Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào thi đua yêu nước là một sáng tạo rất đặc sắc của cách mạng
Việt Nam theo đường lối chủ nghĩa Mác – Lênin và những kinh nghiệm quý
báu của Liên Xô, Trung Quốc. Trong thời kỳ kháng chiến nó đã phát huy
đến cao độ nhiệt tình yêu nước của nhân dân ta, từ phòng ngự chuyển sang
phản công, đập tan xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, hoàn toàn giải phóng đất
nước, đem lại hòa bình, độc lập, chủ quyền cho nhân dân. Những anh hùng,
chiến sỹ thi đua là những công nhân, nông dân, lao động chân tay và trí óc,
một lòng một dạ trung thành với nhân dân, với Đảng và chính phủ, hi sinh cả
tính mạng của mình để giành lấy tự do cho dân tộc.
Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, phong trào thi đua yêu nước không
ngừng phát triển và mở rộng trong hoàn cảnh mới và điều kiện thuận lợi
mới. Rõ ràng thi đua là một phong trào cách mạng, một phương pháp công
tác cách mạng, chỉ có dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng cách mạng, dưới
một chính thể cách mạng thì mới có một phong trào quần chúng thi đua
mạnh mẽ, phấn khởi vì lợi ích của cách mạng và lợi ích của bản thân mình.
Phong trào thi đua yêu nước không những nhằm đạt được những mục tiêu
phấn đấu cụ thể của từng lúc mà còn nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của
quần chúng, nâng cao giác ngộ giai cấp và ý thức chủ nhân của đất nước.
Phong trào thi đua yêu nước của nhân dân ta ngày càng củng cố khối
đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công nông, phát triển chế độ ta về
kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, đoàn kết mật thiết với các nước anh em
trong phe Xã hội chủ nghĩa.
Thi đua yêu nước là một phong trào quần chúng nảy nở và phát triển
trong đấu tranh cách mạng, dưới sự chỉ đạo của một chính Đảng cách mạng,
một chính quyền cách mạng. Phong trào thi đua yêu nước là một sản phẩm vĩ
đại, đẻ ra trong kháng chiến chống ngoại xâm ở Việt Nam rất đáng được
quan tâm nghiên cứu.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
1
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Tháng 6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 195 thành lập
Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương. Sau đó, ngày 11/6/1948, Hồ chủ
tịch đã ra lời kêu gọi chính thức phát động Cuộc vận động thi đua ái quốc
với mục đích: diệt giặc đói; diệt giặc dốt; diệt giặc ngoại xâm với cách làm là
dựa vào lực lượng và tinh thần của dân để đạt kết quả: dân tộc độc lập - dân
quyền tự do - dân sinh hạnh phúc.
Kể từ đó trở đi, phong trào thi đua ái quốc (sau gọi là thi đua yêu
nước) diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Tùy theo tình hình thực tế của đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử mà Ban thi đua đề ra những yêu cầu, mục đích
khác nhau và cứ cách vài năm, các đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn
quốc được tổ chức một lần. Trong những kỳ đại hội ấy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đều tham dự và tận tình quan tâm, động viên, khuyến khích, khen
thưởng kịp thời.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Thái Nguyên
được Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ chọn làm nơi xây dựng An
toàn khu (ATK) căn cứ địa cách mạng, trong đó Thái Nguyên có vinh dự ở
vào vị trí trung tâm của Thủ đô kháng chiến với bao địa danh đã đi vào lịch
sử như: Khau Tý, Tỉn Keo, Điềm Mạc, Phú Đình, Bảo Biên, Định Biên
(Định Hóa) Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thái Nguyên cũng anh
dũng đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ và chi viện cho
miền Nam. Trong hai cuộc kháng chiến ấy, Thái Nguyên là một trong những
tỉnh có phong trào thi đua yêu nước lớn mạnh trong cả nước. Và chính nhờ
hưởng ứng tốt phong trào thi đua yêu nước mà lịch sử cách mạng Thái
Nguyên là lịch sử cách mạng đầy chiến công. Cuộc vận động thi đua yêu
nước ở Thái Nguyên trở thành vấn đề rất tiêu biểu của lịch sử yêu nước, đấu
tranh cách mạng của tỉnh mà qua đó thấy được truyền thống lịch sử hào hùng
của nhân dân Thái Nguyên trên tất cả các mặt, ở mọi thời điểm.
Là một người con của mảnh đất Thái Nguyên anh hùng, em rất mong
muốn hiểu rộng, hiểu sâu về lịch sử cách mạng của quê hương mình. Đó vừa
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
là điều khiến em tự hào vừa là đóng góp dù chỉ là nhỏ bé cho quê hương. Em
mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Cuộc vận động thi đua yêu nước ở
Thái Nguyên (1948 – 1975)”.
Một lý do khác khiến bản thân em hứng thú với đề tài là việc sau này
em sẽ trở thành một người giáo viên dạy lịch sử. Muốn có những bài giảng
hay và những kiến thức đúng truyền đạt cho học sinh thì phải hiểu về lịch sử
địa phương, hiểu lịch sử địa phương để hiểu lịch sử dân tộc.
Nghiên cứu đề tài em sẽ có điều kiện để hiểu thêm về phong trào thi
đua yêu nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong lịch sử đấu tranh
cách mạng cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phong trào thi đua yêu nước là một vấn đề mang tính toàn diện. Có thể
nói nó giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong trong cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện nay. Cho nên, nghiên cứu phong trào thi đua yêu nước luôn là vấn đề thu
hút nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, thi đua yêu nước ở Thái Nguyên thì cho
đến nay vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào viết. Hầu hết các tài liệu
đã công bố chỉ nói đến một vài phong trào tiêu biểu mang tính chất minh họa
cho một thời kỳ, một phương pháp đấu tranh cách mạng cụ thể.
Cuốn “Thái Nguyên, 40 năm xây dựng và trưởng thành (1945 – 1985)
do Ban thường vụ thành ủy Thái Nguyên xuất bản năm 1985 ở một khía
cạnh nào đó đã nhắc tới các phong trào thi đua yêu nước ở Thái Nguyên và
nêu một số thành tích thi đua cụ thể. Cuốn “Chiến sỹ thi đua tỉnh Thái
Nguyên”, Ty tuyên truyền văn hóa Thái Nguyên xuất bản năm 1953 cũng có
những dẫn chứng cụ thể về các gương điển hình trong phong trào thi đua yêu
nước ở Thái Nguyên thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đó thực sự là những
nguồn tư liệu quý bổ sung cho việc làm sáng tỏ đề tài về mặt sự kiện cũng
như dẫn chứng minh họa.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Với mong muốn làm sáng tỏ về cuộc vận động thi đua yêu nước sôi nổi
ở Thái Nguyên trong hai cuộc kháng chiến, dưới góc độ phân tích, đánh giá
một cách sâu sắc, toàn diện, khách quan, em chọn nghiên cứu đề tài: “Cuộc
vận động thi đua yêu nước ở Thái Nguyên (1948 – 1975)”.
