Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm giáo duc giới tính cho HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.8 KB, 23 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, do chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng thông tin
với nhiều phương tiện nghe, nhìn, sách, báo, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình
bạn, tình yêu, quan hệ nam, nữ… là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển sớm về giới
tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh THPT.
Là một giáo viên giảng dạy môn sinh tại trường THPT, tôi nhận thấy việc
giáo dục giới tính cho học sinh là việc làm rất cần thiết. Vì giáo dục giới tính giai
đoạn VTN là quá trình tác động rất lớn đến phẩm chất, nhân cách của mỗi con
người con người, góp phần không nhỏ trong giáo dục toàn diện.
Học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất
trong cuộc đời của mỗi con người nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp.
Giai đoạn này được thể hiện bằng sự phát triển nhanh chóng khác thường về cả thể
chất lẫn trí tuệ, tâm sinh lí, quan hệ xã hội và tinh thần. Các em học sinh THPT
đang ở độ tuổi vị thành niên nên có nhiều bỡ ngỡ trước sự thay đổi của bản thân
khi bước vào tuổi dậy thì và có nhiều tò mò, thắc mắc về vấn đề giới tính nhưng lại
không được giải đáp thỏa đáng.
Do vậy, để học sinh THPT có kiến thức và hiểu biết về giới tính thì vấn đề
giáo dục giới tính cho các em là “nhu cầu” cần thiết. Giáo dục giới tính trong
trường THPT sẽ trang bị cho các em có thái độ, hành vi đúng đắn trong giải quyết
các mối quan hệ với bạn bè khác giới đặc biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến tình yêu, hôn nhân và gia đình để góp phần xây dựng cuộc
sống lành mạnh, tốt đẹp cho tương lai.
Thực tế nhìn nhận việc giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản ở nước ta trong
những năm qua đã được đưa vào nhà trường phổ thông nhưng mới chỉ dừng lại ở
chương trình tích hợp, lồng ghép qua một số môn học như Sinh học, Văn học, Địa
lí, Giáo dục công dân… và một số hoạt động ngoại khoá của một số trường chỉ
mang tính thí điểm mà chưa thực sự thường xuyên, tự giác, tích cực chưa trở thành
1
nội dung bắt buộc. Hiệu quả giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản trong nhà trường
còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu hiểu biết của học sinh cũng như yêu cầu đặt ra của
xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản, cùng với sự thiếu quan tâm,


chăm sóc, giáo dục của gia đình cùng với những luồng thông tin thiếu lành mạnh
đã dẫn đến sự lệch lạc, thiếu hiểu biết trong nhận thức, thái độ, hành vi của không ít
thanh thiếu niên về sức khoẻ sinh sản.
Thiếu hiểu biết về tình dục an toàn, và sức khoẻ sinh sản cũng là một nguyên
nhân dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn ở các bạn trẻ và việc nạo phá thai tràn
lan hiện nay. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (WHO) tỉ lệ người nạo phá
thai ở nước ta đứng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Đó là
một thực tế đáng báo động.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng của vấn đề
Hiểu một cách đầy đủ, vấn đề giáo dục giới tính bao gồm rất nhiều nội dung,
như sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ cá nhân, sự phát triển giới tính, tình cảm
Để có được những kết quả khả quan, các chương trình giáo dục giới tính phải được
nghiên cứu kỹ lưỡng, diễn ra trong quá trình lâu dài và đây là vấn đề rất nhạy cảm,
tồn tại những quan điểm khác, trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng, nếu cung
cấp cho học sinh những thông tin và giúp chúng phòng ngừa thai cũng như các
bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ đẩy các học sinh này vào hoạt động tình dục
sớm và bừa bãi. Nhiều ý kiến khác "tẩy chay" việc đưa giáo dục giới tính vào
trường học, coi giáo dục giới tính là "con dao hai lưỡi". Trong sự phát triển mạnh
mẽ của xã hội hiện nay thì sự hiểu biết cơ bản về giới tính của mỗi người có ý
nghĩa rất quan trọng. Đây là kiến thức không thể thiếu để mỗi người tự bảo vệ sức
khỏe của mình và của cộng đồng; biết quan hệ, ứng xử với người khác phù hợp với
chuẩn mực giới tính và đạo đức xã hội, đồng thời biết bảo vệ hạnh phúc gia đình,
duy trì nòi giống, phòng chống các bệnh xã hội
2
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), tuổi vị thành niên là giai đoạn từ 10 - 19
tuổi, nằm trong khoảng thời gian từ lúc dậy thì đến lúc trưởng thành. Ở nước ta có
50% dân số dưới 20 tuổi, trong đó 20% có độ tuổi từ 10 - 19, tức là khoảng 15 riệu
người thuộc lứa tuổi vị hành niên.
Theo bộ y tế, tình hình nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên trong những năm

