Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ 3
I. TẦM QUAN TRỌNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 3
1.Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ 3
2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH -
HĐH) đất nước 3
3. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH 4
4. Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho xã hội và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế trong quan hệ thương
mại quốc tế 5
II. CÁC LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 5
1. Chủ nghĩa trọng thương : 5
2.Quan điểm của Adam Smith (1723 - 1790) và học thuyết lợi thế tuyệt đối 6
3.Mô hình David Ricardo và học thuyết lợi thế so sánh 7
4. LÝ THUYẾT HABERLER VỀ LỢI THẾ TƯƠNG ĐỐI : 7
5. Mô hình ngoại thương của học thuyết Heckscher - Ohlin (H - O) 8
6. Mô hình đàn sếu bay 9
Nguồn : 11
Hình 3 : Một số hình minh họa cho sự đúng đắn của mô hình đàn sếu bay 12
CHƯƠNG 2 :PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CƠ CẤU
HÀNG HÓA XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2010 14
I.TẦM QUAN TRỌNG CỦA XUẤT NHẬP KHẨU TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA NỀN KINH TẾ 14
1. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU THỜI GIAN
1990 - 2010 14
1.1 Giai đoạn 1991- 1995 15
1.2 Giai đoạn 1996 – 2000 16
1.3 Giai đoạn 2001 -2005 17
1.4 Giai đoạn 2006 -2010 17
2.XUẤT NHẬP KHẨU VỚI SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỜI
GIAN QUA 20
II. ĐÁNH GIÁ CƠ CẤU XUẤT KHẨU THEO NHÓM HÀNG 24
1.Đánh giá tình hình xuất khẩu giai đoạn 1990-2010 theo nhóm hàng: 24
1.1.Giai đoạn 1991-1995 25
1.2.Giai đoạn 1996- 2000 26
1.3.Giai đoạn 2001-2005 27
1.4.Giai đoạn 2006- 2010 28
2. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 28
2.1. Công nghiệp nặng và khoáng sản: 28
2.1.1. Cơ cấu chung của hàng công nghiệp nặng và khoáng sản xuất khẩu 28
2.1.2 Tình hình xuất khẩu của một số mặt công nghiệp nặng và khoáng sản 29
2.2. Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp: 32
2.2.1. Cơ cấu chung của hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp 32
2.2.2 Tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chủ lực 33
2.3. Nông lâm thủy sản: 35
2.3.1. Cơ cấu chung của hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu 35
2.3.2. Tình hình xuất khẩu của các mặt hàng nông sản chủ lực 36
Nguồn: Tổng Cục Thống kê 38
III. CƠ CẤU XUẤT KHẨU THEO THỊ TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM 40
1. Các đối tác thương mại chính 40
1.1 Các khu vực buôn bán chủ yếu : 40
1.2 Các đối tác thương mại chính 42
1.3 Các thị trường xuất khẩu chính 43
2. Các thị trường nhập khẩu chính 44
V. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU VIỆT NAM THEO CÁC LÝ
THUYẾT THƯƠNG MẠI 48
1. Các lợi thế theo các lý thuyết thương mại : 48
2.Đánh giá theo mô hình đàn sếu bay 51
CHƯƠNG 3 : KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM 53
I. ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU 53
II. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THỰC HIỆN 54
1. Nhóm các giải pháp vĩ mô 54
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Mô hình “ Đàn sếu bay” với sự phát triển kinh tế ở Đông Á Error:
Reference source not found
Hình 2: Cơ cấu chuyển đổi ở Đông Á Error: Reference source not found
Hình 3 : Một số hình minh họa cho sự đúng đắn của mô hình đàn sếu bay. Error:
Reference source not found
Hình 3.1: Cơ cấu xuất khẩu của Nhật Bản Error: Reference source not found
Hình 3.2: Xuất khẩu dệt may với của các nhóm nước Error: Reference source not
found
Hình 3.3: Sự phân chia lao động quốc tế Error: Reference source not found
Hình 4 : Tốc độ tăng của GDP và xuất khẩu giai đoạn 1990 -2010 Error:
Reference source not found
Hình 5 : Biểu đồ xuất khẩu ròng nước ta giai đoạn 1995 – 2009 Error: Reference
source not found
Hình 6 : Biểu đồ cơ cấu trị giá xuất khẩu phân theo khu vực kinh tế Error:
Reference source not found
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1 : Tình hình xuất nhập khẩu nước ta giai đoạn 1990 – 2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2 : Tốc độ tăng GDP giai đoạn 1990 - 2010 Error: Reference source not
found
Bảng 3 : Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa theo nhóm hàng Error: Reference source
not found
Bảng 4 : Xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001-2010 Error: Reference source not
found
Bảng 5 : Xuất khẩu than đá giai đoạn 2001-2010 Error: Reference source not
found
Bảng 6 : Kim ngạch sản phẩm điện tử xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2010 Error:
Reference source not found
Bảng 7 : Kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 8 : Kim ngạch hàng giày dép xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 9 : Xuất khẩu thủy sản giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006-2010. Error:
Reference source not found
Bảng 10: Xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 11 : Xuất khẩu cà phê giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Error: Reference
source not found
Bảng 12 : Tỷ trọng xuất – nhập khẩu theo thị trường châu lục Error: Reference
source not found
Bảng 13 : Tỷ trọng xuất – nhập khẩu của Việt Nam theo khối các nước giai đoạn 43
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế theo tinh thần của Đại hội
Đảng VI (1986) đến nay, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Ước tính năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt
71 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2009. Như vậy, tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu bình quân cho cả giai đoạn 2001-2010 là 17,2%, trong đó tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đoạn 2001-2005 là 17,5% và giai đoạn
2006-2010 là 17%. Trong những năm qua, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của nước ta
đã có những chuyển biến theo hướng tích cực, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp được nâng lên đáng kể.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xuất khẩu thời gian qua nói
chung và cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nói riêng vẫn còn một số tồn tại
như: Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu diễn ra chậm, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào tài
nguyên thiên nhiên như khoáng sản (dầu thô, than đá), nông lâm thủy hải sản. Cơ
cấu mặt hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam còn đơn điệu, các mặt hàng xuất khẩu có
giá trị gia tăng thấp , quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
công nghiệp hoá diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để. Cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, dựa vào khai
thác lợi thế sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây
dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi
giá trị gia tăng xuất khẩu lớn; khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để
thâm nhập và khai thác thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế, chưa tận dụng triệt
để lợi ích từ việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các hiệp định
thương mại song phương để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như
Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày
càng gay gắt, tình hình nhập siêu vẫn còn diễn biến phức tạp và ảnh hưởng nhất
định từ cuộc suy thoái kinh tế những năm cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, việc
đẩy mạnh xuất khẩu trong giai đoạn sắp tới trở nên đặc biệt khó khăn. Trước những
vấn đề cấp thiết về tình hình chung như vậy, chúng em chọn đề tài “ Phân tích tình
hình cơ cấu xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 1990 - 2010” nhằm vẽ lên bức
tranh tổng quát về tình hình cơ cấu xuất nhập khẩu nước ta từ những năm 1990 đến
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
nay, trong bài viết chúng em chú trọng và phân tích sâu hơn về tình hình xuất khẩu ,
cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó đưa ra được những bài học kinh
nghiệm để có những giải pháp nhằm thúc đẩy tình hình xuất nhập khẩu của nước ta
trong thời gian tới.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài chia làm 3 chương :
- Chương I : Các lý thuyết về thương mại quốc tế
Tầm quan trọng của thương mại và điểm lại các lý thuyết về thương mại quốc tế
trong đó chú trọng đến mô hình đàn sếu bay.
