Bài tập ôn tập
Câu 1. Nêu các khái niệm cơ bản của Giáo dục học?
Câu 2. Phân tích các tính chất và chức năng của Giáo dục?
Câu 3. Mục đích giáo dục: Nêu và phân tích: Khái niệm mục đích giáo dục, mẫu
con người mới và yêu cầu đào tạo thế hệ trẻ của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay?
Câu 4. Nêu các yếu tố và phân tích các yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách?
Câu 5. Nêu và phân tích khái niệm quá trình dạy học và các nhiệm vụ dạy học.
Cho ví dụ về cách thực hiện các nhiệm vụ dạy học trong một bài dạy ở một môn
học cụ thể?
Câu 6. Nêu và phân tích bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo dục. Hãy
phân biệt sự khác nhau về bản chất của hai quá trình?
Câu 7. Phân tích động lực của quá trình dạy học. Cho ví dụ về cách xây dựng động
lực trong một bài cụ thể?
Câu 8. Nguyên tắc dạy học: Phân tích nội dung, phương hướng thực hiện của từng
nguyên tắc và mối quan hệ giữa các nguyên tắc đó?
Câu 9. Phương pháp dạy học, nêu và phân tích: Khái niệm, ưu – nhược điểm của
từng phương pháp và những yêu cầu khi sử dụng chúng. Những điều kiện để lựa
chọn đúng và sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học?
Câu 10. Phân tích những công việc của người giáo viên: Trước, trong và sau khi
lên lớp?
Câu 11. Phân tích các khái niệm: Quá trình giáo dục, quá trình tự giáo dục, quá
trình giáo dục lại và mối quan hệ giữa chúng. Trong quá trình giáo dục có những
đặc điểm nào?
Câu 12. Phân tích các nguyên tắc giáo dục?
Câu 13. Phân tích các phương pháp giáo dục?
Câu 14. Phân tích các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh. Tại sao người giáo
viên phải nghiên cứu các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh?
Câu 15. Hãy trình bày nội dung, phương pháp và kế hoạch công tác của giáo viên
chủ nhiệm lớp?
Câu 6: Nêu và phân tích bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo
dục. Hãy phân biệt sự khác nhau về bản chất của hai quá trình?
Posted by thienhaxanh2405 on 15th March and posted in Bài tập, Câu hỏi ôn tập
6.1.Bản chất của quá trình dạy học:
Chúng ta đã phân tích rất rõ ràng rằng quá trình dạy học bao gồm quá trình dạy và
quá trình học. Dạy là hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động học của
học sinh. Học là hoạt động do được sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển nên nó là hoạt
động nhận thức đặc biệt. Làm sáng tỏ luận điểm này là chúng ta đã phân tích được
bản chất của quá trình dạy học.
Vậy tại sao có thể nói học là hoạt động nhận thức ?
Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người. Đó là sự phản ánh
tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác. Sự học tập của học sinh cũng là quá
trình phản ánh như vậy. Sự phản ánh đó là sự phản ánh đi trước, có tính chất cải tạo
mà mức độ cao nhất của tính chất cải tạo đó là sự sáng tạo. Sự phản ánh đó không
phải thụ động như chiếc gương mà bao giờ cũng bị khúc xạ qua lăng kính chủ quan
của mỗi người như qua tri thức, kinh nghiệm, nhu cầu, hứng thú… của chủ thể
nhận thức. Sự phản ánh đó có tính tích cực thể hiện ở chỗ nó được thực hiện trong
tiến trình phân tích – tổng hợp của não người và có tính lựa chọn. Trong vô số
những sự vật và quá trình của hiện thực khách quan, chủ thể tích cực lự chọn
những cái trở thành đối tượng phản ánh của họ. Vì vậy, với tư cách là chủ thể có ý
thức, học sinh có khả năng phản ánh khách quan về nội dung và chủ quan về hình
thức, nghĩa là về nội dung học sinh có khả năng phản ánh đúng bản chất và những
quy luật của thế giới khách quan, còn về hình thức, mỗi học sinh có phương pháp
phản ánh riêng của mình.
Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức nổi tiếng của V.I.Lênin:
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách
quan”. (Bút ký Triết học – NXB Sự thật, Hà Nội 1963. Tr 189). Xét toàn bộ quá
trình nhận thức chung của loài người cũng như của học sinh đều thể hiệm theo
công thức đó, song trong từng giai đoạn cụ thể, tuỳ theo điểm xuất phát trong quá
trình nhận thức mà có thể đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể,
từ đơn nhất đến khái quát và từ khái quát đến đơn nhất.
