Phân tích truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-khốp
Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích truyện ngắn Người trong bao
của A.P.Sê-khốp
A.P.Sê-khốp (1860 – 1904) xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ bên
bờ biển A-dốp, miền Nam nước Nga. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa,
vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết văn, viết báo và tham gia các hoạt
động giáo dục, văn hóa, xã hội. Sê-khốp đã có những đổi mới táo bạo về
nghệ thuật viết truyện ngắn và kịch, ông đã để lại cho đời hơn 500 tác
phẩm mà nội dung thường xoay quanh những vấn đề có ý nghĩa xã hội
và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sê-khốp được trao Giải thưởng Pu-skin
năm 1887 và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga năm
1890. Ông được tôn vinh là nhà văn lớn của nền văn học Nga thế kỉ
XIX.
Truyện ngắn Người trong bao sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-
khốp an dưỡng ở thành phố l-an-ta. Xã hội Nga đương thời đang ở tình
trạng bế tắc và ngạt thở bởi bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi
trường ấy đã đẻ ra những kiểu người kì quái mà Bê-li-cốp là một nhân
vật điển hình đặc sắc của nhà văn Sê-khốp trong tác phẩm Người trong
bao.
Qua truyện ngắn này, Sê-khốp phê phán mạnh mẽ kiểu “người trong
bao”, “lối sống trong bao” cùng tác hại của nó đối với hiện tại và tương
lai nước Nga; đồng thời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay
đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ích kỉ, vô vị và hủ
lậu mãi như thế.
Truyện kể về Bê-li-cốp, một giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp có có
cuộc sống và tính cách dị thường. Anh ta luôn sợ hãi cho nên không bao
giờ dám bộc lộ ý nghĩ của mình trước người khác. Để tạo cảm giác an
toàn, Bê- li-cốp đi giày cao su, che ô, mặc áo bành tô cốt bông, đeo kính
đen, kéo cổ áo lên cao giấu kín mặt. Trong cái vỏ bọc lỉnh kỉnh đó, anh
ta thấy yên tâm.
Bê-li-cốp say mê và tôn sùng quá khứ đến mức cực đoan. Theo anh ta
thì tiếng Hi Lạp cổ là một ngôn ngữ tuyệt vời hơn hết thảy, nhờ nó mà
anh ta có thể trốn tránh hiện thực. Thói quen của Bê-li-cốp là đến nhà
những giáo viên cùng trường, tự kéo ghế và ngồi im lặng khoảng một
tiếng rồi về. Đó là cách anh ta duy trì quan hệ đồng nghiệp. Khi đi ngủ,
anh ta thường đóng cửa kín mít rồi kéo chăn trùm đầu mặc dù trời rất
nóng, vì sợ nhỡ có việc gì xảy ra thì sao?
Bê-li-cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va-ren-ca, chị gái của một giáo viên
trẻ mới về trường. Có kẻ nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm dề dòng chữ
Một kẻ si tình rồi gửi cho Bê-li-cốp. Hôm sau, anh ta ngạc nhiên khi
nhìn thấy hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp rất nhanh
ngoài đường nên quyết định sẽ góp ý với họ. Cô-va-len-cô nổi nóng cự
lại và đẩy Bê-li-cốp ngã lộn nhào xuống cầu thang, đúng lúc Va-ren-ca
đi đâu về. Va-ren-ca nhìn thấy cảnh đó và cất tiếng cười nhạo báng.
Trở về nhà, Bê-li-cốp vừa buồn bực vừa nhục nhã. Anh ta trùm chăn kín
mít và nằm im lặng trên giường, ai hỏi gì thì chi đáp không hay có. Một
tháng sau thì anh ta chết.
Cái bao thường dược dùng để gói, đựng đồ vật, hàng hóa, có hình túi
hoặc hình hộp. Sê-khốp đã biến nó thành một biểu tượng nghệ thuật giàu
ý nghĩa ngụ ngôn trong tác phẩm của mình. Cái bao được tác giả nhắc
đến nhiều lần và gắn chặt với nhân vật Bê-li-cốp. Nhà văn đã dùng hình
ảnh cái bao để nói về lối sống, tính cách của Bê-li-cốp và hơn thế, ông
đề cập đến kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao”, một kiểu người
và lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Đây là
vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm.
Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình
ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong
“bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.