Do còn hạn chế về trình độ cũng như khó khăn trong việc tìm các
nguồn tư liệu nên việc nghiên cứu đề tài sẽ không tránh khỏi những khiếm
khuyết, sai lầm. Song, với những cố gắng có thể, bản thân em vẫn mạnh dạn
nghiên cứu đề tài, mong muốn có được những hiểu biết thêm về lịch sử cách
mạng quê hương, mặt khác cũng mong có được những kinh nghiệm cho
những nghiên cứu về sau.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập chung nghiên cứu về cuộc vận động thi đua yêu nước ở Thái
Nguyên giai đoạn từ (1948 – 1975), tức là từ khi Hồ Chủ tịch phát động
phong trào thi đua yêu nước trong toàn quốc (tháng 6/1948) tới khi giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), trong đó chú
trọng tới việc phân tích, đánh giá về các phong trào thi đua sản xuất, chiến
đấu, chi viện của quân và dân Thái Nguyên, nêu lên các thành tích cụ thể mà
nhân dân Thái Nguyên đã đạt được trong các phong trào thi đua này. Đồng
thời, đề tài sẽ khẳng định quan hệ hữu cơ giữa thi đua với yêu nước, “thi đua
là yêu nước, yêu nước là thi đua”. Nghiên cứu cũng đặc biệt chú trọng đưa ra
một số gương điển hình trong phong trào thi đua yêu nước ở Thái Nguyên –
minh chứng cho những thành tích mà quân và dân Thái Nguyên đã làm được
trong cuộc vận động thi đua yêu nước giai đoạn (1948 – 1975). Còn những
thông tin về tỉnh Thái Nguyên, như điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội…chỉ
nêu những nét chung nhất.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Thứ nhất: Trình bày những vấn đề khái quát về tỉnh Thái Nguyên:
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống cách mạng…
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Thứ hai: Tìm hiểu cụ thể về việc hưởng ứng phong trào thi đua yêu
nước ở Thái Nguyên trong kháng chiến chống Pháp: về thi đua sản xuất diệt
giặc đói, ủng hộ bộ đội, thi đua diệt giặc dốt, thi đua diệt giặc ngoại xâm…
Thứ ba: Tìm hiểu tiếp tục cuộc vận động thi đua yêu nước trên tất cả
các lĩnh vực ở Thái Nguyên trong suốt những năm dài kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, và khẳng định tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng của quân và
dân Thái Nguyên ở mọi hoàn cảnh lịch sử, chiến tranh cũng như thời bình.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
4.1.Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu đề tài em đã khai thác nguồn tư liệu sau:
Nguồn tư liệu thành văn:
- Các Văn Kiện của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
- Các chủ trương, báo cáo tổng kết hàng năm của các phòng ban,
UBND tỉnh Thái Nguyên
- Các sách báo tạp chí TW và Tỉnh như: Tạp chí nghiên cứu lịch sử,
báo nhân dân, báo Thái Nguyên
- Các khoá luận, luận văn tốt nghiệp có liên quan đến đề tài.
Nguồn tư liệu truyền miệng: lời kể của các cụ già, những người dân
đang sống và làm việc tại địa phương.
Tư liệu điền dã: quan sát, sưu tầm phim, ảnh, có sự giúp đỡ của các
phòng văn hóa, sở văn hóa thông tin tại địa phương.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học lịch sử, nên phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, nhằm nêu bật việc
hưởng ứng tích cực phong trào thi đua yêu nước ở Thái Nguyên giai
đoạn (1948 – 1975). Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp lôgic
để đi đến những nhận định, đánh giá mang tính khái quát.
Đề tài nghiên cứu về lịch sử địa phương nên khi sưu tầm tài liệu có kết
hợp giám định tài liệu, phân loại tài liệu theo vấn đề, thời gian. Rồi dùng
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh, phân tích tổng hợp kết hợp điều
tra, điền dã. Các phương pháp trên có kết hợp nhuần nhuyễn với nhau.
5. Đóng góp của đề tài
Đây là một đề tài nghiên cứu về lịch sử địa phương nên đã khai thác
những tư liệu của địa phương là chính. Đề tài dựng lên bức tranh hoàn chỉnh
về cuộc vận động thi đua yêu nước ở Thái Nguyên (1948 – 1975), như thi
đua sản xuất, chi viện, chiến đấu, thi đua trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã
hội …ở mỗi thời kỳ lịch sử là khác nhau. Trên cơ sở đó rút ra nhận thức
khoa học về cuộc vận động thi đua yêu nước trong toàn quốc. Khẳng định
những tác dụng to lớn của cuộc vận động thi đua yêu nước đối với cuộc cách
mạng của dân tộc trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay.
Qua đề tài này chứng minh được những đóng góp to lớn của quân và
dân Thái Nguyên đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ của dân tộc. Từ đó giúp nhân dân Thái Nguyên thêm tự hào về những
cống hiến của ông cha. Đồng thời, đề tài này không chỉ góp một phần cho sự
hiểu biết sâu sắc về lịch sử địa phương, đóng góp tài liệu vào việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập lịch sử địa phương, mà đối với thế hệ trẻ, đây còn
là một tài liệu hữu ích trong việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tinh
thần trách nhiệm đối với quê hương.
6. Bố cục đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về vị trí chiến lược, điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội và truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng ở Thái Nguyên
Chương 2: Thi đua yêu nước ở Thái Nguyên trong kháng chiến chống
Pháp (1948 – 1954)
Chương 3: Thi đua yêu nước ở Thái Nguyên trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954 – 1975)
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,
KINH TẾ XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC,
ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG Ở THÁI NGUYÊN
1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Khu di tích Thần Sa với những di chỉ được phát hiện ở Phiêng Tụng,
Hang đá Ngườm, Thăm Chong, Nà Ngần…đã chứng minh rằng: “tại Thái
Nguyên đã tồn tại một nền văn hóa cổ nhất Việt Nam nói riêng và cả vùng
Đông Nam Á nói chung”. [40]. Nhiều cảnh núi non hùng vĩ cùng những
hang động đầy bí ẩn vẫn giữ nguyên dấu tích thuở hồng hoang của người
nguyên thủy sinh sống với nền văn hóa cổ Thần Sa, nằm trong nguồn mạch
chung của nền văn hóa nguyên thủy trên đất nước Việt Nam.
Thời Hùng Vương, tỉnh Thái Nguyên ngày nay gọi là bộ Vũ Định.
Dưới thời Tiền Lê, thời Lý gọi là Châu Vũ Lặc. Đời Trần, năm Quang Thuận
thứ 10 (1397) đổi thành trấn Thái Nguyên. [17].
Sau khi nhà Minh chiếm được nước ta, từ năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407)
chúng đặt làm 15 phủ và 6 châu. Thái Nguyên là một trong 6 châu thuộc
quận Giao Chỉ. Năm Vĩnh Lạc thứ 8 (1410), Châu Thái Nguyên đổi thành
phủ Thái Nguyên.
