Anh say mê đọc sách, học rộng tài cao, lại thêm
biết ni chí lớn lo nước thương dân. Người anh ruột là
Tri huyện muốn anh cố học để ra làm quan, nhưng ông
kiên quyết đi theo con đường cách mạng, cứu dân, cứu
nước.Từ năm 1926 anh gia nhập Việt Nam Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội, rồi được sang Trung Quốc dự
lớp huấn luyện. Giữa năm 1927 anh trở về nước, công
tác ở tỉnh bộ Bắc Ninh, anh gây dựng được nhiều cơ sở,
tích cực hoạt động trong nơng dân binh lính và bám sát
phong trào cơng nhân
.Cuối năm 1928, anh vào Sài Gịn hoạt động dưới lốt
cơng nhân khn vác, tuyên truyền giáo dục cách mạng,
tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh.Khỏang năm
1929, anh ra Hà Nội dự phiên họp thành lập chi bộ đảng
Cộng sản đầu tiên ở số nhà 5D phố Hàm Long (Hà
Nội).Sau đó được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời đảng bộ
Đảng Cộng sản Đông Dương ở Nam Kỳ.Cuối năm 1930,
anh bị địch bắt tại Sài Gịn đến 5-1933 thì bị đầy ra Côn
Đảo. Vào một đêm cuối tháng 1-1935, chi bộ nhà tù tổ
chức cho ơng và một nhóm anh em vượt Côn Đảo,
nhưng anh và các bạn đã mất tích giữa biển, Lúc ấy anh
trịn 27 tuổi.
Nguyễn Văn Cừ (1912 - 1941)
- Nguyễn Văn Cừ quê làng Phù
Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Năm 1926, tham gia lễ truy điệu Phan Châu Trinh
nên bị đuổi học.
- Năm 1929 Gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên và trở thành đảng viên Đông Dương Cộng sản
Đảng.
Những năm 1929 – 1930 hoạt động tại vùng mỏ, phụ
trách các chi bộ Đảng ở Mạo Khê, Cửa Ông, Cẩm Phả
Tháng1.1931 bị bắt giam ở Hoả Lò,kết án tù chung
thân ; Đến 1932 bị đày đi Côn Đảo. Anh tham gia các
lớp học lí luận cách mạng bí mật tổ chức trong nhà
tù; phụ trách tờ báo “Người tù đỏ”; viết bài cho tạp
chí “Ý kiến chung”. Năm 1936 ra tù trở về Hà Nội,
khôi phục và tham gia Xứ uỷ Bắc Kỳ, trực tiếp lãnh
đạo phong trào Mặt trận Dân chủ. Tháng 9-1937 là Uỷ
viên thường vụ Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản
Đông Dương . Tháng 3.1938, được cử làm tổng bí
thư của Đảng. Tháng11-1939 Chủ trì Hội nghị VI của
Ban Chấp hành TW Đảng ở Hóc Mơn, Gia Định nêu
cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thành lập Mặt
trận Thống nhất Dân tộc Phản đế. Thang1-1940 bị
thực dân Pháp bắt kết án tử hình. Và anh bị bắn ngày
28-8-1941 ở Hóc Mơn . Nguyễn Văn Cừ là một chiến
sĩ cộng sản kiên cường, , đã cống hiến trọn đời mình
cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam .
CÙ CHÍNH LAN
( 1930 – 1952 )
Cù Chính Lan sinh năm 1930 ở xã Quỳnh
Đôi,huyện Quỳnh Lưu ,tỉnh Nghệ Tĩnh trong
một gia đình nơng dân nghèo. Năm 1945 anh
tham gia cùng nhân dân cướp chính
quyền .Năm 1951 anh tham gia chiến dịch
Hồ Bình cùng đồng đội bắn cháy 4 xe
tăng ,một chiếc chạy theo hướng Xuân Mai
nhả đạn vào trận địa,anh đã bám theovà dùng
lựu đạn đánh vào chiếc xe ấy bốc cháy,anh
được thưởng huân chương quân công với
danh hiệu anh hùng đánh xe tăng.
Năm 1952 trong trận đánh CôTô, anh đã anh
dũng chiến đấu dù mất lần từng cánh tay,
cánh chân, cịn miệng anh vẫn cương quyết :
“ Tơi còn mồm, chỉ huy chiến đấu được”.