Chân dung Bê-li-cốp được tác giả miêu tả và thể hiện bằng những nét vẽ
thần tình. Chân dung kì quái ấy dần dần được bổ sung, tô đậm thêm, về
hình thức, Bê-li-cốp “nổi tiếng” vì cách phục sức khác người: cặp kính
đen to tướng che gần hết khuôn mặt nhợt nhạt, choắt như mặt chồn,
chiếc áo bành tô cốt bông bẻ cổ đứng lên, lỗ tai nhét bông, chân đi giày
cao su… Tất cả các vật dụng lúc không dùng đến anh ta đều để trong
bao.
Bê-li-cốp luôn tự tin và tự hào về cách sống “đúng mực” của mình. Anh
ta kinh ngạc và không thể chấp nhận lối sống tự nhiên của chị em Va-
ren-ca; thực sự hoảng hốt khi có người dám vẽ bức tranh châm biếm chế
giễu tình yêu của mình. Bê-li-cốp càng không hiểu nổi vì sao anh chàng
giáo viên Cô- va-len-cô lại có thể đối xử thô bạo, bất nhã với mình đến
như vậy ?!
Quả thật, Bê-li-cốp không hiểu gì về đồng nghiệp, về xã hội và cuộc
sống xung quanh. Anh ta luôn đắm chìm trong quá khứ, trong những
giáo điều cũ kĩ, lạc hậu, giống như cặp kính đen luôn che kín đôi mắt
nhỏ. Bê-li-cốp quả thật là một con người lạc lõng, cô độc và kì quái,
chẳng thể nào hòa hợp với mọi người.
Bê-li-cốp luôn trốn tránh cuộc sống hiện tại nhưng lại tôn thờ và ngợi ca
quá khứ. Anh ta say mê tiếng Hi Lạp cổ mà rất ít người biết và cho đó là
thứ tiếng tuyệt vời. Anh ta sống một cách rập khuôn, cứng nhắc theo
những thông tư, chỉ thị của cấp trên, của chính quyền như một người
máy vô hồn và cho rằng chỉ những bài báo cấm đoán điều này điều nọ
mới là những cái rõ ràng. Bê-li-cốp sống trong tình trạng cô độc và luôn
luôn lo lắng, sợ hãi, sợ tất cả. Lời nói cửa miệng: …sợ nhỡ lại xảy ra
chuyện gì thì sao? Góp phần khắc họa tính cách nhút nhát đến mức lập
dị của Bê-li-cốp.
Tính nết kì quặc của Bê-li-cốp còn được tô đậm qua thói quen đến nhà
đồng nghiệp ngồi im như phỗng độ một giờ rồi cáo từ. Anh ta cho rằng
đó là cách để duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Buồng ngủ của
Bê-li-cốp cũng là một cái bao lớn mang hình dáng của một cái hộp. Đêm
đêm, anh ta đóng chặt tất cả cửa lớn cửa nhỏ rồi trùm chăn kín đầu mà
ngủ, mặc dù trời nóng bức, ngột ngạt.
Bê-li-cốp tự coi lối sống của mình là “chuẩn mực” nên thỏa mãn, hài
lòng với những gì cổ lỗ, lạc hậu. Anh ta tuân thủ “lối sống trong bao” và
khẳng định như thế mới là công dân tốt, là viên chức mẫn cán.Trên cơ sở
triết lí sống “chui trong vỏ ốc” đó, Bê-li-cốp không thể nào chịu đựng và
hiểu nổi cách sống cùng thái độ của mọi người xung quanh, cho nên anh
ta hay phán xét và khuyên giải theo ý mình.
Lối sống “trong bao” của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cái xã
hội nhỏ bé nơi anh ta dạy học. Ai cũng chán ghét và sợ hãi khi gặp anh
ta, không muốn dây vào làrn gì. Cũng có người muốn thử thay đổi cách
sống của Bê-li-cốp, song chẳng ăn thua. Lối sống “trong bao” ấy ám ảnh
và tác động tiêu cực tới mọi người bởi suốt mười lăm năm trời, họ phải
hít thở bầu không khí ô nhiễm do Bê-li-cốp tạo ra. Anh ta đã trùm một
cái bóng nặng nề u ám lên bầu không gian của họ, khiến họ có cảm giác
nghẹt thở. Mọi người sợ hãi, căm ghét và bị ám ảnh sâu sắc khi Bê-li-
cốp còn sống. Bởi vậy khi Bê- li-cốp chết, mọi người nhẹ nhõm như trút
đi được gánh nặng, cuộc sống thoải mái, dễ chịu hẳn ra.
