MỞ ĐẦU
Công nhận quốc tế không phải một vấn đề mới mà ngược lại, nó đã có một lịch sử
phát triển từ rất sớm. Thực tiễn cho thấy, trong quá khứ, không ít sự công nhận quốc tế
đã là cột mốc đánh dấu cho sự phát triển nhiều mặt của một số quốc gia được công nhận.
Ngày nay, vấn đề này lại càng trở nên “nóng” hơn bao giờ hết khi nhu cầu hội nhập quốc
tế của các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, do không có một sự
thống nhất chính thức nào về công nhận quốc tế và những hệ quả pháp lý của nó đã dẫn
đến nhiều cách hiểu sai lệch về vấn đề này. Việc nhận thức rõ: “Công nhận không tạo ra
tư cách chủ thể luật quốc tế nhưng nó tạo điều kiện cho quốc gia mới thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ nhất, tham gia vào các quan hệ quốc tế
một cách tốt nhất” có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về vấn
đề này.
NỘI DUNG
I – Khái niệm công nhận quốc tế.
1. Định nghĩa
Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử quan hệ quốc tế nhưng cho đến ngày
nay, định nghĩa công nhận quốc tế vẫn chỉ tồn tại dưới dạng quan điểm của một số học
giả nghiên cứu về vấn đề này, chưa có định nghĩa chung, sử dụng rộng rãi. Công nhận
quốc tế có thể được hiểu là hành vi chính trị - pháp lý, dựa trên những động cơ nhất
định (chủ yếu là động cơ chính trị, kinh tế, quốc phòng) của giai cấp thống trị ở quốc
gia công nhận
1
.
Trong khoa học luật quốc tế, hai học thuyết tiêu biểu nhất nghiên cứu về công
nhận quốc tế có thể kể đến là: thuyết cấu thành và thuyết tuyên bố.
Theo thuyết cấu thành, các quốc gia mới được thành lập chỉ có thể trở thành chủ
thể của luật quốc tế và thành viên độc lập của cộng đồng quốc tế nếu được các quốc gia
khác chính thức công nhận. Thuyết cấu thành là một thuyết phản dân chủ, thuyết phản
động, mâu thuẫn với hiện thực khách quan và không có căn cứ khoa học.
1
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội – 2009, tr. 66
1
Thuyết tuyên bố lại thừa nhận các quốc gia mới thành lập đều là chủ thể của luật
quốc tế, điều đó được xác định là các quốc gia đã xuất hiện và đang còn tồn tại trên thực
tế. Thuyết tuyên bố, trong một mức độ nhất định nào đó là thuyết tiến bộ. Tuy vậy,
thuyết này có tính phiến diện do lịch sử để lại, thiếu quan hệ với những nhân tố mới,
những biến đổi mới trong quan hệ quốc tế.
2. Các thể loại công nhận quốc tế
Nhìn chung, có hai thể loại công nhận quốc tế chủ yếu, đó là: công nhận quốc gia
và công nhận chính phủ mới thành lập.
Về công nhận quốc gia, các quốc gia ngay từ khi mới thành lập đã là những chủ
thể của luật quốc tế. Sự công nhận quốc gia ở đây chỉ đóng vai trò tuyên bố sự tồn tại
trên trường quốc tế một quốc gia mới mà thôi.
Về công nhận chính phủ mới thành lập, đây là thể loại công nhận đại diện hợp
pháp của một quốc gia có chủ quyền trong sinh hoạt quốc tế chứ không phải công nhận
chủ thể mới của luật quốc tế.
3. Các hình thức công nhận quốc tế
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các chủ thể thường sử dụng một trong các hình
thức sau khi thực hiện hành vi công nhận quốc tế: công nhận de jure; công nhận de facto
và công nhận ad hoc.
II – Công nhận quốc tế không tạo ra tư cách chủ thể luật quốc tế nhưng nó tạo điều
kiện cho quốc gia mới thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ
nhất, tham gia vào các quan hệ quốc tế một cách tốt nhất
1. Tư cách chủ thể luật quốc tế của quốc gia
Ngay từ khi ra đời, mỗi quốc gia đã là một chủ thể của luật quốc tế, quyền năng
chủ thể của luật quốc tế cũng theo đó mà phát sinh. Quyền năng chủ thể là những
phương diện thể hiện khả năng pháp lí đặc trưng của những thực thể pháp lí được hưởng
quyền và gánh vác nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí trong quan hệ quốc tế theo quy định của
luật quốc tế. Một thực thể có tư cách quốc gia khi nó được hình thành trên cở sở có lãnh
2
thổ, dân cư và chính quyền có chủ quyền với thuộc tính chính trị pháp lí bao trùm là chủ
quyền quốc gia.