gần đây có chiều hướng gia tăng. Mỗi năm có khoảng 1,2 - 1,4 triệu trường hợp
nạo phá thai, chiếm 20- 25%. Tại Trung tâm Kế hoạch hóa gia đình PHCM, mỗi
ngày có hàng chục ca đến làm thủ tục khám và xin bỏ thai. Theo thống kê, số lượng
thai phụ dưới 18 tuổi đến phá thai trung bình một năm khoảng 911 ca. So với
những năm 1990, từ năm 2001 trở đi số trẻ vị thành niên đến phá thai ở đây đã
tăng gấp 3 lần. Bên cạnh đó, việc mắc các bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục
tăng lên nhanh chóng ở thanh thiếu niên. Theo ủy ban quốc gia phòng chống AIDS,
tỉ lệ người nhiễm HIV ở lứa tuổi 20 - 29 đã tăng từ 15% năm 1993 lên 62% vào
cuối năm 2012 và số nhiễm HIV ở lứa tuổi vi thành niên chiếm 8,3% các trường
hợp nhiễm.
Như vậy, việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho vị thành niên,
trong đó có một bộ phận lớn là học sinh đang học tập ở trường THPT là vấn đề cần
thiết và cấp bách. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản nhằm cung cấp cho các
em những kiến thức, kỹ năng sống đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản, về tình
bạn, tình yêu Đây là việc làm cần thiết bên cạnh việc giảng dạy văn hóa để góp
phần tạo ra một tương lai tươi sáng cho học sinh.
Thời lượng dành cho nội dung này trong chương trình sinh học rất ít (02 tiết.
Sinh học 11) và không hệ thống, nên trong quá trình giảng dạy chúng tôi gặp rất
nhiều khó khăn để cung cấp đầy đủ thông tin về kiến thức và từ đó rút ra các kĩ
năng sống cho các em.
Trước khi giảng dạy về chủ đề này, chúng tôi làm phiếu trắc nghiệm kiểm tra
ở 4 lớp để xem các em đã được nghe về giáo dục giới tính và tâm sự, chia sẻ lĩnh
3
vực này đối với nhữnng người thân trong gia đình bao giời chưa. Tôi thật sự ngạc
nhiên khi các em trả lời đến 70% chưa được nghe bao giời và cũng không chia sẻ
với ai, 20% trả lời chưa quan tâm đến, 10% tự tìm hiểu trên mạng, sách báo.
- Giáo dục giới tính là một vấn đề khó nói, ngại chia sẻ nên đa số học sinh đều thu
mình lai, khi các em gặp phải vấn để rắc rối thường không có hiểu biết và kĩ năng
để xử lí vấn đề.
II. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề

- Do thời lượng chương trình rất ít nên khi giảng dạy đến phần này chúng tôi đã
phải cung cấp cho các em một hệ thống các câu hỏi theo chủ đề và các tên sách, các
trang website để các em tự tìm hiểu sau đó nộp lại sản phẩm của mình để cô giáo
chấm và chuẩn kiến thức cho các em.
- Giới tính là một vấn đề rất nhậy cảm dễ bị lệch hướng khi học sinh tự tìm hiểu
nên khi lựa chọn các sách và trang website tôi đã rất cẩn thận. Có những trang tôi
phải copy lại và đưa lên mail của mình để cho các em vào lấy xuống làm tư liệu.
- Tập hợp các bài viết hay và đúng thành hệ thống kiến thức chuẩn tạo thành tư liệu
về kiến thức kĩ năng về giáo dục giới tính cho các em.
1. Đặc điểm tâm sinh lí tuổi dạy thì
1.1. Kiến thức
Tuổi dậy thì là giai đoạn phát triển, trong đó trẻ em phát triển thành người lớn và có
khả năng sinh sản.
Tuổi bắt đầu dậy thì thường kéo dài từ 3 đến 5 năm và chia làm hai giai đoạn nhỏ:
+ Giai đoạn trước dậy thì: từ 11-13 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi ở nam.
+ Giai đoạn dậy thì: từ 13-15 tuổi ở nữ và 15-17 tuổi ở nam.
Đến tuổi dậy thì dưới tác động của các hooc môn sinh dục, cơ thể có những biến
đổi trong cơ quan sinh dục và xuất hiện các đặc điểm sinh dục thứ cấp.
a. Những dấu hiệu của tuổi dậy thì:
4
* Ở nam:
Lớn nhanh, cao vọt.
Vỡ tiếng, giọng ồm.
Mọc ria mép, lông nách, lông mu.
Cơ bắp phát triển.
Cơ quan sinh dục to ra.
Tuyến mồ hôi, tuyến nhờn phát triển.
Xuất hiện mụn trứng cá.
Xuất tinh lần đầu.
* Ở nữ:

