Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Khủng hoảng tài chính Mỹ và bài học kinh nghiệm cho phát triển thị trường tài chính Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.16 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự kiện khủng hoảng tài chính Mỹ diễn ra từ giữa năm 2007 kéo dài cho đến nay
đã tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế của hàng loạt quốc gia trên thế giới. Phạm vi
ảnh hưởng và mức độ thiệt hại về kinh tế của cuộc khủng hoảng này là rất lớn, đặc biệt
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng như hiện nay. Nền kinh tế
Việt Nam nói chung cũng khơng thể tránh khỏi những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
của nó. Tại sao một cuộc khủng hoảng tại Mỹ lại có thể tạo ra làn sóng ảnh hưởng lớn
như vậy và các quốc gia trên thế giới cần phải đối phó như thế nào nếu một sự kiện
tương tự lại xảy ra trong thời gian tới? Đây chính là nguyên nhân khiến nhóm tác giả lựa
chọn đề tài: “Khủng hoảng tài chính Mỹ và bài học kinh nghiệm cho phát triển thị
trường tài chính Việt Nam” dể nghiên cứu trong q trình học tập mơn Tài chính quốc
tế. Trong khn khổ của tiểu luận, nhóm tác giả chú trọng tìm hiểu nguồn gốc dẫn đến
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và phân tích những giải pháp ứng phó của Chính phủ
Mỹ nhằm ngăn chặn khủng hoảng ngày càng trầm trọng để từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cho q trình phát triển thị trường tài chính Việt Nam.
Tiểu luận được kết cấu với 3 chương:
Chương I: Tổng quan chung về khủng hoảng tài chính Mỹ 2008
Chương II: Ảnh hưởng của cuộc khủng hồng tài chính Mỹ 2008 và một số tác động
tới thị trường tài chính Việt Nam
Chương III: Bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường tài
chính Việt Nam.
Do đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng thời gian
nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn cịn nhiều hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy, nhóm tác giả rất mong nhận đuợc sự góp ý của các thầy cơ giáo, và bất
cứ ai quan tâm đến vấn đề này để đề tài được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn./


Chương I: Tổng quan về khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008
Năm 2001, nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thối sau cuộc khủng hoảng dotcom, thêm
vào đó là việc nước Mỹ lao vào cuộc chiến chống Afghanistan và Irak sau khủng bố


ngày 11 tháng 9. Để khuyến khích dân chúng tiêu thụ, ngân hàng trung ương đã hạ lãi
suất. Từ năm 2003 đến năm 2005, ngân hàng trung ương giảm lãi suất chỉ đạo từ 6%
xuống còn 1%. Kết quả là với lãi suất quá thấp, đầu tư và tiêu thụ trở nên quá dễ dàng,
thị trường tài chính của Mỹ tăng nhanh trở lại và tạo nên “bong bóng bất động sản”.
Đến giữa năm 2006, ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất để đề phòng lạm phát, khiến
cho bong bóng đầu tư, đầu cơ địa ốc bị vỡ vì nhiều người vay tiền q khả năng thanh
tốn, trả tiền nhà không nổi, nhà bị tịch biên. Bắt đầu từ thị trường nhà đất, cuộc khủng
hoảng đã nhanh chóng lan ra tồn bộ hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ.
1.1.

Diễn biến của cuộc khủng hoảng và ứng phó của nước Mỹ

Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 lâm vào một trong những
cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa
chấm dứt, hậu quả vẫn chưa thể ước tính chính xác.
Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial
Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu
của mình mất giá mạnh. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến
rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó
khăn. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra với hàng loạt các tổ chức
tài chính bị phá sản hoặc sáp nhập.
Đứng trước những tổn thất nghiêm trọng xảy ra trên tồn hệ thống tài chính,
chính phủ Mỹ đã đưa ra một số biện pháp với mong muốn cải thiện tình hình nguy cấp
và cứu vãn nền kinh tế. Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Cục Dự
trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất. Đến khi tình hình
phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa
Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho
các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ
5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/200730/4/2008).1 Lãi suất này sau đó cịn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn


1

Federal Reserve Board: "Press Release-FOMC Statement-18 September 2007”

2


0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.2Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua
lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có và hạ lãi suất
tái chiết khấu.3Giữa tháng 12 năm 2008, Fed tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách
nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Danh sách các tổ chức lớn bị phá sản hoặc sáp nhập trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008

STT Tên

Thiệt hại

Lehman

Tổng tài sản: 639 tỷ USD.