- Chương II : Đánh giá tình hình xuất khẩu và cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Việt Nam giai đoạn 1990 – 2010
Đánh giá chung về tình hình xuất nhập khẩu từ 1990 – 2010 sau đó đánh giá
cơ cấu theo các nhóm hàng. Phân tích các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh và các thị
trường chính của nước ta.
- Chương III : Bài học kinh nghiệm, giải pháp, cơ chế chính sách và kiến nghị
Đưa ra các bài học kinh nghiệm và giải pháp kiến nghị cho tình hình xuất
nhập khẩu trong giai đoạn tới.
Trong quá trình thực hiện đề tài này chúng đã nhận được sự chỉ dẫn của tận
tình của các thầy cô, cùng các anh chị ở bộ kế hoạch đầu tư. Đặc biệt chúng em xin
gửi lời chân thành cảm ơn tới PGS-TS Vũ Kim Dũng (Trưởng khoa Kinh Tế Học –
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân) đã hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Đây là một đề tài có nội dung phong phú và phức tạp nhưng trong điều
kiện hạn chế về thời gian cũng như giới hạn về lượng kiến thức và kinh nghiệm
thực tế nên bài viết của chúng em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để chúng em hoàn thiện đề tài đầy đủ hơn
trong những lần sau.
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH VỀ
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. TẦM QUAN TRỌNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ngày nay, không một nước nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách
tự
cung tự cấp, bởi vì mỗi quốc gia trên thế giới đều tồn tại trong mối quan hệ
nhiều
mặt với các quốc gia khác. Tuy nhiên, trong các mối quan hệ này, quan
hệ kinh
tế
chi phối hầu hết các mối quan hệ khác, bởi bất cứ mối quan hệ nào
cũng liên
quan
tới quan hệ kinh tế. Quan trọng nhất trong quan hệ kinh tế là
quan hệ thương
mại,
nó cho thấy trực diện lợi ích của quốc gia khi quan hệ với
các quốc gia khác
thông
qua lượng ngoại tệ thu được qua thương mại quốc
tế.
Thương mại quốc tế bao gồm các hoạt động thu chi ngoại tệ như: xuất
khẩu,
nhập khẩu, gia công cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công, tái xuất
khẩu,
hoạt động chuyển khẩu, xuất khẩu tại chỗ. Trong khuôn khổ bài viết này,
chỉ đi
sâu
vào phân tích hoạt động xuất
khẩu.
Xuất khẩu là quá trình hàng hoá được sản xuất ở trong nước nhưng tiêu thụ
ở
nước ngoài. Xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng hoá của các quốc gia khác đối
với
quốc gia chủ thể. Xuất khẩu còn chỉ ra những lĩnh vực có thể chuyên môn
hoá
được,
những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất
ra sản
phẩm
xuất khẩu đạt được chất lượng quốc
tế.
1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại
tệ
Xuất khẩu tạo ra nguồn thu cho ngoại tệ lớn cho đất nước, do đó đối với bất
kỳ quốc gia nào, để tránh tình trạng nợ nước ngoài,
giảm
thâm hụt cán cân thanh
toán, con đường tốt nhất là đẩy mạnh xuất khẩu.
Nguồn
ngoại tệ thu được từ
xuất khẩu sẽ làm tăng tổng cung ngoại tệ của đất nước,
góp
phần ổn định tỷ giá
hối đoái, ổn định kinh tế vĩ mô.
2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu
cô
n
g
nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất
nư
ớc
Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường
quốc
tế, các doanh
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
nghiệp bắt buộc phải đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ của
mình
đây là một
yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất
khẩu. Từ
đó, xuất hiện nhu cầu nâng cao công nghệ của các doanh nghiệp, trong
khi
xu
hướng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cũng đang
ngày
càng phát triển và các nước phát triển (DCs) muốn chuyển giao công nghệ của
họ
sang các nước kém phát triển(LDCs). Hai nhân tố trên có tác động rất
quan trọng tới quá trình chuyển
giao
công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ
quốc gia. Tuy nhiên, một yếu tố vô
cùng
quan trọng mà nếu thiếu nó thì quá
trình chuyển giao công nghệ không thể diễn
ra
được, đó là nguồn ngoại tệ,
nhưng khó khăn này được khắc phục thông qua
hoạt
động xuất khẩu. Hoạt động
xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ và các quốc gia
có
thể dùng nguồn thu này
để nhập công nghệ phục vụ cho sản xuấ vì vậy
có thể nói, xuất khẩu quyết định
quy mô và tốc độ nhập
kh
ẩ
u.
3. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH -
H
Đ
H
Do xuất khẩu mở rộng đầu ra, mang lại nguồn ngoại tệ cao nên các nhà
đầu
tư sẽ có xu hướng đầu tư vào những ngành có khả năng xuất khẩu. Sự phát
triển
của
các ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu tạo ra nhu cầu đối với các
ngành sản
xuất
đầu vào như: điện, nước, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị
Các nhà sản xuất
đầu
vào sẽ đầu tư mở rộng sản xuất để đáp ứng các nhu cầu
này, tạo ra sự phát triển
cho
ngành công nghiệp nặng. Hoạt động xuất khẩu
đem lại nguồn thu ngoại tệ
cho
ngân sách nhà nước để đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu
tư vốn, công nghệ cao cho những ngành
công
nghiệp trọng điểm, mũi nhọn. Xuất
khẩu tạo ra nguồn thu nhập cao cho người
lao
động, khi người lao động có thu
nhập cao sẽ tạo ra nhu cầu cho các ngành sản
xuất
công nghiệp nhẹ, hàng điện
tử, hàng cơ khí, làm nâng cao sản lượng của các
ngành
sản xuất hàng tiêu dùng.
Tỷ trọng ngành công nghiệp ngày càng tăng kéo theo
sự
phát triển của ngành
dịch vụ với tốc độ cao hơn. Như vậy, thông qua các mối
quan
hệ trực tiếp, gián
tiếp, hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư
và
cơ cấu nền
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hội nhập.