Lớn nhanh.
Thay đổi giọng nói.
Mọc lông mu, lông nách.
Vú phát triển, hông nở rộng.
Tuyến mồ hôi, tuyến nhờn phát triển.
Xuất hiện mụn trứng cá.
Bộ phận sinh dục phát triển.
Bắt đầu hành kinh.
b. Bản chất của sự thay đổi đó do hoạt động của cơ chế sinh tinh và sinh trứng.
- Dậy thì là thời kỳ hệ thống “vùng dưới đồi”, tuyến yên và buồng trứng (nữ) hoặc
tinh hoàn (nam) bắt đầu hoạt động phối hợp.
5
- Ở các em nữ, trước đây chưa có biểu hiện gì, đột nhiên tuyến yên “nhận lệnh” của
vùng dưới đồi, bắt đầu tiết ra theo chu kỳ của mệnh lệnh FSH và LH. Lập tức
buồng trứng bắt đầu hối thúc các trứng và tiết ra các hooc môn estrogen. Sự khởi
đầu cho việc tiết ra chất nội tiết này là dấu hiệu thời dậy thì bắt đầu. Cũng đừng
nghĩ rằng kinh nguyệt xuất hiện ngay sau khi hệ thống nói trên bắt đầu hoạt động.
Lúc đầu chỉ xuất hiện một số ảnh hưởng do hooc môn, tạo nên một sự biến đổi sinh
lý đầu tiên trên cơ thể trẻ gái. Sự tăng FSH dẫn đến việc buồng trứng tiết ra các
hormone estrogen, tạo nên những thay đổi hình dạng âm đạo, âm hộ, cổ tử cung và
vú, tóm lại các em bắt đầu có dáng vẻ của người lớn.
- Ở các em nam, hooc môn nam có tên gọi là testosterone được hình thành từ quá
trình sinh tinh cũng tăng cường hoạt động ở tuổi dậy thì dẫn đến sự thay đổi về thể
chất của các em trong thời gian này.
1.2. Giáo dục kĩ năng sống về đặc điểm tâm sinh lí
a. Tuổi VTN tuổi mới lớn, dễ bị dụ dỗ, mua chuộc, lừa gạt và xâm hại, bắt chước
các thói quen xấu dẫn đến các hậu quả:
- Với những thay đổi về thể chất và tâm lý như nêu ở trên, những đứa trẻ mới lớn
khi bước vào tuổi dậy thì rất nhạy cảm với cuộc sống xung quanh, các em luôn
muốn tự khẳng định bản thân mình để chứng tỏ mình đã là người lớn. Tuổi VTN ở

mỗi nền văn hoá có những đặc điểm riêng nhưng nói chung còn bộc lộ tính phụ
thuộc, sự khủng hoảng về nhân cách và hoang mang về tâm lý mà như nhiều người
đã nhận xét, các em đang muốn khám phá chính mình.
Cũng chính vì điều này mà các em rất dễ bị các đối tượng xấu dụ dỗ, mua chuộc,
lừa gạt và xâm hại hoặc bắt chước theo các thói quen xấu dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng.
b. Các kĩ năng ứng sử thực tế
- Trẻ em phải học cách ứng xử có trách nhiệm.
- Biết tự bảo vệ bản thân.
6
- Tự tin.
- Không mắc phải những sai lầm.
- Không quan hệ tình dục sớm:
+ Biết kiêng nhịn, kiềm chế.
+ Biết từ chối.
+ Biết tránh bệnh tật.
+ Biết các biện pháp tránh thai.
+ Sử dụng dịch vụ y tế khi cần.
c. Tại sao phải tránh xa, hình ảnh sách báo phản cảm, trang web khiêu dâm đồi
trụy, rượu, thuốc lá, ma túy.
- Giai đoạn dậy thì, các em cứ ngỡ mình là người lớn, thích khám phá mọi thứ,
nhưng thực ra suy nghĩ của các em còn non nớt, định hình về xã hội chưa toàn diện
nên dễ bị tác động từ sách báo, phim ảnh bạo lực, các văn hóa phẩm đồi trụy và cả
từ bạn bè xấu. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến rối loạn hành vi và gây nên
những hậu quả nghiêm trọng như gây thương tích cho người khác, chống người thi
hành công vụ, trộm cắp, đua xe mạo hiểm, hiếp dâm Ngay với người thân và thầy
cô, các em cũng sẵn sàng bộc lộ sự chống đối, không phục tùng, hỗn láo, như là
bản năng sẵn có. Điều đáng ngại ở lứa tuổi này là do những rối loạn tâm lý và hành
vi cộng với sự thiếu hiểu biết, tâm lý không vững vàng nên dễ bị lôi kéo, a dua dẫn
đến phát triển lệch lạc giới tính tuổi dậy thì.

- Năng tập TDTT, tham gia các trò vui chơi giải trí lành mạnh, tránh để mình cô
độc, buồn chán; tạo giấc ngủ sâu.
- Dành nhiều thời gian cho việc học tập.
- Nên tâm sự với mẹ hoặc chị gái lớn nếu có, sẽ giúp giải toả được những bức xúc
thường gặp.
2. Tình dục an toàn và các bệnh lây qua đường tình dục
2.1. Kiến thức
7
2.1.1. Hiểu thế nào là tình dục
- Quan hệ tình dục, còn gọi là giao hợp hay giao cấu, thường chỉ hành vi đưa bộ
phận sinh dục nam/đực vào trong bộ phận sinh dục nữ/cái. Quan hệ tình dục cũng
có thể là giữa những thực thể khác hoặc cùng giới tính hoặc lưỡng tính. Những năm
gần đây, việc thực hiện với những bộ phận không phải là bộ phận sinh dục (quan hệ
đường miệng, đường hậu môn, hoặc dùng ngón tay) cũng được bao gồm trong định
nghĩa này.
- Tình dục không chỉ là quan hệ tình dục hay cảm xúc tình dục của bạn mà còn bao
hàm nhiều khía canh.
+ Ý thức cảm giác của bạn về cơ thể người khác và cơ thể chính bạn.
+ Nhu cầu gần gũi về mặt tình cảm của bạn đối với một người nào đó.
+ Ý nghĩa về sự hấp dẫn tình dục của bạn đối với người khác.
+ Khả năng sinh sản của bạn.
2.1.2. Nguyên tắc cơ bản của tình dục an toàn
- Không bao giờ để: Máu, tinh dịch, chất dịch âm đạo của bạn tình xâm nhập vào
cơ thể mình (Trừ phi biết chính xác rằng người bạn tình ấy không mắc bệnh
LQĐTD và HIV).
2.1.3. Những bệnh lây truyền qua đường tình dục
- Cho đến nay người ta đã tìm thấy hơn 20 bệnh STIs (Sexually transmitted
infections). Các tác nhân gây bệnh rất đa dạng và dễ lây bao gồm:
+ Vi khuẩn: Lậu, Giang mai, Hạ cam, Liên cầu B, Lỵ trực trùng…
+ Vi rút: HIV, Viêm gan B, Viêm gan C, Herper, Papilloma…