Nợ ngân hàng: 613 tỷ USD. 15/09/2008: nộp đơn phá sản

Brothers

Tổng vốn góp cổ phần: $22490 tỷ

Nợ trái phiếu: 155 tỷ USD.

theo chương 1 Luật Phá sản


USD.

Cổ phiếu mất giá trên 90%

Mỹ.

Số lượng nhân viên: 26200 người.

1

Quy mô

vào ngày 15/09/2008

Là vụ phá sản lớn nhất trong

Là một trong 4 ngân hàng đầu tư lớn

Giải pháp

lịch sử Hoa Kỳ

nhất của Hoa Kỳ.
2

Merrill

Tổng tài sản: 1,02 nghìn tỷ USD.


Thua lỗ quý IV/2007: 9,83 tỷ Bán cho ngân hàng Mỹ (BoA)

Lynch

Số lượng nhân viên: 60.000 người

USD.

Xếp thứ 32 trong danh sách Global

Thua lỗ rịng q I/2008:

2000 (các cơng ty lớn nhất thế giới)

1,97 tỷ USD.

với giá 50 tỷ USD.

mất giá tài sản (2007): 16,7
tỷ USD.
3

Bear

Tổng tài sản: 350,4 tỷ USD.

Stearns

Tổng vốn góp cổ phần: 66,7 tỷ USD. triệu USD.
Số lượng nhân viên: 15.500 người


Thiệt hại quý IV/2007: 859 30/05/2008: Bán cho JP
Morgan Chase với giá 1,1 tỷ

Mất giá tài sản (2007): 1,9 tỷ USD.

Là cơng ty chứng khốn lớn thứ 7 thế USD.
giới
4

Freddie

Tổng tài sản: 794,4 tỷ USD

Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ USD 07/09/2008: FED kí hợp đồng

Mac

Tổng vốn góp cổ phần: 26,7 tỷ USD

Thua lỗ quý II/2008: 821

bỏ ra 1 tỷ USD hỗ trợ cho

Số lượng nhân viên: 5.281 người

triệu USD

Freddie Mac, đổi lại giành


Là công ty công lớn thứ 20 trên thế
giới và là công ty tài chính lớn thứ 2

ưu đãi đặc biệt của cơng ty

về thế chấp tại Mỹ
5

quyền kiểm soát các cổ phiếu
này.

Fannie

Tổng tài sản: 882,5 tỷ USD

Thua lỗ (2007): 2 tỷ USD

07/09/2008: cùng với Freddie

Mae

Tổng vốn góp cổ phần: 44 tỷ USD

Thua lỗ quý II/2008: 2,3 tỷ

Mac bị FED tiếp quản

Là tổ chức hàng đầu trong thị trường USD
thế chấp dưới chuẩn của Mỹ
2


Financial Times: "Fed slashes rates to near zero”

3

"FRB: Speech—Bernanke, The Recent Financial Turmoil and its Economic and Policy Consequences—15 October 2007”

3


Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì chương
trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày
theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Tính đến tháng 11 năm
2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo chương trình này. FED còn tiến
hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn
tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.
Về phía Chính phủ, trước tình hình khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, chính
quyền Bush đã trình quốc hội thơng qua gói tài chính 700 tỷ nhằm vực dậy nền kinh
tế. Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký Emergency Economic
Stabilization Act of 2008 cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ dollar này. Tiếp đó,
ngày 17 tháng 2 năm 2009, Barack Obama đã ký American Recovery and Reinvestment
Act. Đạo luật này cho phép Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ hai kể từ khi khủng
hoảng nổ ra. Gói kích thích này trị giá 787 tỷ dollar,4
1.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ
1.2.1. Chứng khốn hóa
Chứng khốn hóa và việc ra đời các sản phẩm của q trình này như chứng
khốn đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS)5, giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO)6 và
các loại tương tự là một phát minh lớn về cơng cụ tài chính tồn tại khơng ít rủi ro. Một
khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất
lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân

hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân
hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Mất lòng tin ở người gửi tiền
gây ra đột biến rút tiền gửi cịn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh
chóng hơn.
1.2.2. Sự bng lỏng quản lý hệ thống tài chính của Mỹ