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
4. Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho xã hội và nâng cao hiệu
quả
củ
a
nền kinh tế trong quan hệ thương mại quốc
tế
Xuất khẩu tăng sẽ tạo điều kiện để tăng việc làm, đặc biệt trong ngành
nông
nghiệp, công nghiệp chế biến các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, công
nghiệp
dệt may - là những ngành sử dụng nhiều lao động. Đó là vì xuất khẩu đòi
hỏi
nông
nghiệp phải tạo ra những vùng nguyên liệu lớn, đáp ứng cho nhu cầu
lớn của
nền
công nghệ sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn để nâng cao hiệu
quả, đồng
thời
xuất khẩu cũng buộc công nghiệp chế biến phải phát triển để
phù hợp với
chất
lượng quốc tế, phục vụ thị trường bên ngoài. Hiện nay, mặt
hàng xuất khẩu chủ
yếu
của LDCs là hàng nông sản, hàng công nghiệp nhẹ, dầu
thô, thủ công mỹ
nghệ
Điều đó sẽ giải quyết tình trạng thiếu công ăn việc làm
trầm trọng ở các nước
này.
Hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp góp phần mở rộng sản
xuất
nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, nâng cao thu nhập cho người nông dân,
tạo
ra nhu cầu về hàng công nghiệp tiêu dùng ở vùng nông thôn và hàng công
nghiệp
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, cũng phải kể đến một hoạt động
xuất
khẩu
góp phần giải quyết công ăn việc làm là xuất khẩu lao động và hoạt
động sản
xuất
hàng gia công cho nước ngoài, đây là hoạt động rất phổ biến
trong ngành may
mặc
ở nước ta và đã giải quyết được rất nhiều việc
làm.
II. CÁC LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Chủ nghĩa trọng thương :
Đầu thế kỉ 15, con người đã khám phá ra những vùng đất mới, tạo điều kiện
mở rộng giao lưu giữa các khu vực. Cuối thế kỉ 15 các phát kiến địa lý tạo điều
kiện cho sự hình thành các tuyến đường vận tải thương mại,sự gia tăng dân số tạo
nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ sản phẩm làm tăng lợi ích của các nhà
sản xuất và thương gia. Trong bối cảnh như vậy chủ nghĩa trọng thương ra đời.
Chủ nghĩa trọng thương cho rằng một nước trở nên giàu có và hùng mạnh
là
nhờ đẩy mạnh xuất khẩu. Nhưng xuất khẩu không phải là để nhập khẩu mà để thu
về
vàng bạc và đá quý, coi đó là tài tài sản duy nhất. Thomas Mun (1571 - 1641)
là
người
đại diện điển hình nhất của quan điểm trên. Trong cuốn sách: “Kho bạc
nước
Anh qua
thương mại quốc tế” ông đã lớn tiếng đòi cấm xuất khẩu vàng, bạc và
đá
quý. Mặt
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
khác, phải tăng cường vai trò của Nhà nước đối với nhập
khẩu.
Xuất phát từ quan điểm
trên, vàng, bạc, đá quý bị gạt ra ngoài cơ cấu
xuất
khẩu.
2. Quan điểm của Adam Smith (1723 - 1790) và học thuyết lợi thế tuyệt đối
Trong quan điểm của Adam Smith giả định rằng thế giới chỉ có hai quốc gia
và mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng. Ông đồng nhất chi phí sản xuất với tiền
lương cá nhân và giá cả hoàn toàn do chi phí sản xuất quyết định.
Adamsmith cho
rằng : Các quốc gia tham gia mậu dịch với nhau trên cơ sở tự nguyện,do đều có lợi.
Cơ sở để các nước cùng có lợi trong buôn bán là lợi thế tuyệt đối của mỗi nước.Lợi
thế tuyệt đối là khái niệm để chỉ khả năng của một nước sản xuất ra một mặt hàng
nào đó với chi phí thấp hơn nước khác.Nói cách khác,một nước được coi là có lợi
thế tuyệt đối nếu nước đó cùng một đơn vị đầu vào có thể sản xuất ra nhiều đơn vị
hàng hóa hơn so với nước khác.Nhờ tự do mậu dịch,các nguồn lực trên thế giới
được phân bổ một cách hợp lý,tạo ra lợi ích cho mỗi nước tham gia buôn bán. Lợi
thế tuyệt đối lấy năng suất lao động làm nền tảng.Các nước đều có thể được lợi nếu
như mỗi nước chuyên môn hóa vào sản xuất các hoàng hóa mà các nước đó cho là
hiệu quả hơn so với nước khác.Adamsmith cho rằng trong quan hệ thương mại giữa
hai nước,mỗi bên sẽ xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối của mình,đồng
thời nhập khẩu những sản phẩm mà nó kém lợi thế tuyệt đối so với nước kia,nhờ
vậy mà cả hai nước đều cùng có lợi.Mô hình chuyên môn hóa và trao đổ quốc tế
này(Phân công lao động quốc tế) rất có hiệu quả và dẫn tới sự gia tăng sản lượng
các mặt hàng của mọi quốc gia.Đây chính là cốt lõi của lợi ích thu được từ mậu
dịch.Với sự gia tăng của tất cả các mặt hàng,các nước đều có thể hưởng mức sống
cao hơn. Lợi thế tuyệt đối chứng minh rằng: nước A sản xuất hàng X có lợi hơn
nước
B và ngược lại, nước B sản xuất hàng Y có hiệu quả hơn nước A. Vì vậy hai
nước
có
thể sản xuất những mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn đó và trao đổi
cho nhau
thì
chắc chắn hai bên đều có
lợi.
Theo học thuyết lợi thế tuyệt đối thì cơ cấu xuất khẩu sẽ được hình thành
trên
cơ sở lợi thế tuyệt đối của hàng hoá. Song song với điều đó, A.Smith chủ
trương
tự
do hoá thương mại tức là cơ cấu xuất nhập khẩu phải để bàn tay vô
hình tự điều
tiết.
Với học thuyết lợi thế tuyệt đối này A.Smith hoàn toàn đối nghịch với
quan
điểm xuất nhập khẩu của phái trọng
thương.
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
3. Mô hình David
Ricardo
và học thuyết lợi thế so sánh
Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã nghiên cứu và chỉ ra
rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia.Ricardo cho rằng cơ
sở để các nước buôn bán với nhau không nhất thiết phải là lợi thế tuyệt đối,mà có
thể dựa trên lợi thế so sánh.Lợi thế so sánh là khái niệm để chỉ khả năng của một
nước sản xuất ra một mặt hàng nào đó với chi phí thấp hơn nếu nước đó sản xuất
một mặt hàng khác.Giả thiết mà ông đặt ra là thế giới chỉ có 2 quốc gia sản xuất 2
loại sản phẩm, yếu tố sản xuất duy nhất là lao động,giá trị hàng hóa tính theo công
lao động, lao động tự do di chuyển trong một nước nhưng không di chuyển giữa các
nước và mậu dịch tự do(không thuế quan), chi phí vận chuyển bằng không.