+ Liên thể vi khuẩn và vi rút: Chlammydia, Ureaplasma, Mycoplasma…
+ Ký sinh trùng: trùng roi, rận mu, nấm men….
2.1.4. Nguyên nhân gây ra các bệnhl lây qua đường tình dục
- Nguồn gây nên các bệnh STIs phần lớn là các dịch sinh dục (Tinh dịch hoặc dịch
do âm đạo tiết ra) hoặc máu của người bệnh. Một người lành sẽ bị lây bệnh nếu
8
dịch sinh dục hoặc máu của người bệnh xâm nhập được vào trong cơ thể của người
lành qua các hành vi nguy cơ sau:
+ Quan hệ tình dục qua đường âm đạo (dương vật đưa vào âm đạo) không sử
dụng bao cao su.
+ Quan hệ tình dục qua đường hậu môn (dương vật đưa vào hậu môn) không
sử dụng bao cao su.
+ Quan hệ tình dục qua đường miệng (đưa dương vật vào miệng hoặc dùng
miệng tiếp xúc với bộ phận sinh dục nữ) không dùng bao cao su.
- Ngoài ra STIs còn có thể lây qua một số đường khác như:
+ Đường máu: Do truyền máu bị nhiễm bệnh, dùng chung bơm kim tiêm
hoặc các dụng cụ dùng để cắt, tỉa, xuyên chích qua da hoặc dụng cụ không được xử
lý vô trùng với người mang bệnh STIs.
+ Lây từ mẹ sang con: Có thể xảy ra trong thời gian mang thai, trong lúc sinh
hoặc sau khi sinh (HIV/AIDS).
- Tuy nhiên các bạn cũng đừng quá lo lắng vì có những hoạt động thông thường
hàng ngày không làm lây lan căn bệnh này như: bắt tay, ôm, sử dụng chung bể bơi,
qua mồ hôi, qua hắt xì hơi…
2.1.5. Hậu quả của việc nhiễm bệnh
- Hầu hết các bệnh nhiễm trùng qua đường tình dục (STIs) đều làm cho chúng ta bị
ốm (bệnh).
- Một số bệnh STIs hiện nay vẫn chưa có khả năng chữa được: HIV…
- Các bệnh STIs làm tăng nguy cơ bị lây nhiễm HIV vì một khi bị mắc bệnh STIs
thì nguy cơ lây nhiễm HIV sẽ cao hơn hàng chục, hàng trăm lần so với người
không bị nhiễm STIs. Hoặc khi đã mắc bệnh STIs lại bị nhiễm HIV thì bệnh STIs

sẽ thúc đẩy HIV phát triển rất nhanh chóng trong cơ thể và thời gian tiến triển
thành AIDS nhanh hơn.
9
- Một số bệnh STIs có thể gây chết người, ví dụ như HIV hoặc Viêm gan siêu vi B, C
- Một số bệnh STIs gây vô sinh. Ví dụ như mắc lậu hoặc giang mai, nếu không biết
bị mắc bệnh hoặc biết mà ngại ngần để lâu thì sẽ dẫn đến biến chứng là vô sinh,
hủy hoại các cơ quan nội tạng.
- Một số bệnh STIs làm cho người mẹ sẩy thai.
- Một số bệnh STIs gây ung thư tử cung.
- Một số bệnh STIs có thể làm hỏng mắt, tổn thương não hoặc phá hủy gan,…
- Một số bệnh STIs có thể truyền bệnh sang con.
Hình ảnh một số bệnh lây qua đường tình dục

Bệnh lậu (Neisseria gonorrhoeae)
10
Hạ cam mềm
Giang mai thời kì 2
11
Giang mai thời kì 3
2.2. Giáo dục kĩ năng sống về tình dục an toàn và các bệnh lây qua đường tình dục
2.2.1. Phải làm gì giúp những người nhiễm HIV trong cộng đồng
- Về phía người bệnh: muốn giảm kỳ thị thì bản thân người bệnh phải thoát khỏi
mặc cảm để tích cực tham gia các hoạt động xã hội, trong đó có hoạt động phòng
chống HIV/AIDS. Một khi sự có mặt của người nhiễm HIV trở nên quen thuộc,
gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mọi người sẽ hiểu và xem họ
như những người bình thường khác chứ không phải là những người đáng sợ. Do
đó, người nhiễm HIV cần phải suy nghĩ tích cực, chủ động đối mặt và thực hiện
phương châm “Tự nguyện, tự giác, tự chịu trách nhiệm, tự công khai danh tính”,
“Đừng hỏi bạn sống thêm được bao lâu mà hãy hỏi bạn tiếp tục sống như thế nào”
để không phải chịu và thậm chí xóa bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử.