4

The New York Times: "Signing Stimulus, Obama Doesn’t Rule Out More”

5

MBS - Mortgage backed security

6

CDO - Collateralized debt obligation

4


Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp luật
về sự minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã không
bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trường trong hơn 20 năm qua.
Trong giai đoạn 2004-2006, cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn chiếm khoảng 21%
tổng các khoản vay cầm cố, tăng so với mức 9% giai đoạn 1996-2004, trong đó chỉ tính
riêng năm 2006 tổng giá trị các khoản vay cầm cố dưới tiêu chuẩn lên đến 600 tỷ USD,
bằng 1/5 giá trị thị trường cho vay mua nhà của Mỹ. Sự phát triển mạnh của hình thức
cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn đi kèm với sự bùng nổ thị trường nhà đất của Mỹ là hệ
quả của việc lãi suất giảm xuống mức thấp kỉ lục, cộng thêm các tiểu chuẩn cho vay nới

lỏng và hội chứng “thích mua nhà” của dân Mỹ.
1.2.3. Bong bóng thị trường bất động sản.
Cùng với việc điều chỉnh giảm lãi suất qua đêm liên ngân hàng để cứu nền kinh
tế khỏi suy thối, tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát
triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh
tế. Trong mơi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay
mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Năm 2005, có tới 28% số
nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để khơng. Năm này, bong
bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm
2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%.Thời điểm đó, tổng giá trị lũy tích các
khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ dollar. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua
nhà gặp khó khăn vì khơng thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các
loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế
chấp (MBS) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là
bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ
chức đánh giá đánh tụt.
1.2.4. Khủng hoảng niềm tin trầm trọng
Gần tám mươi năm sau những cải cách của chính phủ Franklin D.Roosevelt,
nước Mỹ lại đang đứng trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng niềm tin trầm trọng.
Các nhà đầu tư không chỉ lo ngại về môi trường đầu tư mà còn mất niềm tin vào khả
năng giám sát thị trường của chính phủ. Thực tế, chính những nhà quản lý và chính
khách gia hàng đầu của nước Mỹ cũng bị bất ngờ bởi quy mô và sự nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng tài chính. Việc một loạt các tổ chức tài chính uy tín lâu năm sụp đổ
5


đã dẫn đến niềm tin vào thị trường bị tuột dốc và “suy nghĩ và hành động bầy đàn” trở
nên phổ biến. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho thị trường tài chính
càng trở nên hỗn loạn và đẩy cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn thế giới.


6


Chương II: Ảnh hưởng của cuộc khủng hồng tài chính Mỹ 2008 và một số tác
động tới thị trường tài chính Việt Nam
2.1.

Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ

2.1.1. Đối với nước Mỹ

Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy
thối từ tháng 12 năm 2007. Bình qn mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2008, có
84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm.
Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu
đời bị phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng
đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản
xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh
hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các
doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ
bị phá sản. Ngày 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà
máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá
chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm
phát. Cuộc khủng hoảng cịn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện
thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để
nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất
khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.
2.1.2. Đối với thế giới

Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy

thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất
khẩu ở Đông

Á.

Một

số

nền

kinh

tế



đây

như

Nhật

Bản, Đài

Loan , Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng
chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm
trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở
thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất

khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng
trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ
ngày thành lập.
7


Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu
giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho
sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước
xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho
nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong thời gian
cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn
cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán
nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ
mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ khiến cho các đồng tiền này lên giá so với
nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và
gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm 2008.
2.2.