Quy luật lợi thế so sánh Ricardo rút ra là : Khi mỗi nước chuyên môn hóa vòa
sản xuất sản phầm mà nước đó có lợi thế so sánh,tổng sản lượng của mỗi sản phẩm
trên thế giới sẽ gia tăng với kết quả là tất cả các nước trở nên giàu có hơn.
Theo quy luật này,ngay cả một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối sản xuất cả
hai sản phẩm vẫn có lợi khi giao thương với một quốc gia khác được coi là có lợi
thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm. Trong điều kiện quốc gia thứ hai lại càng
có bất lợi hơn so với khi họ không có giao thương.Trong trường hợp này,nếu một
quốc gia bất lợi hoàn toàn trong việc sản xuất tất cả các sản phẩm thì vẫn có thể
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có bất lợi nhỏ nhất thì họ vẫn có
lợi.còn quốc gia có lợi hoàn toàn trong việc sản xuất tất cả sản phẩm thì họ sẽ tập
trung chuyên môn hóa trong việc sản xuất xuất khẩu sản phẩm có lợi lớn nhất thì
họ vẫn luôn có lợi.
Việc lựa chọn cơ cấu xuất nhập khẩu như trên
sẽ
đảm bảo cho cả hai bên đều
có lợi qua trao đổi trong ngoại thương, vừa thúc
đẩy
chuyên môn hoá quốc tế để
nước nào cũng có thể sản xuất quy mô lớn , vừa tạo
khả
năng lựa chọn lớn hơn
cho người tiêu dùng ở cả hai
nước.
4. Lý thuyết Haberler về lợi thế tương đối :
Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác
phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm 1 đơn vị
hàng hóa thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó
so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn
nước khác. Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
với một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để
sản xuất sản phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác. Và theo đó,
mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có
lợi thế so sánh để đổi lấy các sản phẩm mà nước khác sản xuất rẻ hơn một cách
tương đối.
5. Mô hình ngoại thương của học thuyết
Heckscher
- Ohlin (H -
O)
.
Mô hình này chứng minh rằng lợi thế so sánh chịu ảnh hưởng của các
mối
quan hệ tương hỗ giữa các tài nguyên của đất nước, tức là sự phong phú của
các
yếu
tố sản xuất và công nghệ sản xuất chi phối cường độ tương đối mà các
yếu tố
sản
xuất khác nhau được dùng để sản xuất ra các hàng hoá khác
nhau.
Trong học thuyết này thì một nước có nguồn cung của một
tài
nguyên nào
đó tương đối lớn hơn so với nguồn cung của các tài nguyên khác
thì
được gọi
là phong phú về nguồn tài nguyên đó, và sẽ có xu hướng sản xuất các
hàng
hoá
sử dụng nhiều tài nguyên phong phú đó nhiều hơn. Nói một cách khác,
các
nước có xu hướng xuất khẩu các hàng hoá có hàm lượng về các yếu tố mà
trong
nước có nguồn cung cấp dồi
dào.
Mặc dù qua thực nghiệm quan điểm cho
rằng những khác biệt về sự
phong
phú của các yếu tố sản xuất giữa các nước
quyết định cơ cấu ngoại thương
nói
chung không khớp với thực tế nhưng mô
hình H - O vẫn có tác động tích cực
đến
việc nghiên cứu vai trò tái thu nhập của
ngoại
thương.
Các học thuyết ngoại thương được tóm lược trên đây đều có quan
hệ đến
việc
giải quyết cơ cấu xuất nhập khẩu về mặt định tính. Song trong thực tế
cơ cấu
xuất
nhập khẩu của một nước còn phải đối mặt với cung cầu tương đối cuả
thị trường
thế
giới. Chính cung cầu tương đối đó quyết định giá tương đối giữa
xuất khẩu và
nhập
khẩu của một nước, tức là điều kiện thương mại. Nên các yếu
tố khác như nhau
thì
điều kiện thương mại của một nước tăng sẽ làm cho phúc
lợi của nước đó
giảm.
Trong một phạm vi nhất định việc cải tiến cơ cấu xuất
nhập khẩu sẽ tác động đến điều kiện thương mại.
Đó là nguyên nhân tại sao các nước dư thừa nhân lực (Trung Quốc, Ấn Độ)
xuất khẩu hàng dệt may,giày dép và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động khác.
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
Còn các nước dồi dào đất đai (Như Argentina, Australia, Canada) xuất khẩu thịt,bột
mì,gỗ và các sản phẩm sử dụng nhiều đất đai khác.
Ý nghĩa quan trọng của lý thuyết H – O là nó nêu lên rằng lợi thế so sánh của
một nước phụ thuộc vào cường độ các đầu vào sản xuất (như lao động, đất đai, tài
nguyên, vố và trình độ công nghệ) mà nước đó sỡ hữu. Chặng hạn một nước dồi dào
lực lượng lao động thường sẽ có lợi thế so sánh đối với các sản phẩm sử dụng nhiều
lao động, trong khi một nước khác có trình độ công nghệ tiên tiến thường sẽ có lợi
thế só sánh đối với các sản phẩm sử dụng công nghệ tiên tiến.
6. Mô hình đàn sếu bay
Kojima đã giải thích mô hình Sếu bay bằng cách trích dẫn bài phát biểu nổi tiếng
của Sabro OKITA 1 nhà kinh tế cũng là nguyên bộ trưởng ngoại giao Nhật Bản:
Sự phân chia lao động ở khu vực Thái Bình Dương một cách khéo léo được gọi là
khuôn mẫu “đàn sếu bay” của sự phát triển.
Mô hình đàn sếu bay đại diện cho 1 loại thuyết động lực đặc biệt. Ví dụ trong khu
vực Thái Bình Dương, nước Mỹ phát triển như một nước đầu đàn. Đầu những năm
cuối thế kỷ 19, Nhật Bản bắt đầu phát triển rượt đuổi trong hàng hóa tiêu dùng
không bền, hàng hóa tiêu dùng bền và bộ phận hàng hóa vốn. Ngày nay, nhóm các
nước có nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs) châu Á và các nước Đông Nam Á
đang đi theo bước chân của Nhật.
