MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
5. Khách thể nghiên cứu 2
6. Giả thuyết nghiên cứu 3
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3
8. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu đạo đức và đạo đức trong kinh doanh 5
1.1.1. Những công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài 5
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc 8
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 11
1.2.1. Khái niệm đạo đức 11
1.2.2. Khái niệm hoạt động kinh doanh và doanh nhân 17
1.2.3. Khái niệm đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 24
1.3. Biểu hiện đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 25
1.3.1. Một số nguyên tắc đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 25
1.3.2. Biểu hiện đạo đức trong hoạt động kinh doanh ở phạm vi cá nhân 31
1.3.3. Biểu hiện đạo đức trong hoạt động kinh doanh ở phạm vi liên nhân cách 31
1.3.4. Biểu hiện đạo đức trong hoạt động kinh doanh ở phạm vi xã hội 33
1.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 34
1.4.1. Yếu tố chủ quan 34
1.4.2. Yếu tố khách quan 34
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
2.1 Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu 37
2.2. Tổ chức nghiên cứu 39
2.2.1. Các giai đoạn tổ chức nghiên cứu 39
2.2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu 39
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 44
3.1. Thực trạng đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 44
3.1.1. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở phạm vi cá nhân 44
3.1.2. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở phạm vi liên nhân cách 55
3.1.3. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở phạm vi xã hội 77
3.2. Nhận xét chung về đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 90
3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân 94
3.3.2. Yếu tố khách quan 97
3.4. Chân dung một số doanh nhân tiêu biểu 101
3.4.1. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở mức tốt 101
3.4.2. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở mức khá tốt 102
3.4.3. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở mức chƣa tốt 103
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Nguyễn Thị Minh Phương hiện đang công tác tại Trường ĐH Y
Thái Bình. Tôi xin cam đoan bài Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên
cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Thị Minh Loan. Luận văn này
chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước khi trình bày, bảo vệ và
công nhận bởi “Hội đồng đánh giá Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Tâm lý học”.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Phương
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành, tôi trân trọng cảm ơn toàn thể các Thầy
giáo, Cô giáo đã dìu dắt, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại khoa Tâm lý học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Thị Minh Loan- người đã gợi mở, chỉ bảo cho tôi rất
tận tình và chu đáo trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Qua đây, tôi muốn gửi lời tri ân đến các Thầy, Cô Trường ĐH Y Thái
Bình- nơi tôi công tác, đặc biệt là các thầy, cô trong Khoa Y tế công cộng, Bộ
môn Tâm lý và đạo đức y tế đã hết sức tạo điều kiện và giúp đỡ tôi điều tra thực
tế và hoàn thành đề tài.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái
Bình, Hội nhà báo, Sở LĐ-TB &XH tỉnh Thái Bình cùng các cơ quan ban ngành
có liên quan.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các doanh nghiệp may mặc, gốm sứ
và cơ sở sản xuất hàng thủ công truyền thống ở Thái Bình – những người đã
trực tiếp giúp đỡ tôi từ khâu thu thập tài liệu đến khi có kết quả nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các tác giả của những tác phẩm tôi đã tham
khảo và trích dẫn trong quá trình làm Luận văn.