Một số tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ tới thị trường tài
chính Việt Nam
Để xem xét cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động như thế nào đến Việt

Nam hãy nhìn vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước. Xét trên khía cạnh đầu tư, hiện nay,
Mỹ làm một trong số các nước đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. Trên lĩnh vực thương
mại, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (Nguồn: Bộ Công thương),
chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại, quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng

gần như khơng đáng kể do đó Việt Nam hầu như không chịu tác động trực tiếp từ cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ. Về tác động gián tiếp, do Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc
chơi toàn cầu nên các tác động dường như chưa lan tới. Điều này cũng là lợi thế của
Việt Nam, cho thấy nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế “an bình” khơng bị bão táp
làm tan vỡ.
2.2.1. Đối với ngành ngân hàng

Hoạt động ngân hàng của hầu hết các ngân hàng thương mại tại Việ Nam chủ yếu là cho
vay tiêu dùng, cho vat doanh nghiệp có độ phân tán rủi ro cao và ít có sự liên thơng đầu
tư tới các ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ cũng nhưng các nước khác trên thế giới. Do đó,
khi khủng hoảng tài chính Mỹ 2008 diễn ra thì ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng
không đáng kể. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư
8


ví dụ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ làm động tác “xả hàng” cổ
phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân
hàng xuống. Chủ yếu các tác động gián tiếp do các dịng vốn thơng qua thị trường
chứng khoán hay hệ thống đầu tư và qua một số ngân hàng liên kết tiếp vốn.
2.2.2. Đối với hoạt động Đầu tư:

Các chuyên gia đều nhân định cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2008 sẽ chỉ gây ra
những tác động nhỏ, gián tiếp đến dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Ảnh hưởng nhỏ được
các chuyên gia lý giải bằng nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do đồng tiền của Việt
Nam chưa có tính chuyển đổi. Có nguyên nhân do lượng tiền đầu tư của Việt Nam vào
thị trường tài chính Mỹ khơng đáng kể. Có ngun nhân do các chỉ số kinh tế vĩ mô của
Việt Nam trong thồi điểm năm 2008 đang chuyển biến tích cực, từ lạm phát, nhập siêu,
đầu tư trực tiếp nước ngồi, tăng trưởng nơng nghiệp, cơng nghiệp, thu ngân sách...
Dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vốn cao và thường
mang tính dài hạn nên sẽ không bị ảnh hưởng nhiều lắm, nhưng vốn đầu tư gián tiếp

(FII) thì có thể có chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó.
2.2.3. Đối với Thị trường chứng khốn

Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư (NĐT).
Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội tại của nền kinh tế
nước ta quy định. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngồi có thể khiến
nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ chức
đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngồi. Nếu các cơng ty ở nước
ngồi khó khăn thì cơng ty con ở Việt Nam cũng phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm
hạn chế nguồn cung của thị trường, làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa
qua.

9


Chương III: Bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường
tài chính Việt Nam.
3.1. Bài học kinh nghiệm nhằm phát triển thị trường tài chính Việt Nam
Dù cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2008 đã đi qua, tuy nhiên việc nghiên cứu để
rút ra được những bài học kinh nghiệm để trong quá trình xây dựng và phát triển sẽ
tránh được những sai lầm hay các nguy cơ xuất hiện sự đổ vỡ trong hoạt động tài chính
ươm mầm cho cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai.
3.1.1. Bài học thứ nhất: Hệ thống tài chính mạnh và được quản lý tốt sẽ là bước
phịng thủ đầu tiên trước bất kỳ cơn bão tài chính nào.
Bài học này cho chúng ta thấy sự quan trọng của các cơng cụ giám sát tài chính
và việc quan tâm đến việc xây dựng tốt những nền tảng cơ bản cho phát triển hệ thống
và thị trường tài chính như khuôn khổ pháp lý về giám sát và tổ chức giám sát tài chính,
việc phát triển các định chế đầu tư dài hạn, định mức tín nhiệm ....Một nền kinh tế càng
có độ mở bao nhiêu thì việc giám sát thị trường và các tổ chức tài chính càng phải chặt
chẽ bấy nhiêu vì nền kinh tế thị trường mở cũng đồng nghĩa với nguy cơ doanh nghiệp