12
- Về phía cộng đồng: Mỗi người cần cảm thông và chia sẻ với người nhiễm HIV,
vận động người khác thay đổi suy nghĩ về người nhiễm HIV nhằm làm giảm sự lây
nhiễm HIV trong cộng đồng, tích cực tham gia các hoạt động phòng chống
HIV/AIDS tại địa phương. Thực hiện tốt những điều đó sẽ góp phần đạt được mục
tiêu 90-90-90 là phấn đấu đến năm 2020 có 90% số người nhiễm HIV biết được
tình trạng nhiễm HIV của mình, 90% số người đã chẩn đoán nhiễm HIV được điều
trị bằng thuốc ARV liên tục, 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải
lượng virus ở mức thấp và ổn định mà Việt Nam đã cam kết với Liên Hợp Quốc
trong việc hướng tới kết thúc đại dịch HIV/AIDS vào năm 2030.
2.2.2. Các biện pháp nào để phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục
- Tạo dựng mối quan hệ chung thủy chỉ có một bạn tình.
- Tránh quan hệ tình dục với những người mà bạn không biết rõ về tình trạng sức
khỏe.
- Thảo luận nghiêm túc với bạn tình về tiền sử mắc STDs trước khi quan hệ.
- Luôn sử dụng bao cao su đúng cách trong quan hệ tình dục. Mặc dù bao cao su
không bảo vệ được 100%, song đây là một phương pháp hiệu quả giảm nguy cơ
mắc STDs.
- Vệ sinh cơ quan sinh dục bằng xà phòng trước và sau khi quan hệ.
- Đi khám và kiểm tra sớm nếu có biểu hiện đau, ngứa, ra dịch bất thường.
- Khám kiểm tra STDs 6 tháng/lần ngay cả khi không có triệu chứng.
- Không sử dụng ma túy và hạn chế độ uống có cồn vì nó có thể khiến bạn mất khả
năng kiềm chế và dễ có những hành vi tình dục có nguy cơ.
2.2.3. Nghi ngờ mình bị mắc bệnh lây qua đường tình dục, mình cần phải làm gì
- Khoảng một nửa số người nhiễm các BLQĐTD không có triệu chứng gì. Tuy
nhiên, bạn nên nghĩ là mình có thể mắc bệnh nếu:
+ Vợ, chồng hay bạn tình của bạn có bệnh ở cơ quan sinh dục.
13
+ Bạn đã quan hệ tình dục với một người mà bạn không biết chắc là có bệnh
hay không.

- Cơ quan sinh dục của bạn có biểu hiện khác thường.
Sau đây là một số triệu chứng của nhiều loại bệnh:
- Dương vật hay âm đạo có tiết dịch bất thường.
- Cơ quan sinh dục ngứa, rát, đau, đỏ, có nốt, các vết loét.
- Tiểu đau, rát hoặc tiểu nhiều hơn bình thường.
Nếu có một trong những triệu chứng trên, bạn hãy khám ở cơ sở y tế chuyên khoa
như viện phụ sản, trạm da liễu. Không được nghe ai đó khuyên mà mua thuốc tự
chữa lấy, vì triệu chứng giống nhau không có nghĩa là cùng một bệnh. Nếu dùng
thuốc không đúng, bệnh có thể trở nên không chữa được.
- Khi bác sĩ cho đơn thuốc, bạn hãy dùng theo đúng chỉ dẫn, đúng liều, đủ thời
gian, đừng bỏ thuốc khi thấy đỡ triệu chứng. Khi dùng hết thuốc, bạn nên khám lại
để biết đã hết bệnh chưa, nếu còn thì chữa tiếp. Điều quan trọng là chữa trị đến nơi
đến chốn.
- Bạn phải nói để vợ, chồng hay người yêu về bệnh tình của mình để họ đi khám và
chữa bệnh. Hai bạn nên tạm ngừng sinh hoạt tình dục trong thời gian chữa bệnh,
hoặc nếu có sinh hoạt thì phải dùng bao cao su. Nếu không chữa cả hai người và
không dùng bao cao su, bệnh sẽ lây đi lây lại, chữa không dứt, bạn sẽ rất khổ. Vì
sức khoẻ của cả hai người, hãy can đảm lên bạn ạ.
3. Các biện pháp tránh thai
3.1. Kiến thức
3.1.1. Các biện pháp tránh thai
- Vòng tránh thai: Là một dụng cụ nhỏ (thường có hình chữ T) được đặt vào lòng
tử cung tạo nên hiệu quả tránh thai kéo dài nhiều năm. Vòng tránh thai có thể được
quấn đồng hay không để làm tăng hiệu quả ngừa thai.
14
+ Cơ chế tác dụng chính của dụng cụ tử cung là gây ra phản ứng viêm tại
niêm mạc tử cung, làm thay đổi về sinh hóa tế bào nội mạc và không tạo điều kiện
thuận lợi để trứng thụ tinh làm tổ.
+ Thường được dùng rộng rãi ở những nước đang phát triển vì đơn giản, rẻ
tiền và hiệu quả.