Cuối thế kỷ XVI, các tập đoàn phong kiến Mạc, Trịnh, Nguyễn, tranh
giành quyền lực, gây chia cắt, loạn lạc triền miên. Trấn Thái Nguyên là một
trong những nơi diễn ra các cuộc xung đột dữ dội. Đến năm Vĩnh Trị thứ 2
(1677), khi nhà Mạc mất, 4 châu phía bắc thuộc phủ Cao Bằng (Thượng
Lang, Hạ Lang, Thạch Lâm, Quảng Uyên) đã từng bị nhà Mạc chiếm giữ
nay được bình định nhưng lại tách riêng để thành lập trấn Cao Bằng. Như
vậy, trấn Thái Nguyên chỉ còn lại phần đất đai của hai phủ Phú Bình và
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Thông Hóa. Đầu thời Nguyễn, năm 1807 vẫn như vậy. Đến năm Minh Mạng
Thứ 12 (1831), trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Năm
1835, Minh Mạng tách 4 châu, huyện thuộc phủ Phú Bình là Định Châu, Văn
Lãng, Đại Từ, và Phú Lương để thành lập một phủ mới gọi là phủ Tùng Hóa.
[22; 147]. Tỉnh Thái Nguyên lúc này gồm ba phủ: Phú Bình (có Châu Vũ
Nhai, huyện Đồng Hỷ, Tư Nông, Phổ Yên và Bình Tuyền), phủ Tùng Hóa
(có châu Định Hóa, các huyện Phú Lương, Đại Từ, Văn Lãng), phủ Thông
Hóa (có Châu Bạch Thông và huyện Cảm Hóa).
Sau khi chiếm được tỉnh Thái Nguyên, ngày 14/1/1900, thực dân Pháp
cắt phủ Thông Hóa thành lập một tỉnh mới gọi là tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Thái
Nguyên chỉ còn lại phần đất thuộc hai phủ Phú Bình và Tùng Hóa.
Sau ngày hòa bình lập lại, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội, do nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, ngày 21/4/1965 hai
tỉnh Bắc Cạn và Thái Nguyên hợp nhất thành một tỉnh lấy tên là Bắc Thái.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX ra nghị quyết tái lập hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn.
Ngày 1/1/1997, tỉnh Thái Nguyên chính thức hoạt động theo đơn vị
hành chính mới.
Toàn tỉnh Thái Nguyên (theo quyết định số 42UB/QĐ ngày 23/5/1997
của chủ nhiệm Ủy ban dân tộc và miền núi) có tới 18 xã vùng cao (khu vực
III), 79 xã miền núi (khu vực II), 14 xã khu vực I, và 11 thị trấn miền núi
gồm: Chợ Chu, Chùa Hang, Sông Cầu, Trại Cau, Đại Từ, Quân Chu, Đu,
Giang Tiên, Đình Cả, Bắc Sơn.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi trung du, nằm trong vùng trung du
và miền núi Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên 3.562,82 km
2
, Thái Nguyên là một
tỉnh không lớn, chỉ chiếm 1,13% diện tích và 1,41% dân số so với cả nước.
Tỉnh Thái Nguyên phía Bắc tiếp giáp với Tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp
với Tỉnh Vĩnh Phúc và Tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp với các Tỉnh
Lạng Sơn và Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế của
khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi đông bắc nói chung,
Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi
với vùng đồng bằng Bắc bộ. Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ
thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái
Nguyên là đầu nút.
Cùng với vị trí trung tâm của Việt Bắc, Thái Nguyên còn là nơi hội tụ
nền văn hóa của các dân tộc miền núi phía Bắc, là đầu mối các hoạt động
văn hóa, giáo dục của cả vùng núi phía Bắc rộng lớn.
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1 Địa hình
Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Bắc Nam và thấp
dần xuống phía Nam. Cấu trúc vùng núi phía Bắc chủ yếu là đá phong hóa
mạnh, tạo thành nhiều hang động và thung lũng nhỏ.
Phía Tây Nam có dãy Tam Đảo với đỉnh cao nhất 1.590m, các vách
núi dựng đứng và kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
Ngoài dãy núi trên còn có dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo
hướng Đông Bắc, Tây Nam đến Võ Nhai và dãy núi Bắc Sơn chạy theo
hướng Tây Bắc, Đông Nam. Cả ba dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn
đều là những dãy núi cao che chắn gió mùa đông bắc.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình lại không
phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi
của Thái Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế xã hội
nói chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.
1.1.2.2 Khí hậu
Khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
- Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
- Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía Nam
Võ Nhai.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
- Vùng ấm gồm các huyện: Đại Từ, Thành phố Thái Nguyên, Đồng
Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên và Thị xã Sông Công.
Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9
0
) với tháng
lạnh nhất (tháng 1: 15,2
0
) là 13,7
0
. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ
1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm.
Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau. Lượng mưa trung
bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp
nhất vào tháng 1.
Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển ngành
nông, lâm nghiệp.
1.1.2.3 Đất đai
Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm
các loại sau:
- Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200m, hình
thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích. Đất núi
thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng
hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để trồng cây ăn quả, một phần
cây lương thực cho nhân dân vùng cao.
- Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát
kết, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen
giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương
ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200 phù hợp đối với cây
công nghiệp và cây ăn quả lâu năm.
- Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần
phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn
của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán ) khó khăn cho việc
canh tác.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Trong tổng qũy đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm
69,22 % diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha (chiếm
30,78 % diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714 ha đất có khả
năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp.
1.1.2.4 Sông ngòi
Thái Nguyên có tài nguyên nước khá dồi dào, trên địa bàn tỉnh có sự
chi phối của hệ thống sông ngòi, kênh mương tương đối dày.
Các con sông lớn ở Thái Nguyên là Sông Cầu ở phía đông, sông Công
ở phía tây, cùng rất nhiều các nhánh sông nhỏ, hệ thống ao, hồ, sông suối
cũng phân bố khắp nơi.
Sông Cầu là dòng chảy lớn, có rất nhiều phụ lưu. Các phụ lưu chính
đều nằm trong phạm vi tỉnh Thái Nguyên (trừ con sông Cà Lồ chảy từ Vĩnh
Phúc sang). Sông Cầu tuy không nhiều phù sa nhưng phù sa rất tốt nên hàng
năm đã bồi đắp hàng trăm hecta soi bãi màu mỡ để nhân dân gieo trồng rau
màu và tưới tiêu hàng ngàn hecta lúa hai vụ cho các huyện.
Ở hữu ngạn có sông Chợ Chu chảy từ Định Hóa ra, gặp sông Cầu ở
Chợ Mới (Bắc Kạn), đây là con sông khá hẹp, lắm thác ghềnh, giao thông
đường thủy không thuận lợi.
Sông Đu chảy qua huyện Phú Lương, gặp sông Cầu ở Sơn Cẩm. Với
chiều dài 44,5km và diện tích lưu vực là 361km
2
[48], phụ lưu sông Đu cũng
góp thêm vào dòng chảy chính sông Cầu một lượng đáng kể.