Triệt hạ đồn xong anh tắt thở. Lúc đó anh
mới 23 tuổi. Được nhà nước phong danh
hiệu “Anh hùng quân đội nhân dân” là liệt sĩ
TRẦN PHÚ
NGÔ MÂY (1922 – 1947 )
( 1904 – 1931 )
Ngô Mây sinh năm 1922 - quê ở
làng Cát Chánh ,huyện Phù Cát ,tỉnh Bình Định.
Mồ cơi cha từ thưở nhỏ
Trần Phú sinh ngày 1-5-1904 quê xã
Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm1924 tham gia Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội lấy tên là Lý Quý.
Năm 1925 tham gia cách mạng Việt Nam cộng
sản Đảng
Năm 1927 học tại Mac-cơ-va
Năm 1929 bị Pháp kết án tử hình vắng mặt
Năm1930 về nước hoạt động
Tháng 10-1930 thảo ra luận cương chính trị
của Đảng và được bầu làm tổng bí thư đầu
tiên của Đảng.
Ngày 19-4-1931 bị bắt tại Sài Gòn ,chúng
đánh đạp tra tấn hết sức dã man,sau đó
chúng đưa anh vào nhà thương Chợ Qn
(Sài Gịn) nhưng khơng chịu đựng nổi anh
đã mất vào ngày 3-9-1931
Mùa thu năm 1945 anh trơ thành đội viên đội “Tự
vệ sắt” của làng.
Theo lời Bác gọi “ Thanh niên cảm tử cho tổ
quốc quyết sinh” anh có mặt ngay trong đội cảm
tử của tỉnh nhà. Anh viết quyết tâm thư nguyện
ôm bom giết giặc.
Anh được bố trí mai phục ở trong rừng suối Vơi,
Hơn một đại đội Âu Phi và bốn xe cơ giới ầm ầm
lao trên đường An Khê,anh ôm bom ra nấp ở vệ
đườngchờ giặc đến.Như kế hoạch quân ta rút
lui, giặc mắc mưu xơng ra miệng hị hét:-Việt
Minh đâu,Việt Minh đâu? Như ánh chớp Ngô Mây
vụt lên thét lớn :”Việt Minh đây”
Bọn giặc thấy anh một mình liền ùa tới toan bắt
sống,anh liền nhấc bổng quả bom lao lên phía
giặc: “Ầm”,tiếng nổ xé trời ,bọn giặc tiêu tan.trái
bom của anh đã chặn đứng cuộc đụng độ đàu
tiên mở đường cho các trận ác liệt sau nầy.
Ngô Mây đã hy sinh nhưng tấm gương ngưòi liệt
sỹ trẻ tuổi “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”
chẳng bao giờ phai. Anh hy sinh năm 1947.
Tô Hiệu (1912-1944)
Tô Hiệu người làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ,
huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên. Cha ông làm
nghề dạy học. Những năm 1925-1926 ông theo
học trường Pháp - Việt tại thị xã Hải Dương,
tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội
Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh nên bị đánh
trượt trong kỳ thi tiểu học. Năm 1927 Tô Hiệu lên
Hà Nội, vừa học vừa kiếm tiền nuôi thân, vừa
tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào
học sinh. Sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đơng Dương. Năm 1930 ơng bị chính quyền
thực dân Pháp bắt, chúng kết án 4 năm tù giam,
đày đi Côn Đảo. Mùa thu năm 1938, ông được
Trung ương Đảng phân công phụ trách miền
duyên hải Bắc kỳ, trực tiếp làm Bí thư Ban cán
sự Đảng Hải Phịng. Ngày 30/5/1939, Tơ Hiệu
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế
nước. Ngày 1/12/1939, ông bị bắt trên đường đi
in tài liệu ở Hải Phịng .Năm 1940 ơng bị đày lên
Sơn La. Tại đây Tơ Hiệu được bầu làm Bí thư chi
bộ Đảng, ơng đã lãnh đạo anh em kiên trì đấu
tranh địi cải thiện chế độ nhà tù. Ngày 7/3/1944
Tô Hiệu qua đời tại Sơn La. Mộ ông được an
tháng tại nghĩa địa Vườn Ổi. Hưởng dương 32
tuổi.