- Thuốc tránh thai: Là phương pháp phổ biến được nhiều người áp dụng để ngừa
thai bởi tính tiện dụng.
+ Thuốc tránh thai có 2 loại: Thuốc tránh thai hàng ngày và thuốc tránh thai
khẩn cấp.
+ Thuốc tránh thai có tác dụng ngăn chặn sự thụ tinh của tinh trùng và trứng.
Trong trường hợp trứng đã rụng và được thụ tinh, thuốc sẽ làm thay đổi nội mạc tử
cung để ngăn cản trứng này làm tổ.
+ Thời gian tác dụng của thuốc tránh thai khẩn cấp là trong vòng 72 sau lần
giao hợp không được bảo vệ và nếu trứng thụ tinh đã làm tổ thì việc dùng thuốc
xem như không có hiệu quả. Do đó sẽ là xác suất thụ thai càng cao khi bạn càng để
muộn > 72h.
- Miếng dán tránh thai: Là một trong những biện pháp tránh thai đang được khá
nhiều chị em phụ nữ lựa chọn vì tính tiện dụng của nó.
+ Miếng dán tránh thai là một miếng dán có diện tích nhỏ, bao gồm 2 loại
hormone estrogen và progesterone, phóng thích hoạt chất qua da vào máu, có tác
dụng ngừa thai trong vòng 1 tuần. Miếng dán giải phóng một lượng hormone vào
máu thông qua da, từ đó ngăn chặn sự rụng trứng hàng tháng ở người phụ nữ.
Miếng dán tránh thai còn làm tăng chất nhầy ở tử cung, làm mỏng niêm mạc tử
cung khiến cho tinh trùng khó tiếp cận trứng và thụ thai.
- Thuốc tiêm tránh thai: Thuốc tiêm tránh thai hiện nay khá thông dụng ở nước ta,
là loại nội tiết chỉ có progestin (không có thành phần oestrogen như viên thuốc
15
uống tránh thai kết hợp), có tên gọi depoprovera. Mỗi mũi tiêm bắp có tác dụng
tránh thai trong vòng 3 tháng.
+ Thuốc có hiệu quả tránh thai cao, rất tiện cho phụ nữ không có điều kiện
uống viên tránh thai hằng ngày. Hiệu quả của thuốc trong số người sử dụng có thể
đến 97%, có nghĩa rằng 100 phụ nữ dùng thuốc trong một năm thì có 3 người bị
mang bầu.
- Que cấy tránh thai: Phương pháp tránh thai hiệu quả nhất có thể kể đến là que cấy
tránh thai.

+ Phương pháp này được cho là có hiệu quả tuyệt đối được cấy dưới da tay
không thuận của người phụ nữ. Sau khi cấy, que sẽ phát huy tác dụng sau 24 tiếng
và có hiệu quả trong 3 năm.
+ Trong que cấy có chứa nội tiết tố nên khoảng thời gian được cấy que
không cần sử dụng đến bất kỳ biện pháp tránh thai nào khác.
- Bao cao su: Cách phổ biến nhất để không phải mang thai ngoài ý muốn, đồng thời
ngăn chặn được hầu hết các bệnh tật lây qua đường tình dục, thậm chí cả AIDS là
dùng bao cao su.
+ Bao cao su là một dụng cụ có dạng hình trụ bằng màng mỏng, thường làm
bằng bao cao su và được lồng vào dương vật đã cương cứng khi có hoạt động tình dục.
+ Cách sử dụng bao cao su vừa tiện lợi lại có tính an toàn cao đối với cả nam
và nữ giới. Hiện tại, đã có cả loại bao cao su dành cho nam và nữ nên bạn có thể
hoàn toàn yên tâm chủ động sử dụng chúng bất cứ khi nào cần thiết.
- Thắt ống dẫn tinh: Thắt ống dẫn tinh cũng là một phương pháp phổ biến ở nam
giới như dùng bao cao su. Phương pháp này rất an toàn mà không ảnh hưởng gì đến
sức khỏe cũng như khoái cảm của nam giới trong quá trình quan hệ vợ chồng.
+ Thắt ống dẫn tinh có tác dụng ngăn tinh trùng di chuyển ra túi tinh và tránh
thụ thai.
16
- Triệt sản: Triệt sản là phương pháp đình sản phổ biến ở nữ giới. Cũng tương tự
như thắt ống dẫn tinh, triệt sản ở nữ giới sẽ được cắt và thắt ống dẫn trứng. Khi đó
trứng bị chặn lại, không thể gặp tinh trùng và đi đến tử cung được.
+ Việc phẫu thuật triệt sản cho nữ giới phức tạp hơn nam giới nhưng lại
không có hiệu quả cao bằng phương pháp thắt ống dẫn tinh.
- Cho con bú vô kinh: Cho bú vô kinh là một biện pháp tránh thai dựa vào khả năng
không thụ thai do việc cho con bú đúng cách mang lại. Đây là một phương pháp
tiện lợi, dễ thực hiện và có hiệu quả tránh thai cao đồng thời lại có lợi cho cả mẹ và
bé. Dù vậy, phương pháp này chỉ sử dụng được đối với những bà mẹ đang nuôi con
hoàn toàn bằng sữa mẹ.
3.1.2. Cách hút nạo thai, hậu quả có thể xảy ra sau khi nạo hút thai