Sông Công là phụ lưu lớn nhất của sông Cầu, sông Công dài tới 96km,
lưu vực rộng tới 951km
2
, lượng nước sông Công rất dồi dào do chảy qua khu
vực nhiều mưa nhất của Thái Nguyên. Trên sông Công có đập thủy lợi Núi
Cốc, tưới cho 12.000 ha lúa hai vụ của các huyện phía nam tỉnh Thái
Nguyên.
Ngoài ra còn có sông Khe Mo, Huống Thượng, là những con sông nhỏ
nhưng đã góp phần tưới tiêu cho các cánh đồng lúa, rau, hoa của huyện Đồng
Hỷ và các vùng ven ngoại ô thành phố Thái Nguyên.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Thái Nguyên không có hồ tự nhiên, nhưng sức trẻ và con người Thái
Nguyên đã đắp đập, ngăn sông, tạo ra một hệ thống hồ nhân tạo phong phú,
hầu như ở huyện nào cũng có.
Hồ lớn nhất và quan trọng hơn cả là Hồ Núi Cốc trên sông Công với
đập chính dài 496m, cao 20m và 7 đập phụ khác. Hồ có độ sâu 25 – 30m,
mặt nước rộng từ 25 – 30 km
2
và có hàng chục đảo lớn, nhỏ. Hồ đã tưới tiêu
cho hàng chục hecta lúa, hoa màu và cung cấp hàng trăm tấn cá, tôm mỗi
năm cho nhân dân. Hồ Núi Cốc còn là điểm thăm quan du lịch hấp dẫn đối
với du khách trong và ngoài nước khi về với Thái Nguyên.
Thái Nguyên còn có các hồ Bảo Linh, Quán Chẽ, Phú Xuyên, Tích
Lương, Suối Lạnh…cũng là những công trình hồ nhân tạo do sức trẻ, sự cần
cù, sáng tạo của nhân dân Thái Nguyên xây dựng nên.
Sông, hồ nhiều mang đến cho Thái Nguyên nhiều thuận lợi nhưng
cũng không ít khó khăn. Ở những vùng thấp ven sông mùa mưa lũ hay úng
lụt, gây trở ngại không nhỏ tới sự phát triển kinh tế, xã hội.
1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội
1.2.1 Điều kiện kinh tế
Là vùng đất nối liền Đồng Bằng Bắc Bộ với vùng núi phía Bắc, Thái
Nguyên trở thành vùng đất hội nhập cư dân, kinh nghiệm lao động từ ngàn
đời đã tạo nên một Thái Nguyên xanh tươi những đồng lúa và những bãi
màu trồng lạc.
Về nông nghiệp, đất canh tác ở Thái Nguyên chỉ chiếm 13% diện tích
đất tự nhiên. Vùng cao hầu hết là những chân ruộng bậc thang, trải dọc theo
các thung lũng, ven sông. Vùng trung du có xen kẽ những cánh đồng bằng
phẳng, khá rộng lớn, nhưng có nhiều nơi đất đai bị bạc màu. Đã vậy, thiên
nhiên thường hay khắc nghiệt, lúc rét đậm, khi hạn hán, lũ lụt, sâu keo nên
khi sản xuất gặp nhiều khó khăn, cho tới năm 1995, bình quân lương thực
toàn tỉnh Bắc Thái mới đạt 240 kg /người/ 1năm. Bù lại sự hụt hẫng về lương
thực, nông dân đã phát huy thế mạnh vùng đồi, hàng năm, sản xuất được từ 4
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
đến 5 ngàn tấn chè búp khô. Chè Thái Nguyên nổi tiếng có hương vị thơm,
ngon, đậm đà, trở thành mặt hàng đặc sản cung cấp cho thị trường trong
nước và cho xuất khẩu. Sản phẩm chè nổi tiếng của Thái Nguyên là chè Tân
Cương đã được khắp nơi biết đến không chỉ trong nước mà còn trên khắp thế
giới. Chè được trồng ở tất cả các huyện, thị xã nhưng vùng có diện tích chè
lớn nhất tỉnh là ở các huyện Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ.
Những năm gần đây, do có chủ trương đúng đắn của Tỉnh ủy về
chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, nông dân Thái Nguyên đã trồng rất
nhiều mơ, tập trung chủ yếu ở huyện Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên. Mơ
trở thành mặt hàng đem lại giá trị kinh tế cao cho nông dân. Ngoài ra, Thái
Nguyên còn là tỉnh có khả năng phát triển các loại cây công nghiệp khác như
mía, đỗ tương, lạc…và nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm để chế biến thực
phẩm phục vụ đời sống, sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu.
Mặc dù có vùng trung du nhưng Thái Nguyên vẫn là tỉnh miền núi,
rừng và đất rừng vẫn chiếm diện tích tương đối lớn. Trải qua những năm
tháng chiến tranh cùng với việc khai thác rừng bừa bãi, nhất là nạn phá rừng
của nông dân để lấy đất làm nông nghiệp đã làm cho diện tích rừng của Thái
Nguyên giảm đi nghiêm trọng. Từ năm 1986 trở lại đây, nhờ có chính sách
đúng đắn của Đảng và nhà nước về rừng và đất rừng, việc trồng cây, gây
rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ
môi sinh, chống sói mòn, lũ lụt, tạo điều kiện cho kinh tế rừng phát triển.
Trong sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Thái Nguyên đã từng bước
hình thành ba khu công nghiệp lớn:
- Khu công nghiệp Gang Thép Thái Nguyên bắt đầu được xây dựng từ
tháng 3/1958, đi vào sản xuất từ tháng 11/1963. Đây là khu công nghiệp
luyện kim có quy mô lớn đầu tiên của nước ta, hàng năm sản xuất từ 2,2 vạn
đến 3 vạn tấn thép cho đất nước.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
- Khu công nghiệp Sông Công bao gồm các nhà máy sản xuất vòng bi,
chế tạo máy Điêzen, dụng cụ y tế…
- Khu khai thác mỏ: bao gồm các mỏ than Núi Hồng, Phấn Mễ, Quán
Triều, mỏ sắt Trại Cau, Linh Nhan, mỏ kẽm Bản Thi, mỗi năm khái thác
khoảng 10 vạn tấn than, hàng vạn tấn quặng sắt, kẽm, vàng sa khoáng huyện
nào cũng có, được khai thác nhiều ở các huyện Võ Nhai, Phú Lương, Đồng Hỷ.
Thái Nguyên còn có rất nhiều các xí nghiệp bao gồm các cơ sở sản
xuất cơ khí nhỏ, vật liêu xây dựng, xí nghiệp quốc phòng, sản xuất hàng tiêu
dùng, may mặc, điện tử, bia, nước giải khát…Đi đôi với việc xuất hiện nền
công nghiệp, ở tất cả các khu vực nói trên đội ngũ công nhân đã hình thành
đông tới trên 15 vạn người trong đó trên 70% là công nhân có tay nghề từ
bậc bốn trở lên.