Chủ quyền là cơ sở tạo nên quyền năng chủ thể quốc tế của quốc gia. Chủ quyền
quốc gia được hiểu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và
quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình,
quốc gia có quyền lực chính trị tối cao thể hiện qua các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Trong quan hệ quốc tế, quốc gia hoàn toàn độc lập, không bị lệ thuộc vào quốc gia
khác trong giải quyết vấn đề đối ngoại của mình. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế,
vào các hoạt động quốc tế liên quốc gia phổ biến rộng rãi trước tiên là quyền của quốc
gia, tùy thuộc vào việc quốc gia có muốn tham gia vào tổ chức quốc tế đó hay không.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện quyền này của quốc gia lại chỉ mang tính chất
tương đối do bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan như quy chế hoạt động của tổ chức
quốc tế mà quốc gia muốn tham gia,…
Khi một thực thể có tư cách quốc gia, tức nó đã có chủ quyền thì quyền năng chủ
thể luật quốc tế của nó mang tính chất nguyên thủy, tự nhiên và sẵn có. Quyền năng này
phát sinh khi một thực thể hội tụ đủ ba yếu tố lãnh thổ, dân cư, chính quyền có chủ
quyền được bao trùm bởi thuộc tính chính trị - pháp lí chủ quyền, không một thực thể
nào có quyền quyết định trao hay không trao quyền quyết định mọi vấn đề của đất nước,
tham gia các tổ chức quốc tế liên chính phủ,… cho quốc gia. Đây là điểm khác cơ bản
giữa quốc gia với các tổ chức quốc tế liên chính phủ khi quyền năng của những chủ thể
này chỉ mang tính chất phái sinh, phụ thuộc vào sự trao quyền của các quốc gia của tổ
chức đó. Về phạm vi quyền năng, quyền năng chủ thể của quốc gia mang tính toàn diện
và đầy đủ. Điều này thể hiện rất rõ qua thuộc tính chủ quyền đã được phân tích ở trên.
Từ đó, ta có thể nhận thấy, mỗi quốc gia kể từ khi xuất hiện và tồn tại trên thực tế
thì đã là một chủ thể luật quốc tế, có quyền năng chủ thể luật quốc tế. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc mỗi quốc gia đều được coi là có tư cách chủ thể ngay từ khi ra đời,
không phụ thuộc vào việc quốc gia đó có được các quốc gia khác hay các tổ chức quốc
tế liên chính phủ khác công nhận hay không.
3
2. Công nhận quốc tế tạo điều kiện cho quốc gia mới thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình một cách đầy đủ nhất, tham gia vào các quan hệ quốc tế một cách
tốt nhất.
Công nhận quốc tế không tạo ra tư cách chủ thể luật quốc tế nhưng nó lại đóng
vai trò rất quan trọng cho việc hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia.
Sự công nhận quốc tế tạo ra những hệ quả pháp lí đặc biệt, đó là: giải quyết triệt để vấn
đề quy chế pháp lí của đối tượng được công nhận và tạo những điều kiện thuận lợi để các
bên thiết lập những quan hệ nhất định với nhau.
Trong các tài liệu nghiên cứu và các văn kiện pháp lí quốc tế về công nhận de
jure, có quan điểm cho rằng việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia công
nhận và các quốc gia được công nhận là kết quả quan trọng nhất của sự công nhận quốc
tế. Kết quả này sẽ có thể phát sinh ngay sau khi công nhận de jure nhưng cũng có thể sau
một thời gian nhất định. Thực tiễn sinh hoạt quốc tế cho thấy, giữa sự công nhận de jure
và thiết lập quan hệ ngoại giao có thể tồn tại một khoảng cách đáng kể. Trong một số
trường hợp, có những quốc gia công nhận nhau ở mức de jure nhưng quan hệ ngoại giao
giữa các nước đó lại không thiết lập. Điều này được lí giải bởi tính chất chủ quyền, hai
quốc gia trong mối quan hệ công nhận có đồng ý thiết lập quan hệ ngoại gia với nhau
hay không. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao đó phải có sự thỏa thuận thể hiện rõ ràng và
hợp thức của cả hai bên hữu quan.