Mô hình đàn sếu bay cho thấy mọi cái có khả năng tạo thuận lợi cho sự khác
biệt để phát triển với sự phân chia lao động tương hỗ.Bài diễn văn của OKITA vào
năm 1958 đã đào sâu vào sở thích gần đây về mô hình đàn sếu bay và thật ra Đông
Á đã phát triển đúng như OKITA miêu tả, ít nhất là trước khủng hoảng tiền tệ Châu
Á(1997-1998). Khuôn mẫu “ Đàn sếu bay” của sự phát triển kinh tế được miêu tả
bởi OKITA như hình vẽ :
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
Hình 1: Mô hình “ Đàn sếu bay” với sự phát triển kinh tế ở Đông Á.
Thật ra có 2 nguyên lý khác nhay rõ nét của mô hình đàn sếu bay : Một được
áp dụng vào sự phát triển kinh tế của 1 nước cụ thể, và hai là được áp dụng vào mô
hình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia theo trình tự. Ở trong bài này chúng ta chỉ
xét đến mô hình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia theo trình tự.
Do Đông Á có nhiều nhóm nước có các giai đoạn phát triển khác nhau cho nên
các nước này đã được chia thành các nhóm kinh tế khác nhau trong đó thì dẫn đầu
trong mô hình “đàn sếu bay” là Nhật Bản tiếp đến là nhóm NIEs gồm các nước là
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo rồi tiếp đến là 4 nước ASESN phát triển
trước là(Malaixia, Thái Lan, Philippin và Indonexia) được gọi là nhóm ASEAN-4,
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
và cuối cùng là tới Trung Quốc. Việt Nam cũng có thế là nước tiếp theo trong mô
hình đàn sếu bay sau Trung Quốc.
Trong hình 1 thì Nhật Bản được coi như là “con sếu đầu đàn” của Đàn sếu phát triển
kinh tế của các nước Đông Á. Nhật Bản là nước có ngành công nghiệp phát triển nên
một ngành công nghiệp thường bắt đầu từ Nhật Bản( tạm gọi là ngành A), sau đó chuyển
sang NIEs, rồi tiếp tục được chuyển đến nhóm ASEAN-4, sau nữa là đến Trung Quốc
và cũng có thể Việt Nam và các nước khác sẽ là các nước tiếp theo; khi các ngành công
nghiệp cơ bản ở các nước đi đầu đã mất lợi thế so sánh thì họ sẽ chuyển dần sang các
ngành có giá trị gia tăng cao với trình độ công nghệ cao hơn (ngành B rồi C, khi mà
ngành A rồi B đã chuyển sang các nước đi sau). Đây chính là hiện tượng bắt kịp nhiều
tầng trong quá trình công nghiệp hóa ở Đông Á, tạo sự năng động cho khu vực này. Nhìn
toàn cục, ta thấy có sự tiến triển nhanh trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
nước theo hướng công nghiệp hóa, các nước đi sau đuổi theo các nước đi trước, rút ngắn
khoảng cách phát triển công nghiệp.
Hình 2: Cơ cấu chuyển đổi ở Đông Á
Nguồn : /> Cho đến đầu thập niên 1990, hầu hết các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng
việc áp dụng mô hình đàn sếu bay để giải thích sự lan tỏa của công nghiệp tại Đông
Á là có cơ sở. Như ở trên hình 2 chúng ta thấy rõ sự chuyển giao từ nước Nhật sang
các nước NIEs rồi tiếp tục sang các nước ASEAN-4 Ban đầu ngành công nghiệp
dệt may của Nhật phát triển mạnh mẽ, rồi lợi thế so sánh từ Nhật sang các nước
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
NIEs, khi đó Nhật giảm ngành xuất khẩu dệt may và thay với đó là các ngành thép,
và tiếp tục đến các ngành chế tạo ra tivi phổ biến, đầu video, và TV cao cấp Các
ngành công nghiệp trên lại chuyển dần về các nước mới tham gia vào “đàn sếu”.
Hình 3 : Một số hình minh họa cho sự đúng đắn của mô hình đàn sếu bay
Hình 3.1: Cơ cấu xuất khẩu của
Nhật Bản
Hình 3.2: Xuất khẩu dệt may với của
các nhóm nước
.
Hình 3.3: Sự phân chia lao động quốc tế
Nguồn: /> Ở hình 3.2 ta thấy rằng khi nền công nghiệp dệt may của Nhật Bản bắt đầu đi vào
giai đoạn thoái trào trong việc xuất khẩu, khi đó việc sản xuất và xuất khẩu ngành
dệt may được chủ yếu các nước NIEs thực hiện. Rồi tiếp tục đến các nước trong
nhóm ASEAN-4… Do quá trình đuổi bắt này, lượng sản xuất tại Nhật Bản giảm
nhanh và phải nhập khẩu nhiều từ các nước Đông Á. Và cũng tương tự như vậy
trong sự phân chia lao động quốc tế.
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
Tuy nhiên, từ cuối thập niên 1990, với sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc,
sự phát triển của công nghệ thông tin, sự rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa các
nước, nên đã có nhiều ý kiến nghi ngờ và tính thuyết phục của mô hình đàn sếu bay
này. Như chúng ta đã biết Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn có vùng Tây Nam
của Trung Quốc vẫn có trình độ phát triển thấp hơn so với các khu vực khác của
Trung Quốc, trình độ như Việt Nam nên làn sóng công nghiệp có thế sẽ không lan
tỏa đến các nước sau Trung Quốc trong mô hình “đàn sếu” mà có thể làn sóng công
nghiệp sẽ lan tỏa trong nội bộ của Trung Quốc. Và một điều quan trọng không kém
là Trung Quốc xuất khẩu hầu như tất cả các loại hàng công nghiệp, từ các ngành có
hàm lượng lao động cao đến các sản phẩm sử dụng nhiều tư bản và công nghệ cao,
gây ra sự bất ổn trật tự phân chia lao động ở Đông Á. Các nước đi sau như Việt
Nam sẽ khó có cơ hội chen chân vào cơ cấu phân công này, các nước ASEAN-4,
NIEs và Nhật Bản cũng đứng trước những thách thức không nhỏ từ Trung Quốc.