Trong thực tiễn dạy học, do không hiểu đúng công thức đó đã dẫn tới cách xây
dựng nội dung và sử dụng phương pháp dạy học không đúng, dẫn đến việc quá đề
cao vai trò của tính trực quan sinh động mà xem nhẹ vai trò của tư duy logic, tư
duy khái quát, trừu tượng…, hoặc là quá chú trọng đến nhận thức xã hội, thay thế
và xem xét nhận thức cá nhân bằng nhận thức xã hội.
Vậy tính độc đáo trong quá trình nhận thức của học sinh thể hiện như thế nào?
Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học được sự lãnh đạo, tổ
chức, điều khiển của giáo viên với những điều kiện sư phạm nhất định nên nó có
tính độc đáo, thể hiện như sau:
+ Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm, thử và
sai như quá trình nhận thức chung của loài người mà diễn ra theo con đường đã
được khám phá, được những nhà xây dựng nội dung dạy học và người giáo viên
gia công vào.
+ Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới cho nhân
loại mà là tái tạo lại tri thức của nhân loại đã tạo ra, nên cái mà họ nhận thức được
chỉ là mới đối với họ mà thôi.
+ Trong một thời gian tương đối ngắn, học sinh có thể lĩnh hội một khối lượng tri
thức rất lớn một cách thuận lợi. Chính vì vậy, trong quá trình học tập của học sinh
phải củng cố, tập vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm biến
chúng thành tài sản riêng của bản thân họ.
Trong quá trình dạy học cần phải chú ý tới tính đặc biệt đó trong quá trình nhận
thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài người
với quá trình nhận thức của người học sinh. Song cũng không vì quá coi trọng tính
độc đáo đó mà thiếu quan tâm đúng mức tới việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm
hiểu và tham gia các hoạt động khoa học vừa sức, nâng cao dần qua các lớp để
chuẩn bị cho sự khai thác tri thức để tham gia nghiên cứu khoa học trong tương lai.
6.2. Bản chất của quá trình giáo dục: ( thường được hiểu theo nghĩa hẹp).
* Khái niệm của quá trình giáo dục:( nghĩa hẹp).
Quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) là quá trình mà dưới sự tổ chức, lãnh đạo có mục
đích các loại hình hoạt động phong phú, các mối quan hệ nhiều mặt của người
được giáo dục đối với người khác, với thế giới xung quanh, các dạng giao lưu đa
dạng giữa họ với nhau và giữa họ vói người lớn tuổi khác nhằm hình thành cho
người được giáo dục quan điểm, niềm tin, định hướng giá trị, lý tưởng, động cơ,
thái độ, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen đối xử trong các quan hệ chính trị, đạo đức,
pháp luật, thẩm mỹ, lao động, vệ sinh và các hành vi ứng xử khác thuộc các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
*Nét bản chất của quá tình giáo dục là làm cho người được giáo dục ý thức đúng
đắn và sâu sắc về nội dung chuẩn mực và ý nghĩa xã hội của việc thực hiện những
chuẩn mực xã hội đó, giúp họ tích luỹ được kinh nghiệm thực tiễn tích cực, có nhu
cầu và thói quen hành động đúng đắn trong các mối quan hệ xã hội, đồng thời xây
dựng cho họ ý thức và năng lực xoá bỏ những tàn dư của các quan hệ cũ và khẳng
định những quan hệ mới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
+ Quá tình giáo dục là một quá trình có hai mặt: Một mặt là sự tác động có tổ chức,
có mục đích của nhà giáo dục và những ảnh hưởng của môi trường, của các nhân
tố xã hội, của đoàn thể và của gia đình mà nhà giáo dục có trách nhiệm thống nhất
lại theo một phương hướng, mục đích nhất định. Mặt khác là sự đáp ứng, sự hưởng
ứng tích cực của người được giáo dục đối với các tác động và các ảnh hưởng bên
ngoài, là sự hoạt động bên trong để chuẩn hoá những yêu cầu khách quan của xã
hội, thể hiện ở việc biến đổi các tác động và ảnh hưởng đó thành hiện thực sinh
động, thành những phẩm chất, những năng lực, những nét tính cách, những nhu
cầu của bản thân người được giáo dục. Tóm lại là sự hưởng ứng tích cực của người
được giáo dục đối với những tác động định hướng, có tổ chức của nhà giáo dục
nhằm hoàn thiện nhân cách của bản thân.