Cuối cùng, cho tôi được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình và toàn thể
bạn bè của mình, những người luôn bên cạnh giúp đỡ, động viên tôi trong suốt
thời gian qua.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2011
Nguyễn Thị Minh Phương
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐKD
Hoạt động kinh doanh
ĐĐ
Đạo đức
ĐTB
Điểm trung bình
NLĐ
Người lao động
DN
Doanh nghiệp
ATLĐ
An toàn lao động
MT
Môi trường
NXB
Nhà xuất bản
MTTN
Môi trường tự nhiên
NN&PL
Nhà nước và pháp luật
HTĐ
Hoàn toàn đúng
ĐMP
Đúng một phần
KĐ
Không đúng
KN
Khó nói
KB
Không biết
RTT
Rất tán thành
TTMP
Tán thành một phần
KTT
Không tán thành
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Cơ cấu doanh nhân trong điều tra nghiên cứu
Bảng 2.2. Cơ cấu công nhân trong điều tra nghiên cứu
Bảng 3.1. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
ý thức đạo đức nghề nghiệp
Bảng 3.2. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
động cơ thúc đẩy
Bảng 3.3. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
phạm vi cá nhân (%)
Bảng 3.4. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
quan hệ với người lao động
Bảng 3.5. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
quan hệ với người tiêu dùng
Bảng 3.6. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
quan hệ với đối tác
Bảng 3.7. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
quan hệ với đối thủ cạnh tranh
Bảng 3.8. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở
phạm vi liên nhân cách (%)
Bảng 3.9. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
quan hệ với môi trường tự nhiên
Bảng 3.10. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
việc tuân thủ quy định của Nhà nước và pháp luật
Bảng 3.11. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân thể hiện ở
quan hệ với địa phương
Bảng 3.12. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ở phạm vi xã hội (%)
Bảng 3.13. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân ( %)
Bảng 3.14. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân theo
trình độ học vấn
Biểu đồ 3.1. Tổng hợp đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân.
Biểu đồ 3.2. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân theo giới
tính
Biểu đồ 3.3. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân theo
trình độ học vấn
Biểu đồ 3.4. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân theo
lĩnh vực kinh doanh
Biểu đồ 3.5. Đạo đức trong hoạt động kinh doanh của doanh nhân theo độ tuổi
Biểu đồ 3.6.Các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức trong hoạt động kinh doanh của
doanh nhân
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc (ĐHĐBTQ) lần thứ X năm 2006 khẳng định vị
trí, vai trò của doanh nhân Việt Nam trong nền kinh tế đất nước. Đó là phát triển
sản xuất, mở rộng, thu hút sự đầu tư, tạo ra viêc làm và nâng cao thương hiệu Việt
Nam: “Đối với doanh nhân, tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trò tích cực
trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài,
giải quyết việc làm cho NLĐ; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và giữ gìn
thương hiệu hàng hóa Việt Nam” (ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ, tr. 119) [43].
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm
2010, tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đạt 1,98 triệu tỷ đồng. Con số này tương
đương khoảng 104,6 tỷ USD (tính theo tỷ giá liên ngân hàng ngày 28/12/2010),
nhiều hơn so với năm 2009 khoảng 13 tỷ USD. Để có được những thành quả đó,
bên cạnh sự nỗ lực của nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì còn có sự đóng góp
không nhỏ của đội ngũ doanh nhân. Song song với việc đóng góp cho nền kinh tế
quốc dân, đội ngũ doanh nhân còn quan tâm đến việc xây dựng trường học dành
cho trẻ em nghèo, thành lập quỹ khuyến học giúp đỡ trẻ em nghèo vượt khó, ủng
hộ việc xây dựng công trình phúc lợi xã hội. DN ngày càng tỏ ra quan tâm nhiều
hơn đến trách nhiệm đối với NLĐ và đối với người tiêu dùng.
Mặc dù có những đóng góp không nhỏ như đã nói ở trên thì trong thời gian
gần đây đã xuất hiện khá nhiều vấn đề có liên quan đến đạo đức (ĐĐ) trong hoạt
động kinh doanh (HĐKD) của các doanh nhân. Công ty Vedan xả nước thải ra
dòng sông Thị Vải; sản phẩm của Công ty cổ phần sữa Hà Nội bị nhiễm
Milamine ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng; sự cố trong sản
phẩm nước tương có chất MCDP của chin-su vượt quá ngưỡng cho phép Hậu
quả của việc không tuân thủ các quy định trong sản xuất kinh doanh ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường tự nhiên như: ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí…;
vì sức khỏe của người tiêu dùng, vì lợi nhuận kinh doanh, doanh nhân không
quan tâm đến quyền lợi của NLĐ, xem nhẹ vấn đề an toàn trong sản xuất; không
ít doanh nhân lợi dụng kẽ hở của pháp luật để lách luật hoặc có những hành vi hối
lộ; nhiều doanh nhân kinh doanh rất phát triển nhưng không quan tâm đến việc
2
tham gia các hoạt động trợ giúp xã hội hoặc tham gia nhưng cảm thấy không
thoải mái… Đó là tiếng chuông cảnh báo cho các doanh nhân Việt Nam về thực
trạng ĐĐ trong HĐKD của họ.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Đạo đức trong hoạt động
kinh doanh của doanh nhân”, nhằm làm rõ thực trạng và một số yếu tố ảnh
hưởng đến ĐĐ trong HĐKD của doanh nhân.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và phân tích yếu tố ảnh hưởng đến ĐĐ trong HĐKD
của doanh nhân. Trên cơ sở đó chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
ĐĐ trong HĐKD của họ.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Biểu hiện phẩm chất ĐĐ thông qua nhận thức, hành vi và thái độ trong
HĐKD của doanh nhân ở một số lĩnh vực: may mặc, gốm sứ và một số làng
nghề truyền thống (dệt đũi, chạm bạc và mây tre đan) ở Thái Bình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận của đề tài như: khái niệm ĐĐ, khái
niệm doanh nhân, khái niệm ĐĐ trong HĐKD của doanh nhân.