Nguyễn Viết Xuân
MẠC THỊ BƯỞI (1927-1951)
( 1934 – 1964 )
Nguyễn Viết Xuân - (sinh ở xã Ngũ Kiên, huyện
Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). 18 tuổi, anh xung
phong vào bộ đội ở trung đoàn pháo cao xạ.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị chiến
đấu của anh đã bắn rơi nhiều máy bay địch.Năm
1964, đơn vị anh đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ bầu
trời phía Tây Quảng Bình. Buổi sáng ngày 1811- 1964, đơn vị anh đã đánh trả nhiều đợi tiến
công điên cuồng của lũ máy bay Mỹ với tiếng hô
vang "Nhằm thẳng quân thù, bắn!".
Lúc bị thương nát đùi bên phải, anh yêu cầu cắt
bỏ chân và tiếp tục đưa vào bờ công sự, chỉ huy
chiến đấu .Khi bầu trời khơng cịn bóng giặc mọi
người hùa đến nhưng anh đã hy sinh –
Lời hô "Nhằm thẳng quân thù, bắn!" trở thành
bất tử, đã làm bạt vía quân thù và là biểu tượng
của khí phách tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc
chống chiến tranh phá hoại bằng không quân Mỹ
đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Mạc Thị Bưởi sinh năm 1927 tại xã Nam Tân,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trong Cách mạng
tháng Tám, cô tham gia Phụ nữ Cứu quốc tại địa phương.
Sau khi Pháp tái chiến Đông Dương, cơ bắt đầu tham gia
lực lượng du kích và là một cán bộ chính trị cơ sở, hoạt
động ở địa phương, vốn nằm trong vùng kiểm soát của
quân đội Pháp.
Năm 1949, quân đội Pháp xây dựng bốt (đồn)…, liên tục tổ
chức càn quét ở xã Nam Tân. Vì vậy cán bộ ở xã phải
sang các vùng lân cận, Mạc Thị Bưởi vẫn tiếp tục ở lại
xây dựng tổ chức cho Việt Minh . Hơn thế, cơ cịn tổ chức
các tổ nữ du kích, xây dựng cơ sở ở xã; vận động quần
chúng chống nộp thuế, đi phu cho quân Pháp.
Năm 1950, quân Việt Minh tấn
công đồn Thanh Dung, Mạc Thị Bưởi đã thực hiện việc
trinh sát tiền trạm, tạo cơ sở để trận đánh thành công.
Quân đội Pháp nhiều lần treo giải thưởng để bắt Mạc
Thị Bưởi, nhưng đều không thành công. Năm 1951, cô
làm nhiệm vụ vận động nhân dân vùng tạm chiếm chuẩn
bị g ạo s ữa chuyển ra vùng tự do phục vụ chiến dịch
Trần Hưng Đạo, đánh đường 18. Trong một chuyến vận
chuyển đó, bà bị quân Pháp phục kích bắt được và tra tấn
tàn bạo. Cô kiên quyết không khai một lời và bị giết vào
ngày 23 tháng 4 năm 1951, khi đó cơ mới 24 tuổi . Ngày
31- 8 -1955, Mạc Thị Bưởi được nhà nươc truy tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân
chương quân công hạng2
PHAN ĐÌNH GIĨT ( 1922 – 1954 )
Phan Đình Giót sinh
năm 1922, dân tộc Kinh, quê
ở Làng Tam Quang, huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tỉnh, bố
chết sớm hai mẹ con lam lũ
nghèo khó
Năm 1950 anh mang cát sỏi vào mình cho đủ
cân để được tòng quân đánh Pháp.
Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, đơn vị của ông nổ
súng tiêu diệt Him Lam. Cả trận địa rung chuyển mù
mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị.
Các chiến sỹ đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp
đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh
quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung
phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung
hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa. Đồng đội bị
thương vong nhiều.