thất bại cao kèm theo đó là những rủi ro lớn của các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư
thực hiện hoạt động đầu tư và cho vay đối với các doanh nghiệp đó. Ngồi ra thì để có
thể giám sát tốt, hay việc định mức tín nhiệm hiệu quả thì địi hỏi thơng tin thị trường
phải minh bạch và sự phân công, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan giám sát tài chính.
3.1.2. Bài học thứ hai: Cho vay dưới chuẩn nhưng thiếu cơ chế kiểm soát là một con
dao hai lưỡi.
Như đã phân tích trong phần nguyên nhân tạo nên khủng hoảng tài chính Mỹ
2008 thì hoạt động cho vay dưới chuẩn của các ngân hàng và tổ chức tài chính được
chính phủ Mỹ cho phép và khuyến khích. Đó là việc để hỗ trợ các gia đình có thu nhập
thấp và thu nhập khiêm tốn có điều kiện sở hữu nhà ở, Chính phủ Mỹ có chương trình
“cho vay dưới chuẩn” với lập luận chỉ cần cho vay tiền mua nhà thì những người có thu
nhập thấp có thể sở hữu nhà, chỉ mất tiền trả lãi đến kì. Khi thị trường bất động sản hoạt
động hiệu quả giá nhà tăng thì họ có thể bán nhà và kiếm được tiền chênh lệnh. Có cơ
hội mua nhà mới phù hợp túi tiền và có thêm thu nhập. Bù lại các ngân hàng và các tổ
chức tài chính được hưởng mức lãi suất cho vay cao hơn để bù rủi ro. Một cơ chế cho
vay lỏng lẻo và thiếu kiểm sốt khi chính phủ chỉ dựa vào việc tạo ra lợi ích tạo lập nhà
ở cho người thu nhập thấp mà khơng tính tốn tới khả năng trả nợ của họ khi thị trường
10


bất động sản đi xuống những người thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn khơng có điều
kiện để trả nợ lại đem căn nhà mua bằng tiền đi vay thế chấp để trả nợ.
3.1.3. Bài học thứ ba: Chứng khốn hóa các tài sản thế chấp là một cơ chế tạo lập
nguồn vốn khổng lồ nhưng mong manh
Đây là bài học về “chứng khốn hóa bất động sản thế chấp” hay rộng hơn nữa là
các tài sản thế chấp nói chung để đáp ứng tham vọng khơng ngừng mở rộng nghiệp vụ
đầu tư tín dụng và đầu cơ trên thị trường bất động sản. Trong khi hệ thống kiểm sốt
khơng theo kịp nên đã tạo lập ra nguồn vốn khổng lồ, nhưng thực sự rất mong manh. Cụ
thể để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập Fannie Mae và Freddie
Mac. Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay

thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp "dưới chuẩn" của các
ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” bán cho
các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Như vậy những món nợ
nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài chính thơng dụng có thể mua bán dễ
dàng trên thị trường tiền tệ.
3.1.4. Bài học thứ tư: Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất và thúc
đẩy nhanh chóng các đổ vỡ kinh tế khi nó xẩy ra.
Mua bán khống ở mức độ vừa phải có kiểm sốt sẽ là chất xúc tác tạo nên sự kích thích
cho kinh tế phát triển. Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất, gây nên
những đổ vỡ kinh tế to lớn khi nó xảy ra.
3.1.5. Bài học thứ năm: Củng cố niềm tin của công chúng là biện pháp tốt cho việc
hạn chế các đổ vỡ mang tình dây chuyền
Nhiều khi sự đỗ vỡ của ngân hàng bắt nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá của
dân chúng khi nghe một tin đồn với thông tin chưa xác thực. Bài học này cũng liên quan
đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát là bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức bảo hiểm tiền
gửi cần phát huy tốt vai trò của mình để tạo được niềm tin của cơng chúng đối với hệ
thống tài chính ngân hàng và tham gia ngăn chặn, xử lý những rủi ro nhằm hạn chế sự
đổ vỡ mang tính dây chuyền.
3.2. Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường tài chính Việt Nam tránh những
nguy cơ đổ vỡ
3.2.1. Đối với ngân hàng thương mại

11


Chính sách lãi suất hợp lý và phù hợp với độ rủi ro của hoạt động đầu tư, cho vay
sẽ mang lại cho các ngân hàng nhiều lợi ích. Đồng thời việc thắt chặt quản lý rủi ro tín
dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng và phát triển công
nghệ ngân hàng và xây dựng hệ thống thơng tin tín dụng nhằm xây dựng được cơ chế
giám sát tốt và các nền tảng cho hoạt động tín dụng, ngân hàng. Ngồi ra các ngân hàng