1.2.2 Điều kiện dân cư, văn hóa – xã hội
Về dân cư và phân bố dân cư: Dân số tỉnh Thái Nguyên theo điều tra
dân số 01/04/2009 là 1.124.786 người. Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có
nhiều dân tộc sinh sống, trong đó có 8 dân tộc chủ yếu đó là Kinh, Tày,
Nùng, Sán Dìu, H’mông, Sán Chay, Hoa và Dao. Dân cư phân bố không
đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt, trong khi đó ở thành thị và
đồng bằng dân cư lại dày đặc. Mật độ dân số thấp nhất là huyện Võ Nhai 72
người/km
2
, cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật độ 1.260 người/km
2
.
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm (1999 - 2009) dân
số tỉnh tăng bình quân 0,7% /1năm, thấp hơn mức bình quân của cả nước là
1,2% do có nhiều người di chuyển đi các tỉnh khác. 3 huyện: Định Hóa, Đại
Từ, Phú Bình có mức tăng trưởng dân số âm.
Thái Nguyên có một nền văn hóa, giáo dục và y tế khá phát triển, Hệ
thống giáo dục phổ thông gồm rất nhiều trường, lớp, trong đó có trường phổ
thông trung học Vùng Cao Việt Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho con em
các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa được đến trường học tập. Đại học
Thái Nguyên đóng ngay tại thành phố Thái Nguyên gồm một hệ thống các
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
trường đại học lớn như: Đại học sư phạm, Đại học Y Khoa, Đại học Nông
Lâm, Đại học Kinh Tế và Quản Trị Kinh Doanh, Đại học Công Nghiệp…
Ngoài ra còn có rất nhiều các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và
trường dạy nghề…hàng năm đào tạo cho xã hội hàng ngàn cán bộ khoa học
kỹ thuật, công nhân…
Hệ thống Y tế Thái Nguyên phát triển tương đối hoàn chỉnh với nhiều
cơ sở khám chữa bệnh, nhiều y, bác sỹ, y tá, và hàng trăm cơ sở khám chữa
bệnh tư nhân.
Sự nghiệp văn hóa Thái Nguyên cũng có rất nhiều tiến bộ. Thái
Nguyên đã có 3 sân vận động lớn, sức chứa trên 5,5 vạn người, có nhiều thư
viện, câu lạc bộ, nhiều đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp. Hệ thống phát thanh
đã phủ sóng 100%, cư dân có thể thu được sóng truyền hình tỉnh.
Tại Thành phố Thái Nguyên có Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt
Nam, Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên, Bảo tàng Quân khu I.
Các di tích lịch sử: Tại Huyện Định Hoá có di tích lịch sử An Toàn
Khu (gọi tắt là ATK) - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính
phủ và Bộ Tổng tham mưu đã lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp những năm 1946 - 1954, các địa danh nơi thành lập Việt
Nam Giải phóng quân năm 1945 và hoạt động của cách mạng Việt Nam
trước năm 1945.
Các di tích kiến trúc nghệ thuật gồm có: Chùa Phù Liễn, Chùa Hang,
Đền Đội Cấn, Đền Xương Rồng, Đền Đuổm, Đình Phương Độ, Đền Lục Giáp.
Di tích khảo cổ học: Hang Phiêng Tụng ở xã Thần Sa huyện Võ Nhai
là di tích khảo cổ học thời đại đồ đá cũ.
Ngày hội truyền thống của các dân tộc tỉnh Thái Nguyên mang đậm
tính bản địa. Đó là hội Lồng tồng (xuống đồng), Hội Đóc pò, hội Then…Lễ
hội lớn nhất là lễ hội Đền Đuổm (Phú Lương) vào ngày 6 tháng Giêng âm
lịch hàng năm. Đây là lễ hội tạ ơn công đức của danh tướng Dương Tự
Minh. Ngoài ra còn có lễ hội Núi Văn - Núi Võ (Đại Từ), lễ hội đền Lục
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Giáp (Phổ Yên), Hội Thanh Ninh (Phú Bình), hội Chùa Hang, chùa Phủ
Liễn…mỗi lễ hội một dáng vẻ riêng nhưng đều thành kính, uy nghiêm, và
tưng bừng.
Về tôn giáo: quá nửa dân số Thái Nguyên theo đạo Phật, Đạo Thiên
Chúa ở Thái Nguyên từ năm 1800 có 4 xứ đạo và 32 họ lễ. Thái Nguyên từ
lâu đã là nơi giáo hội chú trọng phát triển giáo dân, hiện nay chiếm 1,71%
tổng số dân trong tỉnh.
Dù tôn giáo, tín ngưỡng và thành phần dân tộc khác nhau nhưng nhân
dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã cùng nhau đoàn kết, ra sức bảo vệ và
xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
1.3 Truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân
tộc tỉnh Thái Nguyên
Do vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng nên trong lịch sử, trải qua
nhiều thế hệ nối tiếp, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên luôn phải
đương đầu với các thế lực ngoại xâm và các tập đoàn phong kiến phản động.
Từ trong lò lửa của các cuộc đấu tranh đó, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã
sớm gây dựng cho mình truyền thống kiên cường, bất khuất, đoàn kết, thủy
chung, thông minh sáng tạo. Từ đời này sang đời khác, truyền thống tốt đẹp
đó được hun đúc, trở thành một phẩm chất đặc biệt trong nhân dân các dân
tộc tỉnh Thái Nguyên.
Sử cũ chép rằng, ngay từ cuối thế kỷ II (trước Công Nguyên), nhân
dân Thái Nguyên đã nổi dậy theo Tây Vụ Vương chống lại quân xâm lược
nhà Hán, đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh, giành nền
độc lập cho dân tộc. Đến năm 40, với lòng yêu nước, ý chí tự cường, và lòng
ngưỡng mộ tài đức của hai vị anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị,
một lần nữa, nhân dân Thái Nguyên lại tập hợp dưới bóng cờ khởi nghĩa của
hai bà, quét sạch quân xâm lược, dụng lại nền độc lập cho giang sơn. Sau đó,
trong những năm dài dưới ách thống trị của phong kiến Phương Bắc, cùng
với nhân dân cả nước, nhân dân Thái Nguyên đã lần lượt nổi dậy đấu tranh
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
chống lại chính sách đồng hóa dân tộc và ách thống trị hà khắc của chúng
nhằm giành tự chủ cho đất nước và bảo tồn bản sắc văn hóa cho dân tộc.