Lửa căm thù bốc cao, ông lao lên đánh liên tiếp hai
quả nữa phá toang hàng rào cuối cùng, mở thông
đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi
dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót
vọt lên bám chắc lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm
chế cho đơn vị tiến lên. Ông lại bị thương vào vai,
máu chẩy đầm đìa. Nhưng bất ngờ từ hỏa điểm lơ cốt
số 3 của lính Pháp bắn rất mạnh. Lực lượng xung kích
bị ùn lại, Phan Đình Giót cố gắng lê lên nhích dần đến
gần lơ cốt số 3 với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là dập
tắt ngay lơ cốt này. Đã dùng hết sức mình cịn lại nâng
tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng hơ to:
“
"Quyết hy sinh… vì Đảng… vì dân "
”
Rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình vào bịt kín lỗ
châu mai địch. Hỏa điểm lợi hại nhất của quân Pháp
đã bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão,
tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong
trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước
khi hy sinh, Phan Đình Giót đã được Tiểu đoàn, Đại
đoàn khen thưởng 4 lần.
Anh hy sinh ngày 13/3/1954, là anh hùng Lực lượng Vũ
trang Nhân dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh
là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428,
Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam. Huân chương Qn cơng hạng Nhì.
Tô
Tô Vĩnh Diện (1924-1953)
VŨ BẢO
( 1949 – 1963 )
Tô Vĩnh Diện - sinh nǎm 1924,
quê ở xã Nông Trường huyện Triệu Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Nhà nghèo, từ 8 đến 20 tuổi phải
đi ở cho địa chủ, chịu đựng bao cảnh áp bức
bất cơng.
Tháng 7-1949, xung phong vào bộ đội,
hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao. Tháng 5-1953, quân đội ta thành lập các
đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn, Tô
Vĩnh Diện được điều làm tiểu đội trưởng một
đơn vị pháo. Trên đường kéo pháo ở Điện
Biên, pháo lao nhanh xuống dốc, Tô Vĩnh
Diện xông lên trước, lấy thân mình chèn bánh
pháo, cứu pháo an tồn, hy sinh một cách
anh dũng. Anh đã được Quốc hội truy tặng
Huân chương Quân công hạng Nhất và danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sĩ Vũ Bảo tên thật là Võ Văn
Bảo, sinh năm 1949 trong một gia đình nghèo có
truyền thống cách mạng tại xã Cát Khánh (Phù
Cát) Bình Định. 14 tuổi, Vũ Bảo đã giác ngộ cách
mạng và tham gia làm giao liên du kích. Với lịng
nhiệt tình, xơng xáo và mưu trí, Vũ Bảo ln
hồn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
Ngày 20/7/1963, giặc bất ngờ đổ qn bao vây
thơn An Quang hịng tiêu diệt các cán bộ cách
mạng đang công tác tại đây. Trong lúc chèo
thuyền đưa các cán bộ vượt vòng vây, Vũ Bảo
đã anh dũng hy sinh. Trước khi hy sinh, Vũ Bảo
nói: "Một mình cháu hy sinh cũng khơng ảnh
hưởng nhiều đến cách mạng. Nếu các chú hy
sinh thì thiệt hại cho Tổ quốc, cho đồng bào
nhiều lắm." Hành động hy sinh dũng cảm của Vũ
Bảo đã được Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương chiến
sĩ giải phóng hạng ba. Ngày 17/7/2002, Chủ tịch
nước đã truy tặng liệt sĩ Vũ Bảo danh hiệu “ Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân”
DƯƠNG VĂN NỘI
Dương Văn Nội tham gia Đội thiếu niên cứu quốc
Thủ Đơ từ tháng 10 năm 1946. Lúc đó Nội mới 14
tuổi, Nội cùng hơn 60 bạn khác ở các phố Đội Cấn,
Ngọc Hà… vào đội giao thông thuộc khu Thăng
Long. Đầu tháng 12 năm 1946, trước ngày toàn quốc
kháng chiến ít hơm, Nội được cử sang làm liên lạc
cho một đại đội tự vệ chiến đấu ở khu Thăng Long. .
Đến tháng 3 năm 194, đơn vị của Nội về đóng ở chợ
Giang Xá và lấy tên là Đội du kích Thủ Đơ. Đầu tháng
4 năm 1947, giặc Pháp mở cuộc hành quân lớn gồm
nhiều mũi càn quét vào nơi Đội du kích Thủ Đơ đóng
qn. Nội đã cùng các anh tham gia chiến đấu. Với
khẩu súng trường cao gần bằng người. Nội bình tĩnh
và nhanh nhẹn bắn giặc. Một mình Nội đã hạ được 3
tên giặc Pháp. Sau đó, súng hết đạn, Nội bị trúng đạn
giặc hy sinh ngay tại trận. Hôm ấy là ngày 2 - 4 1947, Nội vừa bước sang tuổi 15. Dương Văn Nội đã
được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương
chiến thắng hạng nhì.