Với Bê-li-cốp, cái chết này là một lôgic tất yếu trong sự phát triển của
tính cách nhân vật. Lối sống “trong bao” bản thân nó đã là một cái chết,
chết trong khi đang sống. Hơn thế, ngay trong lúc sống, khát vọng mãnh
liệt nhất của Bê-li-cốp là được chui vào bao. Kể cả ý nghĩ, vốn là sở hữu
của riêng mình anh ta cũng giấu kín, cho vào bao tuốt! Niềm hạnh phúc
lớn lao của Bê- li-cốp là từ nay (sau khi chết), anh ta sẽ được nằm trong
cái bao vĩnh viễn, không còn phải lo lắng nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao?
Hình ảnh cái chết của Bê-li-Cốp là một trong những chi tiết quan trọng
của tác phẩm. Bằng cái chết khá lạ lùng này, nhà văn đã tô đậm và đẩy
tính cách của nhân vật lên tới điểm đỉnh. Cái chết của nhân vật Bê-li-cốp
chỉ ra cho mọi người thấy thực chất lối sống “trong bao” và tính cách ấy
đâu phải chi có ở một mình anh ta. Anh ta chết nhưng rồi mọi thứ lại đâu
vào đấy, vẫn y nguyên. Cuộc sống vẫn nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng
y như khi Bê-li-cốp còn sống và kiểu người như anh ta vẫn nhan nhản
trên đời. Qua chi tiết ấy, nhà văn Sê-khốp nhấn mạnh rằng Bê-li-cốp
chính là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đáng báo
động trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Nó chỉ chấm dứt khi
có một cuộc cách mạng xã hội thay đổi tận gốc rễ quan niệm sống, nếu
không thì cũng giống như cái xác Bê-li-cốp nằm trong quan tài kia thôi.
Mặc dù Bê-li-cốp chết nhưng lối sống “trong bao” của anh ta vẫn tồn tại.
Tài năng của Sê-khốp thể hiện rất rõ qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn,
qua cách chọn ngôi kể, cách xây dựng nhân vật điển hình. Vì thế nến
truyện ngắn Người trong bao đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng
người đọc. Nhân vật điển hình Bê-li-cốp tuy có nét riêng kì quái không
giống bất cứ ai nhưng lại tiêu biểu cho một kiểu người, một lối sống khá
phổ biến trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp đã vĩnh viễn nằm trong
bao cách đây hơn thế kỉ, nhưng kiểu “người trong bao” và lối sống
“trong bao” cùng những biến thể của nó vẫn tồn tại đây đó trong xã hội
hiện đại. Chẳng hạn vẫn có không ít người chẳng bao giờ dám sống thật,
nói thật những điều mình nghĩ, hoặc chỉ lo vun vén cho cuộc sống cá
nhân, trang bị đầy đủ cho cái bao của mình mà không cần biết đến
những người xung quanh. Vì thế mà ý nghĩa thời sự của truyện ngắn
Người trong bao cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
Bài làm 2:
Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học
Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm
của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX
ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa
hoàng.
Truyện ngắn "Người trong bao" được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua
nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga
sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục;
đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn
người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng
trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một
lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra
được, chết rồi cũng không thoát ra được!
Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một
bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã
"cười phá lên" khi Bê-li-cốp bị xô ngã "lộn nhào" xuống chân cầu thang,
và cô đã "oà lên khóc" khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ !
Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong
tù túng, nô lệ. Với hắn thì "nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta
không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần,
lúc nào cũng sống trong tâm trạng "sợ hãi", "lo âu", "nhút nhát" . Hắn
chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói "ngọt
ngào”: "Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai", rồi "nheo mắt lại",
"giơ một ngón tay lên" và thốt ra tiếng: "An-thro-pos”. Phải chăng lúc
đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái
bao trong khoảnh khắc!
Bê-li-cốp sống một cách kì quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người
hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như
đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay
cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi
giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì tất
cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn
cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn
cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn "cũng giấu vào bao". Với hắn thì cái
bao là một thứ vỏ bọc để "ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng
bên ngoài". Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ
hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán
điều này điều nọ mà hắn cho là "rõ ràng". Hắn vừa hèn vừa đáng
thương! Hắn thật tội nghiệp!
Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại "linh hồn
chết" trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu,
cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen "kì quặc".
Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để "duy trì những
mối quan hệ tốt với bạn bè". Nhưng hắn đến mà "chẳng nói chẳng rằng",
cứ “ngồi im như phổng", mắt thì nhìn quanh "như tìm kiếm vật gì", độ
một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò
xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai
quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không
dám diễn kịch vào tối thứ bẩy vì sợ rằng "nhỡ hắn biết thì lại phiền".
Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp
như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng
trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ
gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học
chữ ".
Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao
thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn
người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ.
Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như
một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm
vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài
then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông,
lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, "hắn toàn mơ những
điều khủng khiếp" vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn "tái nhợt, rầu rĩ"
một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-
cốp đã tự cầm tù mình, đày đoạ mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn
thật đáng thương hại.
Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người
trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là
nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà "chật
như cái hộp", hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choán
ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn
đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhại đáng thương. Hắn bị gán
ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca Thế là bức tranh biếm hoạ "An-
thro-pos si tình" (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai
trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa.
Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh "Bê-li-cốp đang đi, chân
xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca".
Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị
sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn "một ấn tượng nặng nề".
Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình
để khắc hoạ tính cách của Bê-li-cốp người trong bao. Dư vị chua cay,
hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn.
Bê-li-cốp chẳng gặp "hên" một chút nào! Ngày chủ nhật, mồng một
tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài
thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa
chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp
phóng qua. Cô chị "mặt mày ửng đỏ vui vẻ, hớn hở" gào to: "Trời hôm
nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!". Bê-li-cốp "ngẩn người ra", như
bị choáng, bị ma ám: "Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng
bệch". Người trong bao phàn nàn, trách cứ: "Chẳng lẽ giáo viên và đàn
bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?".
Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà
mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống?
Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân
run lên", thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó,
dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn "mặc áo ấm" lần mò đến nhà hai
chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật
thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách "tử
tế, đứng đắn" của mình. Lấy tư cách là "bạn đồng nghiệp đi trước", hắn
nhắc nhở kẻ "mới bắt đầu đi làm" đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp
của hai chị em Va-ren-ca "hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà
giáo dục thiếu niên". Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương
mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì "chưa có chỉ thị nào cho phép thì
không được làm". Hắn bày tỏ thái độ nào là "phát kinh lên", nào là mắt
hoa lên" khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ
Cô- va-len-cô phải xử sự "thận trọng", không được buông thả quá chừng
như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi
xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông
thanh tra thì "còn ra cái thể thống gì”.
Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: "Anh cần phải có thái độ kính
trọng đối với chính quyền". Hắn doạ "sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng
nội dung câu chuyện" đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.
Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo" chỉ vào mặt Bê-li-cốp và
bảo hắn là "tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà.
Người trong bao "lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy
kịch tính. Khi Bê-li- cốp "sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn
không", thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn
thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà "tự vặt cổ” còn hơn là biến thành
trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu
trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về
hưu
Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca "cười phá lên vang khắp
khu nhà". Tiếng cười "ha-ha-ha!" lảnh lót, âm vang ấy "đã chấm dứt tất
cả”: "chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp".
Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười "lảnh lót" của
Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo
điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả,
dạy đời bằng bài học luân lí cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một
tình huống bi hài.
Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm
Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm
trong quan tài với vẻ mặt "hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh". Phải chăng hắn
"mừng" vì được "chui vào cái bao" vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử
hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u". Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca
"bỗng oà lên khóc". Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng?
Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười
cho thiên hạ chăng?
Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái.
Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy "nặng nề, mệt nhọc,
vô vị" vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, "chẳng tốt đẹp gì hơn trước".
Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn
lại bao nhiêu người trong bao, và "trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu
người như thế nữa!". Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu,
giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao
hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Mọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một
chiều mà tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn
lại bao nhiều Bê-li-cốp nữa. Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn,
và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người "mũ nỉ che tai", “vòi rụt
cổ", "hủ lậu mà tinh tưởng" thời nào, xã hội nào chẳng có!
Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong
bao. Phải biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và
đạo đức của con người mới. Đọc truyện "Người trong bao", ta tự hỏi bản
thân mình phải sống như thế nào cho đáng sống:
Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể
một cách tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật
dụng, cử chỉ, hành động, ý nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều
chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu của một xã hội tù túng, trì
trệ.
Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu
đời, sống hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc
sống tự do, phóng túng của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái
không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm "rách nát" cái bao của Bê-li-
cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài - cái bao nơi âm phủ. Bức
tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-
cốp có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.
"Người trong bao" là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả "tự đi tìm
bóng mình và soi vào bóng người" để mà sống có ý nghĩa hơn như văn
hào Lỗ Tấn đã nói.