a. Cách hút nạo thai:
Hút, nạo thai là các thủ thuật kết thúc việc thai nghén trong thời gian đầu của thai
kỳ (khi người phụ nữ chậm kinh chưa quá 8 tuần). Hiện nay có các kỹ thuật sau:
- Hút thai:
+ Bác sĩ đưa một ống nhỏ bằng nhựa qua cổ tử cung vào trong tử cung (ống
này nối với bơm điện hoặc bơm tay) rồi hút phôi thai ra.
+ Việc hút thai bằng bơm điện có thể thực hiện với những phụ nữ chậm kinh
đến 8 tuần.
+ Hút thai bằng bơm tay có hai loại: Bơm tay một van sử dụng cho phụ nữ
chậm kinh đến 4 tuần, bơm hai van sử dụng cho phụ nữ chậm kinh đến 8 tuần.
+ Thủ thuật hút được thực hiện nhẹ nhàng, ít đau đớn và ít biến chứng.
- Nạo thai:
+ Bác sĩ nong rộng cổ tử cung rồi đưa vào trong tử cung một dụng cụ giống
như cái thìa để lấy ra phôi thai cùng rau thai. Thủ thuật này được thực hiện với phụ
nữ chậm kinh đến 8 tuần.
17
+ Nạo thai thường gây đau hơn, tỷ lệ biến chứng cao hơn so với hút. Nạo thai
đòi hỏi cán bộ y tế có kỹ thuật.
b. Hậu quả có thể xảy ra sau khi nạo hút thai
- Viêm, tắc nghẽn ống dẫn trứng.
- Rối loạn kinh nguyệt.
- Dính tử cung
- Viêm nhiễm vùng chậu
- Lạc nội mạc tử cung
- Vô kinh: Dẫn đến hiện tượng vô sinh.
3.1.3. Ý nghĩa của các biện pháp tránh thai
- Tránh thai là bảo vệ sức khoẻ cho phụ nữ. Nói vậy là rất đúng vì mang thai nếu
không đúng lúc, đúng cách thì rất có hại. Đối với bạn gái dưới tuổi 20, cơ thể còn
đang phát triển, hệ sinh dục chưa hoàn thiện, không nên mang thai. Nếu đã ngoài
35 tuổi, việc sinh nở cũng có thể khó khăn, cơ thể lâu hồi phục, trứng đã “già” nên

nguy cơ con sinh ra bị bệnh cao hơn. Bạn không nên sinh con dày (cách nhau
18
không tới 2 năm) hoặc sinh nhiều con vì điều đó ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ
của bạn và con bạn. Hơn nữa, nếu bạn sinh nhiều con, trông bạn sẽ già hơn tuổi vì
phải vất vả để nuôi dạy con khôn lớn. Ngoài ra, vì điều kiện y tế của ta hiện nay
chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên nếu bạn gái hủy, nạo thai thì nguy cơ viêm nhiễm
sinh dục hoặc gặp các tai biến khác là khá cao. Vì vậy, tránh thai là tránh được
nhiều điều đáng tiếc.
3.2. Giáo dục kĩ năng sống về các biện pháp tránh thai
3.2.1. Phải tuyên truyền giáo dục các biện pháp tránh thai cho cộng đồng
- Cung cấp thông tin về giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên là
việc làm cần thiết nhưng đến nay vẫn còn một số người cho là vấn đề tế nhị, không
nên đem ra rao giảng, bên cạnh đó, ở nhà trường, công tác giáo dục giới tính vẫn
còn bỏ ngõ, rất hiếm có giáo viên nào chuyên trách về vấn đề này. Ở gia đình, một
số phụ huynh còn rất e dè hoặc thiếu quan tâm đến việc giáo dục giới tính, sức
khỏe sinh sản cho con em mình, một số khác có quan tâm nhưng không đủ trình độ
kiến thức để giải đáp hết các thắc mắc của con em mình về vấn đề này.
- Trước những hậu quả nghiêm trọng từ sự thiếu hiểu biết về giới tính và sức khỏe
sinh sản của các em ở độ tuổi vị thành niên trong đó có học sinh trung học phổ
thông mà chưa có giải pháp nào ngăn chặn hữu hiệu, việc tuyên truyền giáo dục các
biện pháp tránh thai cho cộng đồng là rất cấp thiết và quan trọng.
3.2.2. Học sinh THPT cần hiểu biết về các biện pháp tránh thai
- Các em học sinh trung học đang ở độ tuổi vị thành niên có nhiều bỡ ngỡ trước sự
thay đổi của bản thân khi bước vào tuổi dậy thì và có nhiều tò mò, thắc mắc về vấn
đề giới tính nhưng lại không được giải đáp thỏa đáng.
- Mặt khác, hiện nay, sự phát triển nhanh chóng các mặt của đời sống xã hội, sự
phát triển một cách ồ ạt các hệ thống truyền tải thông tin như internet, điện thoại di
động…đã làm ảnh hưởng đến những quan điểm, nhận thức về quan hệ tình dục,
tình yêu, hôn nhân ở thanh thiếu niên. Nhiều thanh thiếu niên bắt đầu quan hệ tình
19