nên chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát
triển nông nghiệp nông thơn là các lĩnh vực mà có sự ưu tiên của nhà nước, được nhà
nước hỗ trợ và khuyến khích phát triển.
Hơn nữa các ngân hàng cũng phải quan tâm nhiều hơn tới việc kết hợp hoạt động
tín dụng và bảo hiểm tín dụng nhằm củng cố niềm tin đối với người gửi tiền là một
trong những hoạt động mà các ngân hàng thương mại chưa mấy quan tâm. Đồng thời
dịch vụ bảo hiểm tại Việt Nam cũng còn kém phát triển do đó các ngân hàng nên chủ
động đề nghị các doanh nghiệp và các hãng bảo hiểm lớn phát triển thêm dịch vụ bảo
hiểm tiền gửi.
3.2.2. Đối với chính phủ và ngân hàng nhà nước
Chính phủ cần phải xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế của
các ngành, lĩnh vực. Hoạt động này phải tiến hành và công bố hàng năm. Đồng thời phát
triển các cơng ty đánh giá tín nhiệm của Nhà nước và trong nước. Để các ngân hàng và
tổ chức tài chính có thêm nhiều thơng tin để định giá mức tín nhiệm, tránh được các
khoản nợ hay đầu tư xấu, mức rủi ro cao. Ngoài ra, chỉnh phủ và ngân hàng nhà nước
phải cố gắng để ổn định kinh tế vĩ mô, tránh các cú sốc kinh tế không đáng có cho cả
nền kinh tế cũng như hoạt động tài chính. Ngồi ra cũng phải chú trọng giữ nhập siêu ở
mức chấp nhận được đảm bảo dự trữ quốc gia lâu dài, bền vững. Kế hoạch vay và trả nợ
quốc tế theo mục tiêu bền vững nhằm tăng nguồn thu quốc gia để ứng phó và có thể có
nguồn vốn ứng phó ngay lập tức với những đổ vỡ nhỏ để tránh được cả đổ vỡ lớn hơn.
Hơn nữa, mở cửa thị trường tài chính và đưa cơng cụ tài chính mới vào thị
trường phải đi liền với tăng khả năng kiểm sốt rủi ro. Do đó khi cho phép áp dụng vào
thị trường một cơng cụ tài chính mới như: giao dịch bán khống, tùy chọn, chứng khoán
thế chấp… chính phủ cần xem xét và tính tốn kĩ lưỡng những mặt lợi và hại khi sử
dụng các công cụ mới, có biện pháp giám sát mới đưa vào sử dụng.
Cuối cùng chính phủ nên khuyến khích lối sống tiết kiệm để khơng lãng phí. Dù
là tổ chức, cá nhân hay chính phủ một khi đã chi tiêu hay đầu tư thì làm đúng chỗ, tránh
12



các phương án khơng khả thi, có hiệu quả kinh tế thấp… điều đó sẽ gây nên tình trạng
nợ xấu, hoạt động đầu tư kém hiệu quả, gây tổn thất cho xã hội.

13


KẾT LUẬN
Kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam đang dần phục hồi trở lại từ năm 2010 sau
những ảnh hưởng khơng nhỏ của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ. Đây là một dấu hiện
tốt cho thấy những giải pháp ứng phó với khủng hoảng của Mỹ đã phát huy hiệu quả.
Tuy nhiên thị trường tài chính tồn cầu vẫn khơng thể chủ quan bởi sau Mỹ rất có thể sẽ
cịn có những cuộc khủng hoảng khác bùng phát. Do đó u cầu cần tạo ra một hệ thống
phịng tránh rủi ro trước khủng hoảng là điều cần thiết với các quốc gia nếu không muốn
bị cuốn vào khủng hoảng thế giới thêm một lần nữa.
Trên cơ sở bám sát mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, tiểu luận cơ bản
đã nghiên cứu và phân tích nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm
2007 qua đó đánh giá mức độ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đến kinh tế
Việt Nam. Dựa trên những phân tích đánh giá đó, tiểu luận cũng đã đề xuất một số giải
pháp đối với chính phủ Việt Nam nhằm giúp nền kinh tế Việt Nam có thể tự bảo vệ và
đứng vững trước bất kỳ cuộc khủng hoảng kinh tế nào trên thế giới nói chung. Những
giải pháp này sẽ có thể phát huy hiệu quả tốt hơn nếu có sự phối hợp đồng bộ giữa các
cơ quan quản lý chức năng, Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại
Việt Nam.

14



×