Sự xuất hiện của Trung Quốc trong mô hình “ đàn sếu bay” dường như đã làm
cho đàn sếu phía sau bị bay lệch đi hướng mà nó đã định từ trước. Với vị trí là nước
đi sau Trung Quốc trong sự phát triển kinh tế theo “ đàn sếu bay” Việt Nam đang
có được những lợi thế và cũng đối đầu với những thách thức không nhỏ: Với những
thành tựu của Trung Quốc và có cơ cấu kinh tế tương đối giống Việt Nam thì Việt
Nam hoàn toàn có thế dựa vào đó để tham khảo cho sự phát triển nền kinh tế của
mình đó là: Tiến nhanh vào cơ chế thị trường nhất là lĩnh vực sản xuất, cải cách
doanh nghiệp nhà nước để tạo điều kiện về cơ chế để các doanh nghiệp ngoài nhà
nước phát triển. Do như đã trình bày ở trên Trung Quốc là một nước lớn và có vùng
Tây Nam cũng giống như nền kinh tế ở Việt Nam nên khi chuyển giao ngành công
nghiệp thì Trung Quốc sẽ chuyển giao trong nội bộ của mình, khi đó Việt Nam sẽ
vẫn đi đúng theo mô hình “ đàn sếu bay” nhưng Việt Nam sẽ đi chậm hơn Trung
Quốc rất nhiều, do phải chờ sự chuyển giao của vùng Tây Nam Trung Quốc sang
Việt Nam và khi đó nền kinh tế Việt Nam sẽ trở lên lạc hậu hơn so với vùng kinh tế
của Tây Nam Trung Quốc, từ một vị trí ngang bằng sau một thời gian Việt Nam lại
tụt hậu hơn. Dường như nếu Việt Nam muốn phát triển nhanh hơn thì phải có một
biện pháp thay thế hữu hiệu. Vậy chúng ta sẽ đi phân tích rõ cơ cấu của Việt Nam
đầu những năm của thập kỷ 1990 đến nay.
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
CHƯƠNG 2 :PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU
VÀ CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1990 – 2010
I.TẦM QUAN TRỌNG CỦA XUẤT NHẬP KHẨU TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
1. Đánh giá chung về tình hình xuất nhập khẩu thời gian 1990 - 2010
Trong hơn 20 năm qua, nhờ chính sách đổi mới đa phương hoá các quan hệ
kinh tế và thực hiện
chủ
trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước,
đặc
biệt là từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những
bước
tiến quan trọng. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên
200 nước
và
vùng lãnh thổ thuộc hầu khắp các châu lục trên thế giới, trong khi
vào thời
điểm
trước năm 1990 con số này chỉ dừng ở dưới 50 quốc gia. Từ
chỗ chỉ xuất khẩu vài nguyên liệu thô thì nay chủng loại xuất khẩu hàng
hoá
đã
đa dạng hơn, thị trường xuất khẩu được mở rộng hơn, tỉ trọng hàng đã qua
chế
biến tăng khá nhanh. Đặc biệt trong nhiều năm liền, xuất khẩu đã trở thành động
lực
chính của tăng trưởng GDP, là đầu ra quan trọng cho nhiều ngành kinh tế
và
góp
phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công
nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Trong chuyên đề này, giai đoạn 1991 - 2010
chúng tôi chia
thành
các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn đánh dấu một
bước phát triển của
hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt
Nam.
Dưới đây là bảng số liệu về tình hình xuất nhập khẩu và của nước ta trong
giai đoạn 1990 -2010 :
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
Bảng 1 : Tình hình xuất nhập khẩu nước ta giai đoạn 1990 – 2010
Năm
Tổng KN XNK Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu
Triệu
R-USĐ
Tỉ lệ
tăng(%)
Triệu
USĐ
Tỉ lệ
tăng(%)
Triệu
USĐ
Tỉ lệ
tăng(%)
Triệu
USĐ
So
XK
(%)
1990 5156,4 2404 2752,4
1991 4425,2 -14,2 2.087,10 -13,2 2.338,10 -15,1 -251 -12
1992 5121,4 15,7 2.580,70 23,7 2.540,70 8,7 40 1,5
1993 6909,2 34,9 2.985,20 15,7 3.924,00 54,4 -938,8 -31,4
1994 9880,1 43 4.054,30 35,8 5.825,80 48,5 -1.771,50 -43,7
1995 13604,3 37,7 5.448,90 34,4 8.155,40 40 -2.706,50 -49,7
1996 18399,5 35,2 7.255,90 33,2 11.143,60 36,6 -3.887,70 -53,6
1997 20777,3 12,9 9.185,00 26,6 11.592,30 4 -2.407,30 -26,2
1998 20.859,90 0,4 9.360,30 1,9 11.499,60 -0,8 -2.139,30 -22,9
1999 23.283,00 11,6 11.541,00 23,3 11.742,00 2,1 -201 -1,7
2000 30.120,00 29,4 14.483,00 25,5 15.637,00 33,2 -1.154,00 -8
2001 31.247,00 3,7 15.029,00 3,8 16.218,00 3,7 -1.189,00 -7,9
2002 36.438,80 16,6 16.705,80 11,2 19.733,00 21,7 -3.027,20 -18,1
2003 44.700,00 22,7 19.800,00 18,5 24.900,00 26,2 -5.100,00 -25,8
2004 58453,8 30,8 26485 33,8 31968,8 28,4 -5483,8 -20,7
2005 69208,2 18,4 32447,1 22,5 36761,1 15 -4314 -13,3
2006 84717,3 22,4 39826,2 22,7 44891,1 22,1 -5064,9 -12,7
2007 111326,1 31,4 48561,4 21,9 62764,7 39,8 -14203,3 -29,2
2008 143398,9 28,8 62685,1 29,1 80713,8 28,6 -18028,7 -28,8
2009 127045,1 -11,4 57096,3 -8,9 69948,8 -13,3 -12852,5 -22,5
2010 156990 23,6 72190 26,4 84800 21,2 -12610 -17,5
Nguồn : Niên giám thống kê và tính toán của nhóm nghiên cứu
1.1 Giai đoạn 1991- 1995
Trong thời gian này, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng với tốc
độ
khá cao, bình quân đạt trên 26%/năm. Đặc biệt trong những
năm
1994,
1995 sau khi Mỹ xoá bỏ cấm vận ở Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu
của
Việt Nam tăng mạnh
.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991 - 1995 là
17,156 tỷ
USD,
tăng 144% so với 7,03 tỷ USD của thời kì 1986 - 1990. Đây là
một thành
tích
lớn bởi đây là thời kì chuyển đổi đầy khó khăn đối với hoạt động
xuất khẩu của
Việt
Nam do bị mất thị trường truyền thống là Liên Xô cũ và các
nước XHCN Đông
Âu.
Kim ngạch xuất khẩu năm 1991 giảm tới 14,2% so với
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
năm
1990.
Từ năm 1991, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh về cả số
lượng
và chất lượng. Một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng đã hình thành và
phát
triển
nhanh chóng. Đó là dầu thô, nông sản, giày dép, dệt may.Việt Nam đã
bắt đầu
xuất
khẩu dầu thô vào những năm 1989 với số lượng 1,5 triệu tấn, đến
năm 1991 là
gần
4 triệu tấn và cả thời kì 1991 - 1995 đã xuất khẩu hơn 30 triệu
tấn. Gạo cũng bắt
đầu
được xuất khẩu với khối lượng lớn vào những năm 1989
(1,42 triệu tấn) nhưng
chỉ
tới những năm 1991 - 1995 thì vị trí của gạo trong
cơ cấu xuất khẩu mới
được
khẳng định. Cà phê cũng có những bước tiến vượt
bậc. Năm 1990 ta mới xuất
được
89,6 ngàn tấn, đến năm 1995 đã xuất khẩu
được 186,9 ngàn tấn, tức là tăng hơn
2
lần. Kim ngạch xuất khẩu hàng may
mặc cũng đạt 847 triệu USD vào năm
1995,
gấp 5 lần kim ngạch năm 1991.