dục trong khi chưa hiểu biết đúng đắn về sức khỏe sinh sản. Sự thiếu hiểu biết này
có thể dẫn đến những hậu quả trầm trọng: mang thai ngoài ý muốn dẫn đến nạo phá
thai ở độ tuổi vị thành niên; sinh con và nuôi con khi độ tuổi còn quá trẻ, làm dở
dang việc học tập; mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ảnh hưởng lớn đến
sức khỏe và đời sống tinh thần sau này.
3.2 3. Đề xuất các biện pháp giảm phá thai ở tuổi vị thành niên
- Tăng cường đào tạo kiến thức sức khỏe sinh sản cho nữ VTN nhất là những nữ
VTN ngoài học đường.
- Thành lập tổ chuyên trách về sức khỏe sinh sản cho VTN ngay tại y tế cơ sở nhằm
giáo dục về SKSS/KHHGĐ, tư vấn, giáo dục tránh thai khẩn cấp cho các đối tượng
đã có sinh hoạt tình dục.
- Kêu gọi sự tham gia của cha mẹ, thầy cô giáo vào chương trình giáo dục giới tính.
- Tổ chức các buổi tập huấn về giáo dục giới tính cho cha mẹ và thầy cô cấp 3 trên
toàn thành phố.
- Tăng cường cung cấp các thông tin về sức khỏe sinh sản vị thành niên trên các
phương tiện truyền thông đại chúng để mọi người trong xã hội hiểu đúng vai trò
của giáo dục giới tính cho tuổi VTN.
III. Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm này đã được tôi áp dụng giảng dạy cho học sinh khối 11.
Sau khi kết thúc các tiết học về giới tính tôi làm một bài trắc nghiệm 40 câu để
kiểm tra nhận thức của các em ở 4 lớp mà tôi tiến hành khảo sát trước khi dạy. Các
em đã tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và đạt 90% lượng câu hỏi bài khảo sát.
20
KẾT LUẬN
1. Kết luận
- Khi đưa sáng kiến này áp dụng vào thực tế giảng dạy ở các lớp khối 11 tôi nhận
thấy các em vô cùng hào hứng và hoàn thành các yêu cầu của cô giáo một cách
xuất sắc.
- Ở lứa tuổi của các em là lứa tuổi mới lớn và đang rất muốn tìm hiểu về lĩnh vực
giới tính để biết thêm các kĩ năng trong cuộc sống hàng ngày, đồng thời biết tự

mình kiềm chế cảm xúc không đi lệch hướng, bằng các hành động tự tìm hiểu các
trang website không lành mạnh.
- Hầu hết các em đều nhận thấy giới tính là một vấn đề rất cần được đề cập đến một
cánh bài bản không né tránh. Nếu nhà trường không dạy, gia đình không quan tâm,
các em thường tự tìm hiểu lấy trên mạng nên dễ rơi vào tình trạng không làm chủ
được hành vi của mình. Trên mạng nhiều trang website không mang tính giáo dục
mà chỉ mang tính kích dục nhiều hơn.
- Thông qua sáng kiến này các em biết yêu và quý chính bản thân mình, biết cách
phòng tránh các tình huống xấu dễ có thể dẫn đến bị xâm hại tình dục.
- Biết nói không với tình dục không an toàn và trước hôn nhân.
- Biết phòng tránh các bệnh lây qua đường tình dục.
- Có hiểu biết để không có thai ngoài ý muốn, không chỉ trước hôn nhân mà cả sau
hôn nhân.
- Hãy hiểu biết về giới tính để có một tương lai sáng lạng và một gia đình hạnh
phúc.
- Có ý thức và sống trách nhiệm đối với cộng đồng.
2. Đề nghị
- Rất mong các nhà lãnh đạo quan tâm bồi dưỡng tạo điều kiện tốt cho các giáo
viên môn sinh, để các giáo viên có kiến thức và kĩ năng trong giảng dạy về giáo
dục giới tính.
21
- Xây dựng các trang website, thư viện của ngành với những tài liệu đã được thẩm
định về giáo dục giới tính cho học sinh tham khảo.
- Tổ chức các cuộc nói chuyện của các chuyên gia với học sinh.
- Tổ chức các buổi ngoại khóa.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về giới tính trong toàn ngành.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Khánh Linh (2001) “Tuổi mới lớn, tuổi dạy thì,
tuổi hoa” Nhà xuất bàn phụ nữ.

2. Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Khánh Linh (2001) “Trò chuyện về tình yêu, giới
tính, sức khỏe” Nhà xuất bàn phụ nữ.
3. />san-vi-thanh-nien.htm#ixzz3OkeSyQSA.
4. />5. />tranh-thai.htm#ixzz3QPWiQyXF
6. />7. />hoi/583182.antd
8. />san-vi-thanh-nien.htm#ixzz3OkeSyQSA
23

×