HỒ VĂN MÊN
Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại ấp Thạnh Lộc, xã An
Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh Sơng Bé trong một gia đình
nghèo. Lên 6 tuổi, mồ côi mẹ. Năm 10 tuổi, cha bị bọn
Mỹ Ngụy bắt đánh đập tàn phế rồi giết chết. Hồ Văn Mên
liền vào đội thiếu nhi tham gia giết giặc từ đấy. Đến năm
13 tuổi, đã tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch,cùng
nhiều xe cơ giới của địch. Sống với bà nội, Mên tỏ ra là
đứa cháu ngoan, đỡ bà việc nhà, cùng bà đi chợ bán
trầu cau lấy tiền sinh sống.Nhiều nơi mang dấu tích và
chiến cơng của anh như: Cua Cát, Phú Văn, Chợ Mới…
đã đi vào lịch sử đánh giặc của tỉnh Sông Bé.Một lần bị
giặc bắt, Mên đã tìm cách trốn thốt và lại tiếp tục đánh
giặc.Trận đánh nổi tiếng nhất là trận diệt hơn 59 tên sĩ
quan và binh lính ngụy ở sịng bạc Phú Văn.Hồ Văn Mên
đã được tặng ba danh hiệu vẻ vang: dũng sĩ diệt Mỹ,
dũng sĩ diệt xe cơ giới, dũng sĩ diệt xe cơ giới cấp
ưu tú.Năm 1967, Hồ Văn Mên được ra miền Bắc thăm
Bác Hồ và là đại biểu nhỏ tuổi nhất trong đoàn thiếu nhi
dũng sĩ miền Nam ngày đó.Anh mất ngày 5-3-1984 do
vết thương ở sọ não trong trận đánh giặc trước đây tái
phát.
KƠ-PA-KƠ-LƠNG
NƠ TRANG LƠNG
Kơ-pa-kơ-lơng sinh ngày 19-8-1948 dân tộc Gia
Rai,Tây nguyên.Căm thùMỹ-Diệm giết cha trong cuộc
nổi dậy của dân làng,anh quyết chí trả thù.
Từ khi thực dân pháp đặt chân lên vùng Tây
nguyên,các cuuộc nổi dậy của đồng bào miền
núi xảy ra liên tục.Quan trọng nhất là cuộc nổi
dậy của người anh hùng Tây nguyên- Nơ Trang
Lơng chống lại âm mưu bình định Tây nguyên.
13 tuổi anh đã xin vào đội du kích ,nhưng khơng
đựoc chấp nhận,anh liền tự làm nỏ,phục kích bắn bị
thương 1 tên giặc,nó khơng chết vì tên khơng tẩm
thuốc độc.anh bèn xin người già mũi tên có độc và
bắn chết 3 tên liền.Thế là anh được nhận vào đội du
kích và dược phát súng với 3 viên đạn phải hạ đựoc
3 tên giặc.KơPa Kơ lơng đã bắn phát thứ nhất xâu
liền 5 tên,phát thứ hai xau liền ba tên cịn viên thứ
ba anh nộp lại vì đã hai quá 3 tên. Đến một trận khác
anh bắn 3viên hạ 7 tên ,một lần khác nữa anh bắn 7
viên hạ 19 tên giặc.
Trong đơn xin gia nhập quân đội anh viết “ em đã
giết 34 tên Mỹ nguỵ,phá được 8 xe cơ giới , nay em
đã lớn xin cấp trên cho em được vào quân giải
phóng.
Năm 15 tuổi KơLơng đã đánh 30 trận,giật 12 quả mìn
lật nhào 8 xe cơ giới,diệt 88 tên địch,trong đó cố 4
tên Mỹ.
KơPa KơLơng được tặng danh hiệu anh hùng quân
đội
Thành tích nổi bật nhất là trận hạ đồn Bù-mêra ,giết được tên sĩ quan khét tiếng Hăng-ri met:
Lúc ấy năm 1911 Hăn-ri-met hành quân vào
vùng Mnông đốt làng hãm hiếp và giết cả nhà
Nơ-trang-lơng.