Đặc biệt kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản
phẩm
da đã tăng từ 10 triệu
Rúp&USD vào năm 1991 lên 23 triệu Rúp&USD năm
1995,
gấp 29
lần.
(
i
)
1.2 Giai đoạn 1996 – 2000
Ngay năm đầu tiên của thời kì 1996 - 2000 xuất khẩu đã vượt mức tăng
bình
quân đề ra. Kim ngạch xuất khẩu năm 1996 đạt 7,255 tỉ USD, tăng 33,2% so
với
5,448 tỉ USD của năm 1995. Sang năm 1997, nền kinh tế tiếp tục ổn định
và
phát
triển nên kim ngạch đã đạt 9,185 tỉ USD, tăng 26,6% so với năm
1996.
Trong giai đoạn này ngoài các thuận lợi như Mỹ bỏ cấm vận thương mại
với
Việt Nam, chúng ta đã kí tắt được hiệp định sửa đổi về buôn bán hàng dệt
may
với
EU cho giai đoạn 1998 - 2000, hoạt động xuất khẩu trong năm 1997
cũng gặp
phải
những khó khăn nhất định. Đặc biệt bất lợi lớn nhất là cuộc
khủng hoảng tài chính
nổ
ra ở các nước châu Á, mà khởi đầu là ở Thái Lan,
đồng thời giá cả của các
loại
nguyên liệu và sản phẩm thô dành cho xuất khẩu
trên thị trường thế giới rất bất
lợi.
Trước tác động to lớn của khủng hoảng, mặc
dù Chính phủ đã dành sự quan
tâm
đặc biệt và áp dụng khá nhiều biện pháp
khuyến khích nhưng xuất khẩu chỉ tăng
ở
mức không đáng kể sau nhiều năm
tăng trưởng với tốc độ cao. Kim ngạch
xuất
khẩu cả năm đạt 9,360 tỉ USD,
bằng 91,8% kế hoạch đề ra và chỉ tăng 1,9% so
với
năm 1997. Đây là lần đầu
tiên kể từ năm 1992 kim ngạch xuất khẩu tăng ở
mức thấp.
Để đẩy mạnh xuất
i()
Nguồn tham khảo : />SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
khẩu, Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến
khích
Sau một thời gian ngắn,
những chính sách này đã bắt đầu phát huy tác dụng
(
ii
)
.
Năm
1999, kim ngạch
xuất khẩu cả năm đã vượt chỉ tiêu đặt ra, tức là vượt qua mốc 10
tỉ
USD và đạt
11,541 tỉ USD, tăng 23,3% so kim ngạch năm 1998
. Kết quả này, một mặt do
xuất
khẩu được đầu tư đúng mức, mặt khác, kinh tế ở khu vực châu Á đã có
dấu
hiệu
phục hồi, tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Năm
2000,
nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lên, chặn được đà giảm sút kéo
dài liên
tục
trong 4 năm trước đó. Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,5 tỷ
USD, tăng
25,5%
so với năm 1999, tương đương 3 tỷ
USD.
Như vậy, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động xuất
khẩu
của Việt Nam nói riêng trong giai đoạn 1996 - 2000 diễn ra hết sức phức tạp,
đầy
những biến động, và đó cũng là bầu không khí ảm đạm chung của nền kinh
tế
thế
giới, đặc biệt là kinh tế khu vực châu Á, với sự đổ vỡ hàng loạt của hệ
thống
dây
chuyền tài chính - ngân hàng. Nắm được tình hình của thế giới,
chúng ta đã có được những điều chỉnh thích hợp và vượt qua được
giai đoạn khó khăn này.
1.3 Giai đoạn 2001 -2005
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001-2005 đạt 110,466 tỷ USD, với tốc độ
tăng trưởng bình quân 17,96%/năm; tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 129,6 tỷ USD,
với tốc độ tăng trưởng bình quân 19%/năm. Xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá cao trong
GDP với 54% và bình quân đầu người đạt 274 USD. Với kết quả này, Việt Nam
đứng thứ 50 về xuất khẩu và 43 về nhập khẩu (theo thống kê của Tổ chức Thương
mại Thế giới) và được đánh giá là quốc gia có mức tăng trưởng xuất nhập khẩu tốt,
thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
1.4 Giai đoạn 2006 -2010
Bước sang giai đoạn 2006-2010, quyết tâm hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện
và sâu rộng của Việt Nam với mục tiêu phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu cũng
đã phát huy hiệu quả. Hàng loạt các cải cách trong lĩnh vực kinh tế đã được thực
hiện, cùng với những hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết,
khơi thông hoạt động sản xuất, thương mại, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát
ii
()
(Nguồn tham khảo : quyết định TTCP
Số 254/1998/QĐ-TTg về điều hành xuất nhập khẩu hàng hóa 1999).
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
triển và cạnh tranh bình đẳng, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực
cho phát triển kinh tế.