Đầu thế kỷ XV, nhà Minh xâm lược nước ta, dưới ách thống trị tàn
bạo của giặc Minh, nhân dân ta đã vùng dậy đấu tranh. 20 năm dưới ách đô
hộ của nhà Minh là 20 năm đấu tranh anh dũng, ngoan cường của dân tộc ta
trong đó có sự tham gia tích cực của nhân dân Thái Nguyên. Năm 1407,
nhân dân Thái Nguyên nổi dậy chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chu Sư Nhan,
Dương Khắc Chung, Dương Thế Chân…Đặc biệt ở huyện Đồng Hỷ, nghĩa
quân của Ông Lão đã xây dựng được căn cứ địa để chống giặc. [17; 15]
Cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, ở Thái Nguyên xuất hiện một đội
quân mà nhân dân ở đây thường gọi là đội quân áo đỏ. Dựa vào rừng núi,
dùng lối đánh du kích, đội quân đó đã tiêu diệt những đồn lẻ, những bộ phận
lẻ tẻ của quân giặc. Tháng 11/1410, nghĩa quân áo đỏ tấn công vào quân địch
ở huyện Đại Từ. Giặc Minh đã phải điều động quân từ Thái Nguyên, Hà
Giang, Tuyên Quang tới ứng cứu. Với tài nghệ đánh du kích tuyệt vời, suốt
17 năm chiến đấu ngoan cường, quân áo đỏ không những không bị tiêu diệt
mà lực lượng ngày càng lớn mạnh hơn. Từ trung tâm là Thái Nguyên, khởi
nghĩa lan rộng ra khắp núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc, rồi lan tới tận vùng rừng
núi Thanh, Nghệ - Tĩnh. Khi Lê Lợi phát cờ khởi nghĩa Lam Sơn, nghĩa
quân áo đỏ đã nhập vào lực lượng của cuộc khởi nghĩa này. Năm 1427,
nghĩa quân áo đỏ cùng với cánh quân người Thái ở Mộc Châu của Sa Khả
Tham và nhiều cánh quân miền núi khác vây thành Đông Quan, tiêu diệt đội
quân xâm lược của Vương Thông.
Trong những năm 1419 – 1420, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên còn tích cực hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lê Ngã, đồng thời cũng
trực tiếp tham gia khởi nghĩa của Lê Lợi, góp phần xứng đáng vào cuộc khởi
nghĩa trong đó tiêu biểu là Lưu Nhân Chú và Phạm Cuống. Lưu Nhân Chú
người xã An Thuận, huyện Đại Từ, là một trong 18 bạn chiến đấu của Lê Lợi
ngay từ những năm 1416 khi Lê Lợi phất cờ đại nghĩa. Lưu Nhân Chú là
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
17
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
người có đức độ, tài năng và có nhiều công lớn, được Lê Lợi đánh giá: “…tài
như cây tùng, cây bách, đồ dùng (cho nước) như ngọc “phan”, ngọc “di”,
đương lúc nước nhà lắm nạn, lo lắng vương nghiệp không thể tạm yên một
nơi. Linh sơn đói khổ mấy tuần đắn đo trong bụng… cứu tế, phù suy, đem lại
cơ đồ trong những ngày cháo độn cơm hẩm, trừ hung dẹp bạo, quét thanh
trời đất cho khỏi nạn ngựa sắt, giáo vàng. Trận đánh ở Bồ Đằng, Khả Lưu
như trúc chẻ, tro bay, trận đánh ở Xương Giang, Chi Lăng như giá tan ngói
trút. Giúp nên nghiệp lớn càng rõ công to”. [37; 260]
Bởi vậy, sau chiến thắng, Lưu Nhân Chú được ban họ Vua, được
phong Á thượng hầu, đứng đầu hàng võ.
Đầu thế kỷ XVI, triều Lê suy đồi, các tập đoàn phong kiến tranh giành
quyền lực lẫn nhau. Trong gần 100 năm, Thái Nguyên là nơi diễn ra các cuộc
hỗn chiến Mạc – Trịnh, họ Mạc xây thành đắp lũy để đối phó với quân Trịnh
nhưng cuối cùng cũng bị đẩy lên phía Bắc. Núi Tiên (xã Gia Sàng, thành phố
Thái Nguyên) nơi đua ngựa tập trận, luyện quân của họ Mạc và những thành
còn lại ở một số địa phương trong tỉnh mà nhân dân thường gọi là “Thành
nhà Mạc” là một trong những di tích ghi lại cuộc xung đột giữa các tập đoàn
phong kiến thời đó.[17; 17].
Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, do chiến sự xảy ra, bọn phong
kiến cướp phá, nhân dân ta vô cùng khổ cực. Đầu thế kỷ XIX, khi nhà
Nguyễn lên thống trị, nhân dân ta càng thêm khổ cực hơn. Chính vì vậy mà
phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra ngày càng mạnh mẽ.
Năm 1806, cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc bùng nổ, được nhân
dân các dân tộc hưởng ứng. Thái Nguyên là địa bàn hoạt động của nghĩa
quân. Bến Tượng ngày nay ở thành phố Thái Nguyên chính là bến tắm voi
và cũng chính là nơi Dương Đình Cúc tập luyện quân sỹ để chống lại triều
đình nhà Nguyễn. Khởi nghĩa Dương Đình Cúc kéo dài hơn 20 năm thì bị
dập tắt.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
18
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Năm 1833, nhân dân Thái Nguyên lại tập hợp dưới ngọn cờ chiến đấu
của Nông Văn Vân để tiếp tục chống lại triều đình nhà Nguyễn thối nát.
Nghĩa quân làm chủ cả một vùng rộng lớn thuộc tỉnh Tuyên Quang, Cao
Bằng, Bắc Cạn, chiếm tỉnh Thái Nguyên, bắt quan lại nhà Nguyễn, thích vào
mặt dòng chữ “quan tỉnh hay ăn hối lộ” rồi đuổi đi. Nhà Nguyễn phải tập
chung một lượng lớn quân đội để đàn áp, nhưng nhờ tài thao lược của Nông
Văn Vân, biết lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng Việt Bắc, nghĩa quân đã
giáng chi địch những đòn nặng nề. Tại các căn cứ quân sự chủ yếu của vùng
châu Bạch Thông và huyện Cảm Hóa, nghĩa quân đã đánh nhiều trận rất
oanh liệt, bẻ gẫy những cánh quân lớn của nhà Nguyễn với hàng nghìn lính
có voi và pháo trợ chiến. Nhà Nguyễn phải trật vật trong nhiều năm mới đàn
áp được cuộc khởi nghĩa. Tuy thất bại và bị dìm trong biển máu nhưng cuộc
khởi nghĩa đã khẳng định tinh thần đoàn kết chiến đấu, ý chí quật cường của
nhân dân các dân tộc Việt Bắc nói chung và Thái Nguyên nói riêng.
Năm 1858, trong lúc triều đình phong kiến Nguyễn đang suy yếu, thực
dân Pháp đã đem quân xâm lược nước ta. Tháng 3/1884, dưới sự chỉ huy của
tên tướng Bơrie Đơlit, quân Pháp kéo lên đánh Thái Nguyên. Ngay từ những
ngày đầu khi quân Pháp đánh Thái Nguyên, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên đã nêu cao truyền thống đoàn kết chiến đấu, đã đứng lên cầm vũ khí
bảo vệ quê hương, gây cho địch nhiều thiệt hại. Sau đó là các trận ở huyện lỵ
Phú Lương, phía nam chợ Giang Tiên…Năm 1884, quân Pháp chiếm được
thành Thái Nguyên, nhưng phải 10 năm sau chúng mới đặt chân lên được
phủ Thông Hóa (Bạch Thông ngày nay). Trong suốt thời gian đánh chiếm
Thái Nguyên và cả những năm sau, các cuộc chiến đấu của nhân dân Thái
Nguyên vẫn liên tục diễn ra. Echinard – viên công sứ Thái Nguyên (1929) đã
thú nhận: “trong thời kỳ ông Ôvecnhơ nắm quyền bính, (tức là từ 1890), tỉnh
đương có những toán cướp tung hoành, ở phía nam có nhóm giặc hoạt động
dưới quyền Đề Thám, ở phía bắc Bá Kỳ vẫn gây cho chúng ta nhiều lo
ngại…” [1]
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Sang đầu thế kỷ XX, mặc dù thực dân Pháp tăng cường kìm kẹp, phong
trào chống Pháp vẫn phát triển rộng khắp tỉnh, lôi kéo nhiều tầng lớp nhân dân
tham gia. Năm 1904, đồng bào Dao ở xã Tân Sơn và xã Cao Sơn (Bạch
Thông) nổi lên chống chính sách thuế khóa nặng nề của thực dân Pháp.