Khi công nhận một chính phủ được thành lập do kết quả của một cuộc cách mạng
xã hội theo hình thức de facto thì quan hệ ngoại giao đã tồn tại giữa bên công nhận và
bên được công nhận sẽ được phục hồi chứ không phải kiến lập (nếu trước đó hai nước đã
có quan hệ ngoại giao với nhau). Hệ quả pháp lí của sự công nhận ở đây là phục hồi
quan hệ ngoại giao giữa bên công nhận và bên được công nhận.
Vấn đề thiết lập quan hệ lãnh sự thường được lí giải theo nhiều cách khác nhau.
Điểm chung của các luật gia quốc tế đó là sự công nhận ở mức độ de facto sẽ tạo ra cơ
sở pháp lí rộng rãi để thiết lập quan hệ lãnh sự. Các luật gia quốc tế của các nước tư bản
phương tây thường xét vấn đề thiết lập quan hệ lãnh sự trong phạm vi công nhận de
facto. Bên cạnh đó, các luật gia quốc tế của các nước đang phát triển không phủ nhận
4
quan điểm trên mà chỉ bổ sung cho rằng sự công nhận de jure cũng là cơ sơ pháp lí để
phát triển những quan hệ bình thường nhiều mặt giữa các quốc gia, trong đó có quan hệ
lãnh sự. Việc thiết lập quan hệ lãnh sự cũng là một trong những hệ quả pháp lí quan
trọng của sự công nhận quốc tế.
Việc kí kết các điều ước quốc tế song phương mà trong đó thể hiện rõ sự thống
nhất nguyện vọng, ý muốn của các bên về các quyền và nghĩa vụ đã định trong các lĩnh
vực cụ thể cũng được thừa nhận là một trong những hệ quả quan trọng của sự công nhận
quốc tế. Về nguyên tắc, việc kí kết các điều ước quốc tế song phương như đã nói trên
được xem là bằng chứng về sự công nhận chính thức.
Đối với các điều ước quốc tế đa phương, vấn đề lại khác về cơ bản. Sự cùng tham
gia của nhiều quốc gia vào một điều ước quốc tế đa phương có tính phổ biến rộng rãi
không có nghĩa các quốc gia đó mặc nhiên chính thức công nhận nhau. Trong trường
hợp này, các quốc gia tham gia điều ước quốc tế đa phương đó chỉ xuất hiện và tồn tại
các quan hệ thực tế ad hoc và quan hệ pháp lí trong điều ước quốc tế cụ thể đó mà thôi.
Đối với việc tham gia vào các hội nghị quốc tế và các tổ chức quốc tế phổ biến
rộng rãi, sự công nhận chính thức cũng tạo ra những hệ quả pháp lí nhất định. Về nguyên
tắc, mọi quốc gia đều có quyền được tham gia vào các hội nghị quốc tế và các tổ chức
quốc tế lớn trong sinh hoạt quốc tế. Quyền được tham gia đó của các quốc gia không phụ
thuộc và sự công nhận của quốc gia khác. Song sự công nhận chính thức giữa các bên ở
đây đôi khi lại gây khó khăn cho quốc gia không được công nhận trong việc hưởng
quyền đó. Điều này thấy rõ qua thực tiễn hoạt động của Liên hợp quốc và chính sách
không công nhận của một số nước đối với quốc gia mới được thành lập trong quan hệ
quốc tế.
Sự công nhận quốc tế, ngoài những hệ quả pháp lí nêu trên, còn làm phát sinh các
hệ quả pháp lí khác. Chẳng hạn, công nhận quốc tế còn là cơ sở để quốc gia được hưởng
quyền miễn trừ tự pháp. Cụ thể, không một quốc gia nào được xét xử một quốc gia khác
với tư cách là bị đơn, trừ trường hợp quốc gia đó cho phép; tài sản của mỗi quốc gia là
bất khả xâm phạm, không thể thành vật trưng thu, trưng dụng, vật bảo đảm…
5