Trong xu hướng tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, năm 2006 kinh tế Việt
Nam tiếp tục tăng trưởng cao (8,2%), đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Trung
Quốc. Năm 2006 cũng ghi nhận thành công vượt bậc của Việt Nam trên con đường
hội nhập kinh tế quốc tế với việc trở thành thành viên chính thức của WTO và tổ
chức thành công hội nghị thượng đỉnh APEC. Theo đà phát triển của giai đoạn
2001-2005, xuất khẩu năm 2006 diễn ra sôi động ngay từ đầu năm với kim ngạch
xuất khẩu tháng 1 vượt 3 tỷ USD và xuất siêu 376 triệu USD. Đây là mức xuất siêu
trong tháng cao nhất từ trước tới nay. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm
2006 đạt 39,83 tỷ USD, tăng 22,8% so với năm trước (tăng 7,4 tỷ USD về số tuyệt
đối). Hết năm 2006, có tới 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Trong khi nhập khẩu là năm thứ ba liên tiếp có tốc độ tăng thấp hơn xuất khẩu với
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đạt trên 44,89 tỷ USD, tăng 21,4% so với
năm 2005. Mức nhập siêu chỉ bằng khoảng 12,7% kim ngạch xuất khẩu, thấp nhất
trong vòng 5 năm trở lại đây là một tỷ lệ khá lý tưởng đối với Việt Nam.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam đang từng
bước nắm bắt cơ hội do việc gia nhập WTO mang lại để phát triển kinh tế toàn diện
hơn trên nhiều lĩnh vực. Tốc độ tăng GDP cao nhất với 8,5% và cao hơn so với một
số nước trong khu vực ( Thái Lan tăng 4%, Indonexia tăng 6,3%, Philippin tăng
6,6% ). Tuy vậy, Việt Nam cũng phải đối mặt ngay với thách thức lớn của việc gia
nhập tổ chức này khi những bất lợi của kinh tế thế giới tác động nhanh và trực tiếp
đến kinh tế trong nước. Đặc biệt là tình hình lạm phát và nhập siêu cao. Năm 2007
cũng là năm đầu tiên tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đật trên 100 tỷ USD,
gấp hơn 3,5 lần so với năm 2001. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt
111,2 tỷ USD, tăng khá cao(31,4%) so với năm 2006. Trong đó xuất khẩu đạt 48,56
tỷ USD, tăng 21,9% và nhập khẩu là 62,76 tỷ USD, tăng xấp xỉ 40% so với năm
2006 . Tỷ trọng xuất khẩu so với GDP khoảng 68% và tốc độ tăng xuất khẩu gấp
2,6 lần tốc độ tăng GDP. Thứ hạng về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
đã được nâng lên, ở vị trí thứ 46 trên thế giới( theo thống kê của WTO). Trong đó
xuất khẩu vẫn giữ vị trí thứ 50 và nhập khẩu tăng 5 bậc so với năm trước, lên vị trí
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
41. Đặc biệt, Việt Nam trong danh sách 30 nhà xuất khẩu lớn nhất vào Hoa Kỳ
trong năm 2007. (
iii
)
Năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,2% - đây là tốc độ
thấp nhất kể từ năm 2000 nhưng lại là mức tăng trưởng khá cao trong bối cảnh
khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu. Trong năm này mục tiêu ưu tiên tăng
trưởng kinh tế cao của Việt Nam đã chuyển sang cho mục tiêu kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô. Cùng với đó, tác động xấu của kinh tế thế giới đã lan nhanh
hơn vào kinh tế Việt Nam sau 2 năm là thành viên của WTO. Trước ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát và thâm hụt thương mại cao, Chính Phủ đã
có những can thiệp kịp thời. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đã nhường chỗ cho
mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó thể hiện trong 8
nhóm giải pháp của Chính Phủ đã phát huy hiệu quả, giảm áp lực cho cán cân thanh
toán quốc tế và từng bước kiềm chế lạm phát thành công. (
iv
)
Tuy có nhiều khó khăn nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam
năm 2008 vẫn cao chưa từng có với 143,4 tỷ USD, tăng 28,8% so với năm 2007 và
gấp gần 5 lần so với năm 2001, gấp hơn 2 lần so với năm 2005. Trong đó, xuất khẩu
đạt 62,7 tỷ USD, tăng 29,1%; nhập khẩu là 80,7 tỷ USD, tăng 28,8% so với năm
2007.
Năm 2009, cùng chung vòng xoáy của suy thoái kinh tế thế giới năm 2009,
kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn về tài chính, tiền tệ, đầu tư
nước ngoài, nhập siêu gia tăng… Các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ và
hoạt động ngoại thương bị suy giảm. Tuy nhiên các chính sách kinh tế của Chính
phủ đã kịp thời can thiệp và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Đặc biệt là các gói giải pháp kích thích nền kinh tế như: cho vay, hỗ trợ lãi suất,
miễn giảm, hoàn thuế với nhiều hàng hoá, dịch vụ… đã giúp kinh tế trong nước
từng bước vượt qua khó khăn.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá, vị trí của Việt Nam cũng vươn lên
đứng thứ 38 trên thế giới theo thống kê của WTO. Trong đó, xuất khẩu ở vị trí 40
và nhập khẩu là 35. Xét trong khu vực ASEAN, Việt Nam vẫn duy trì vị trí thứ 5
iii
( ) Nguồn tham khảo />%20QTH.pdf
iv
()Nguồnthamkhảo: />_pageid=33,128127&_dad=portal&_schema=PORTAL&pers_id=130895&item_id=7776191
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Vũ Kim Dũng
và suy giảm kim ngạch xuất nhập khẩu thấp hơn nhiều so với nhiều nước khác
trong khu vực. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng
nhờ vào việc tái xuất vàng và huy động được tối đa lượng nông sản, nên xuất khẩu
của hàng hóa của Việt Nam năm 2009 là 57,1 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm
2008. Năm 2009, kim ngạch nhập khẩu cả nước là 69,95 tỷ USD, giảm 13,3% so
với năm 2008. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu hàng hoá so với GDP năm 2009 đạt xấp
xỉ 65%, thấp hơn so với tỷ lệ của năm 2008 (xấp xỉ 70%).
Trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa thoát ra khỏi khủng hoảng, tình hình kinh
tế - xã hội của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong
năm 2010 đã có nhiều dấu hiệu phục hồi khả quan. Việt Nam đang chứng tỏ khả
năng vượt qua khó khăn và thách thức với mức độ tăng trưởng GDP năm 2010 đạt
6,78%. Cho đến hết năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 72,190 tỷ
USD, tăng 26,4% so với năm 2009; nhập khẩu đạt 84,8 tỷ USD, tăng 21,2% so với
năm 2009. Như vậy, nhập siêu năm 2010 khoảng 12 tỷ USD và tỷ lệ nhập siêu/xuất
khẩu là 17,46%. Tính chung cả giai đoạn 2006-2010, tổng xuất khẩu 280,35 tỷUSD,
tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 18,24 %/năm, tổng nhập khẩu là 343,11 tỷ USD,
tốc độ tăng nhập khẩu bình quân là 19,6%/năm.
2.Xuất nhập khẩu với sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua
Trong 20 năm qua kể từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta có những chuyển
biến rõ rệt, trung bình tốc độ tăng GDP trong 20 năm qua là trên 7%. Đặc biệt là do
có những đổi mới trong đường lối cũng như nắm bắt được xu hướng nền kinh tế thế
giới có những năm tốc độ tăng của nền kinh tế nước ta có những con số tăng trưởng
thần kì ( 1995 : 9,54%) và trong những năm mà nền kinh tế thế giới khủng hoảng
thì nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng ở tốc độ cao.
Bảng 2 : Tốc độ tăng GDP giai đoạn 1990 - 2010
NĂM
GDP
(TỶ Đ)
TỐC ĐỘ TĂNG GDP
(%)
XUẤT KHẨU
/GDP (%)
1990 131966 26,4
1991 139634 5,81 30,9
1992 151782 8,7 34,7
1993 164043 8,08 28,7
1994 178534 8,83 34
SV: Nguyễn Đức Mạnh Lớp: Kinh tế học
Nguyễn Công Hiệp
20