Năm 1914, chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, thực dân Pháp tăng
cường vơ vét người và của ở cả chính quốc và thuộc địa để phục vụ chiến
tranh. Vì vậy, cuộc sống của nhân dân cả nước ta nói chung và nhân dân
Thái Nguyên nói riêng càng thêm điêu đứng. Phong trào đấu tranh của các
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh, đặc biệt là anh em binh lính người Việt
trong quân đội Pháp cũng nổi dậy khởi nghĩa.
Ngày 11/10/1914, một số tù nhân bị địch giam giữ ở Thị xã Bắc Cạn
được một số lính khố xanh yêu nước ủng hộ đã nổi dậy phá nhà lao, phá kho
vũ khí, lấy súng bắn vào bọn thực dân trong doanh trại. Bọn địch bị bất ngờ,
hoang mang, không dám đối phó, nghĩa quân làm chủ thị xã suốt từ sáng đến
chiều. Nhưng thấy lực lượng chưa đủ sức tấn công bộ máy cai trị của địch
trong thị xã nên nghĩa quân đã chủ động rút lui sang phía Na Rì. [1].
Trong khi bọn Pháp ở Bắc Cạn chưa hết kinh hoàng thì tại thị xã Thái
Nguyên, đêm 30, rạng ngày 31/8/1917, dưới sự chỉ huy của Lương Ngọc
Quyến và Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn), anh em binh sỹ yêu nước phối hợp với
những người tù trong trại giam thị xã nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đã
được đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân ở các mỏ quanh thị
xã nổi dậy hưởng ứng. Nghĩa quân đánh chiếm thị xã, chiếm bưu điện, kho
bạc…trừng trị những tên thực dân độc ác, tuyên bố mục đích khởi nghĩa là
giành độc lập cho nước Việt Nam. Tuy nhiên, do lực lượng quá chênh lệch,
sau 5 ngày làm chủ thị xã, Đội Cấn cùng nghĩa quân rút về vùng núi Tam
Đả, tiếp tục chiến đấu cho đến tháng 3/1918 khởi nghĩa Thái Nguyên mới bị
dập tắt. Đội Cấn cùng các đồng chí của ông đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Song,
sự nghiệp chống Pháp của Đội Cấn và các đồng chí của ông đã trở nên bất
diệt, sống mãi trong lòng những người dân Thái Nguyên.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
20
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Như vậy, cho đến trước khi Đảng ra đời và nắm quyền lãnh đạo cách
mạng, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên
luôn nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết, chiến đấu hi sinh vì
độc lập tự do của tổ quốc, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Phần lớn các cuộc
đấu tranh của nhân dân của các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đều bị kẻ thù dìm
trong bể máu nhưng nó đã vun đúc nên truyền thống bất khuất, kiên cường,
đó là một di sản vô giá ông cha đã để lại cho các thế hệ mai sau. Đó cũng là
một động lực thúc đẩy nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên sớm bước vào
cuộc đấu tranh mới với tầm vóc to lớn hơn dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỉ XX, sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào công nhân, phong trào yêu nước, đặc biệt là hai sự
kiện: sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh đã tác động mạnh mẽ và cổ vũ phong trào cách mạng ở Thái Nguyên.
Song thời kì này tình hình ở Thái Nguyên có rất nhiều khó khăn. Từ sau
cuộc nổi dậy của những người yêu nước ở Thái Nguyên, bọn thực dân đã
tăng cường cao độ bộ máy đàn áp. Mật thám Pháp hoạt động ráo riết, phát
hiện tất cả những người lạ mặt, bám sát các hầm mỏ đồn điền là những nơi
tập chung đông công nhân. Để ngăn chặn phong trào đấu tranh của công
nhân, lợi dụng cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, bọn thực dân sa thải
hàng loạt công nhân cũ, tuyển lựa những người khỏe mạnh thay thế, thực
hiện một cuộc xáo trộn trong hàng ngũ công nhân. Đội ngũ mỏng, liên tiếp bị
xáo trộn và bị giám sát chặt chẽ nên giai cấp công nhân Thái Nguyên gặp rất
nhiều khó khăn trong việc xây dựng và củng cố đội ngũ. Trong suốt thời gian
từ 1929 – 1933 tuy các cơ sở cách mạng của tỉnh xung quanh có chú ý hướng
hoạt dộng vào Thái Nguyên nhưng nhìn chung đều gặp trở ngại. [17; 20]
Về khách quan, trong phạm vi toàn quốc, sau cuộc khủng bố trắng của
địch, những năm 1931 – 1933, phong trào tạm thời lắng xuống. Vì tất cả những
lý do chủ quan và khách quan đó nên Thái Nguyên chưa xác định được các cơ
sở cách mạng cần thiết. Những năm 1933 – 1935 ở Thái Nguyên mới chỉ có
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
một vài Đảng viên bị địch khủng bố ở các tỉnh miền xuôi chạy lên, nhưng vì bị
mất liên lạc và bị địch truy lùng nên chưa có hoạt động gì đáng kể.
Phong trào cách mạng ở Thái Nguyên chỉ được phát triển về cả nội
dung và hình thức từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I (tháng 3/1935). Từ
1936, các cơ sở Đảng đầu tiên được thành lập ở Đại Từ, Võ Nhai, Định Hóa,
làm cho phong trào đấu tranh bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong toàn tỉnh.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, một năm sau
(tháng 9/1940), Nhật nhảy vào Đông Dương. Cũng ngay cuối tháng 9 năm
1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, khi nhân dân Thái Nguyên nổi dậy khởi
nghĩa thì tại huyện Võ Nhai, một huyện nằm ở phía Đông của tỉnh là một
trong những nơi có cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh, lại kề sát với huyện Bắc
Sơn, Đảng bộ và nhân dân đã kịp thời đẩy mạnh hoạt động, mở rộng cơ sở,
cử cán bộ Đảng viên lên Bắc Sơn cùng tham gia chiến đấu.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, theo quyết định của Hội nghị trung ương lần
thứ VII (tháng 11/1940), lực lượng vũ trang Bắc Sơn được duy trì để thành
lập căn cứ địa, lấy Bắc Sơn (Lạng Sơn) và Võ Nhai (Thái Nguyên) làm trung
tâm do trung ương trực tiếp chỉ đạo. Mặc dù bị thực dân Pháp bao vây và càn
quét gắt gao, căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai vẫn không ngừng được mở rộng.