Năm 1914 Nơ trang lơng cùng em lập mưu gạt
Hăng ri met kéo quân ra khỏi đồn,Ngiã quân chia
làm 2 cánh .một cánh giết chết Hăng ri met,một
cánh triệt hạ đồn Bù mê ra.
Nơ Trang Lơng tiếp tục cầm đầu cuộc kháng
chiến đến tháng 5 -1935 ông đã hy sinh
Từ đó trong lịch sử tên tuổi Nơ Trang Lơng
đựoc nhắc đến như các anh hùng của dân tộc
Lê Thị Hồng Gấm
(1951-1970)
Lê Thị Hồng Gấm, sinh nǎm 1951, trong một
gia đình nơng dân lao động ở xã Long Hưng,
huyện Châu Thành, Mỹ Tho (nay thuộc Tiền
Giang). Tham gia cách mạng từ nhỏ, việc gì
được giao cũng nhận và hǎng hái làm trịn.
Đối với đồng đội thì ơn nghĩa chí tình như đứa
em gái.
Chị hi sinh trên đường giao liên vào xuân
1970, sau khi một mình tiêu diệt nhiều tên
địch, bắn rơi máy bay lên thẳng của địch. Bi
thương nặng biết không qua khỏi, chị đã bắn
đến viên đạn cuối cùng, gắng sức đập gẫy nát
khẩu súng không để lọt vào tay địch. Lúc đó
Hồng Gấm mới 19 tuổi.
Phan Đăng Lưu (1902 - 1941)
Phan Đăng Lưu (1902 - 1941), nhà hoạt động nổi
tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam . Quê: xã Tràng
Thành (nay là Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh
Nghệ An. Tốt nghiệp Trường Canh nông (Tuyên
Quang). Tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân
Việt Cách mạng Đảng), uỷ viên Tổng bộ. Năm 1928,
tham gia xuất bản “Quan hải tùng thư” tại Huế; uỷ
viên thường vụ của Tổng bộ Đảng Tân Việt. Đại diện
Đảng Tân Việt sang Quảng Châu để bàn việc hợp
nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Bị bắt
tại Hải Phòng (9.1929), bị kết án tù khổ sai và đày đi
Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, tham gia lãnh đạo
phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế. Uỷ viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
(1938); uỷ viên thường vụ (1940), được phân công
chỉ đạo phong trào ở Nam Kỳ. Dự Hội nghị VI
(11.1939, hội nghị quyết định nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân
tộc Phản đế) và Hội nghị VII (11.1940) của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Bị bắt 22.11.1940 khi vừa về
đến Sài Gòn. Bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị
bắn ở Hóc Mơn (28.8.1941). Phan Đăng Lưu là một
chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đã cống
hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân Việt Nam
Phạm Hồng Thái (1895-1924)
Phạm Hồng Thái (tên thật: Phạm Thành Tích); liệt sĩ
chống Pháp nổi tiếng đầu thế kỉ 20. Quê: làng Do
Nha, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Học Trường
Kĩ nghệ Hải Phịng (1916). Năm 1919, cơng nhân Nhà
máy điện Hãng SIFA, tham gia đấu tranh, bị sa thải.
Năm 1923, làm ở Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Tháng
1.1924, cùng Lê Hồng Phong sang Xiêm (Thái Lan)
rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 4.1924,
gia nhập Tâm tâm xã do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng
Sơn thành lập (1923). Tháng 4.1924, ám sát toàn
quyền Meclanh (Merlin). Ngày 19.4.1924, Phạm Hồng
Thái giả làm phóng viên, lọt vào khách sạn Vichtoria
ở Sa Diện, tô giới của Pháp ở Quảng Châu, nơi
Meclanh dự tiệc, ném tạc đạn và Meclanh bị thương
nhẹ. Phạm Hồng Thái bị truy đuổi phải nhảy xuống
sông Châu Giang hi sinh.
Di hài được chính quyền Trung Hoa mai táng ở núi
Hoàng Hoa Cương, khu mộ của 72 liệt sĩ Trung Quốc
hi sinh trong cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), có bia
đề “ Việt Nam liệt sĩ Phạm Hồng Thái chi mộ ”.