+ Quá trình giáo dục nhất thiết phải chuyển hoá thành quá trình tự giáo dục và giáo
dục lại. Điều đó mới thể hiện đầy đủ sự tích cực của người được giáo dục đối với
những tác động của người giáo dục.
+ Quá trình giáo dục là quá trình tác động đến các mặt nhận thức, tình cảm, hành vi
và thói quen hành vi về chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ, lao động, vệ sinh…
thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quan niệm về bản chất giáo dục như vậy hoàn toàn đối lập với các quan niệm
phiến diện, sai lầm về quá trình giáo dục, đó là tách rời quá trình giáo dục với quá
trình xây dựng, cải tạo xã hội, hạn chế quá trình giáo dục trong việc tác động của
nhà sư phạm, trong việc chỉ tác động đến nhận thức mà xem nhẹ việc tổ chức các
loại hình hoạt động thực tế phong phú, đa dạng…
6.3. Sự khác nhau về bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo dục:
* Ở quá trình dạy học, chức năng trội là sự tác động về mặt nhận thức của học sinh
nhằm hình thành cho họ sự nắm vững hệ thống tri thức và những kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng. Như vậy, tri thức và những kỹ năng thực hành vận dụng tri thức được
chú ý đặc biệt ở quá trình này.
* Còn ở quá trình giáo dục, chức năng trội của nó là sự tác động trên các mặt cả về
nhận thức, tình cảm, hành vi nhằm giúp cho người đựơc giáo dục ý thức đúng đắn
và sâu sắc những chuẩn mực xã hội cũng như là ý nghĩa của việc thực hiện những
chuẩn mực đó; Qua đây nhằm giúp cho họ tích luỹ được những kinh nghiệm thực
tiễn tích cực, có nhu cầu và thói quen ứng xử đúng đắn, phù hợp với các giá trị
chuẩn mực. Như vậy, việc hiểu đúng và sâu các chuẩn mực xã hội, thể hiện qua
hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực được đặc biệt chú ý ở quá trình giáo dục.
Trên đây là điểm khác biệt rõ nhất giữa quá trình dạy học và quá trình giáo dục.
Câu 3: Mục đích giáo dục?
Posted by thienhaxanh2405 on 15th March and posted in Bài tập, Câu hỏi ôn tập
3.1. Khái niệm mục đích giáo dục:
Nói tới giáo dục là nói tới hiện tại và suy nghĩ tới tương lai, viễn cảnh, triển vọng.
Giáo dục là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, đặc biệt là giữa hiện tại và tương lai.
Vì vậy tính định hướng của giáo dục là đặc trưng của nó, giáo dục luôn phát triển
theo định hướng phát triển bền vững chung của xã hội. Do đó nó được xem là nhân
tố then chốt của sự phát triển bền vững.
Từ những năm 70, UNESCO luôn khẳng định: “Xét từ bản chất của nó, giáo dục là
một định hướng mà con người sáng tạo ra, sử dụng để tác động đến chính bản than
mình, để tạo ra con người thứ hai từ con người thứ nhất có tính tự nhiên”; “Xuất
phát từ những không gian, thời gian cụ thể, do sự thay đổi liên tục của môi trường
lịch sử xã hội, các mục tiêu giáo dục luôn luôn được vạch ra cụ thể, phù hợp với
định chế và quan niệm của từng thời kỳ nhất định”.
Vì vậy, mục đích giáo dục là phạm trù cơ bản của giáo dục học, trước hết phản ánh
kết quả mong muốn trong tương lai của giáo dục, phản ánh trước sản phẩm dự kiến
của hoạt động chung của giáo dục và học tập.
Nói cách khác, mục đích của giáo dục là mô hình nhân cách của người học, là tập
hợp những nét đặc trưng cơ bản, là hệ thống những định hướng phát triển, những
sức mạnh bản chất của con người ở người học nhằm đáp ứng một cách có hiệu quả
yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ đó ta có thể thấy rằng:
+ Mục đích giáo dục luôn luôn biến đổi cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển đó. Vì vậy mục đích giáo dục có tính lịch sử và trong xã
hội có giai cấp mục đích giáo dục phản ánh tập trung tính giai cấp của giáo dục.