Một loạt các căn cứ địa mới đã xuất hiện ở các huyện. Tại Phú Bình, Phổ
Yên, phong trào phát triển mạnh, được chọn làm khu an toàn của trung ương
và xứ ủy. Các cơ sở in, cơ quan thông tin liên lạc của trung ương và xứ ủy
được đưa về đây. Ở các huyện phía Bắc, từ việc xây dựng các “con đường
quần chúng”, đánh thông từ Cao Bằng xuống, cơ sở cách mạng được mở
rộng, tạo thành thế liên hoàn vững chắc, có ảnh hưởng lớn đến phong trào
cách mạng cả nước.
Từ sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), nhất là khi có lệnh tổng
khởi nghĩa, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã phối hợp với các đơn
vị quân giải phóng anh dũng vùng lên khởi nghĩa, đập tan chính quyền thực
dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng. Lần đầu tiên trong lịch
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
sử, nhân dân Thái Nguyên cũng như nhân dân cả nước đã làm chủ vận mệnh
của mình. Đó thực sự là một sự đổi đời lớn lao của nhân dân các dân tộc tỉnh
Thái Nguyên. [17; 22]
Nhưng, hưởng nền độc lập, tự do chưa được bao lâu, thực dân Pháp
bội ước đã quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân cả nước đứng
lên kháng chiến, nhân dân Thái Nguyên cũng đứng lên cùng nhân dân cả
nước kháng chiến, bảo vệ thành quả của cách mạng Tháng Tám.
Đầu năm 1947, trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch lên Việt Bắc, Thái
Nguyên là trung tâm của căn cứ địa Việt Bắc. [38; 57] được chọn làm nơi
đóng đại bản doanh lãnh đạo kháng chiến và trở thành “thủ đô kháng chiến”
của cả nước. Trong suốt 9 năm kháng chiến, Thái Nguyên lại được chọn làm
An toàn khu của trung ương. Cả một vùng đồi núi hiểm trở ATK đã từng là
nơi hoạt động của các cơ quan đầu não kháng chiến, là hậu cứ của nhiều đơn
vị bộ đội chủ lực… Thái Nguyên giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Có được vị trí quan trọng như thế,
một phần là do yếu tố địa hình của Thái Nguyên, nhưng yếu tố ảnh hưởng
chính là những tấm lòng của người dân Thái Nguyên đối với cách mạng, đối
với kháng chiến. Đó là “những người nông dân nghèo khổ đủ các dân tộc,
chất phác mà dũng cảm lạ thường, không biết sợ hãi là gì trước quân thù
hung bạo, thương yêu những người cách mạng nhiều khi hơn cả ruột rà.
Những người dân rất xứng đáng với nhân dân ta, vô cùng vĩ đại”. [50; 15]
9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Thái
Nguyên không chỉ đùm bọc, che chở, bảo vệ các cơ quan mà còn không tiếc
sức người, sức của đóng góp cho kháng chiến. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ
trong thời gian từ 1951 – 1954, Thái Nguyên đã huy động được 3.134.459
lượt người với 1.145 xe đạp, 307 xe trâu, 14 thuyền đưa dân công phục vụ
tiền tuyến (theo số liệu của bảo tàng Việt Bắc). Trong phong trào thi đua yêu
nước, Thái Nguyên là một trong những tỉnh đạt nhiều thành tích to lớn. Trên
khắp các mặt trận của cuộc kháng chiến đã xuất hiện nhiều anh hùng, chiến
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
sỹ thi đua, về mặt này, Thái Nguyên là tỉnh đứng đầu trong khu Việt Bắc (7
người). Với những đóng góp to lớn đó, nhân dân Thái Nguyên vô cùng tự
hào về những chiến công chung của dân tộc từ Việt Bắc – Thu Đông 1947
đến Biên Giới Thu Đông 1950…đến chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Vì
trong tất cả những chiến công chói lọi ấy đều có một phần mồ hôi và xương
máu của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên.
Đối với Thái Nguyên, quá trình chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ tổ
quốc, đồng thời gắn liền với quá trình xây dựng quê hương, xây dựng đất
nước. Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau,
nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên vừa chiến đấu kiên cường, giữ gìn
từng tấc đất của quê hương vừa xây dựng Thái Nguyên ngày càng trở nên
giàu đẹp hơn. Tất cả những đóng góp sức người, sức của cho các cuộc kháng
chiến, cho những thắng lợi chung trong sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ
tổ quốc của dân tộc ta, của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, chỉ có thể
cắt nghĩa được bằng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và tấm lòng yêu
nước vô bờ bến của nhân dân Thái Nguyên.
Đặc biệt là trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
vừa trực tiếp chiến đấu, bảo vệ khu ATK của thủ đô kháng chiến, nhân dân
Thái Nguyên vừa tích cực tăng gia sản xuất, phục vụ nhu cầu của cuộc kháng
chiến. Trong những năm khó khăn, gian khổ ấy, đồng bào Kinh, Tày, Nùng,
Dao, Sán Dìu…ở Thái Nguyên từng chắt chiu gạo, ngô, khoai, sắn, để bộ đội
ăn no đánh thắng kẻ thù, đoàn kết xây dựng căn cứ địa, xây dựng vùng giải
phóng, Thái Nguyên đã thực hiện tốt khẩu hiệu “vừa kháng chiến vừa kiến
quốc”, cho nên không chỉ trên mặt trận quân sự mà cả trên mặt trận kinh tế,
văn hóa, Thái Nguyên cũng giành được những thắng lợi to lớn. Những thắng
lợi đó đã góp phần quyết định cùng với nhân dân cả nước đánh thắng giặc
Pháp xâm lược đồng thời đặt cơ sở vững chắc cho công cuộc xây dựng và
kiến thiết Thái Nguyên sau này.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị
Huyền
Mang theo hành trang truyền thống đánh giặc, giữ nước anh hùng, lớp
lớp những người con Thái Nguyên lại hăng hái lên đường chiến đấu bảo vệ
miền Nam, thống nhất đất nước trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc. Trong trập trùng những đoàn quân giải phóng, đã bừng sáng những anh
hùng như Phạm Thanh Ngân (Phú Bình), Ma Văn Viên (Định Hóa), Hà Văn
Vấn (Phú Lương), Ngô Văn Sơn (Đồng Hỷ), Nguyễn Duy Nhất (Võ Nhai)…
Nhìn lại chặng đường dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã
qua, trong quá trình đấu tranh vật lộn với thiên nhiên, đấu tranh chống kẻ thù
trong và ngoài nước, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng
nên truyền thống đoàn kết, truyền thống bất khuất, kiên cường, đã cùng với
cả dân tộc ta viết nên những trang sử oanh liệt. Những truyền thống quý báu
đó cùng với sự thông minh, sáng tạo và cần cù trong lao động đã trở thành
sức mạnh động viên, cổ vũ toàn thể nhân dân Thái Nguyên bước vào những
nhiệm vụ mới trong xây dựng và bảo vệ quê hương.
Líp: K57B – Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
25