- Điều tra thực trạng và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến ĐĐ trong
HĐKD của các doanh nhân ở DN may mặc, cơ sở sản xuất gốm sứ và các làng
nghề truyền thống (dệt đũi, chạm bạc và mây tre đan) tại Thái Bình.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao ĐĐ trong HĐKD của doanh
nhân ở DN may mặc, cơ sở sản xuất gốm sứ và một số làng nghề truyền thống (dệt
đũi, chạm bạc và mây tre đan) tại Thái Bình.
5. Khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát điều tra 360 khách thể thuộc DN may mặc,
cơ sở sản xuất gốm sứ và một số làng nghề truyền thống (dệt đũi, chạm bạc và
mây tre đan) tại Thái Bình.
60 chủ cơ sở sản xuất tại các DN may mặc;
60 chủ cơ sở sản xuất tại các DN sản xuất gốm sứ;
60 chủ cơ sở sản xuất nghề truyền thống (dệt đũi, chạm bạc và mây tre đan).
180 phiếu dành cho NLĐ ở 3 nhóm đối tượng trên.
36 phiếu phỏng vấn sâu doanh nhân tại các cơ sở sản xuất kinh doanh trên.
3
30 phiếu phỏng vấn sâu NLĐ tại các cơ sở sản xuất kinh doanh trên.
6. Giả thuyết nghiên cứu
ĐĐ trong HĐKD của phần lớn doanh nhân ở các DN may mặc, cơ sở sản
xuất gốm sứ và một số làng nghề truyền thống (dệt đũi, chạm bạc và mây tre đan)
tại Thái Bình ở mức độ khá tốt.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này, trong đó yếu tố chủ quan cơ
bản là: động cơ thúc đẩy kinh doanh (mong muốn khẳng định uy tín của bản thân
và DN, tham gia các hoạt động trợ giúp xã hội), sự hiểu biết về ĐĐKD của cá
nhân… và yếu tố khách quan cơ bản là: cơ chế chính sách và quy định của pháp
luật, lợi nhuận, đối thủ cạnh tranh, sự hiểu biết của NLĐ và người tiêu dùng…
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu ĐĐ trong HĐKD của doanh nhân ở một
số cơ sở kinh doanh may mặc, cơ sở sản xuất gốm sứ và một số làng nghề
truyền thống (dệt đũi, chạm bạc và mây tre đan) tại Thái Bình.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phƣơng pháp phân tích tài liệu
Chúng tôi đã tham khảo các tài liệu trong và ngoài nước để xây dựng cơ
sở lý luận cho việc triển khai nghiên cứu ĐĐ trong HĐKD của doanh nhân qua
khảo sát ở một số cơ sở sản xuất kinh doanh tại Thái Bình.
8.2. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài nhằm
mục đích tìm hiểu sâu hơn, chi tiết hơn thực trạng ĐĐ trong HĐKD của doanh
nhân qua khảo sát ở một số cơ sở sản xuất kinh doanh tại Thái Bình. Làm sáng
tỏ những vấn đề mà phương pháp điều tra bằng bảng hỏi chưa đáp ứng được.
8.3. Phƣơng pháp quan sát
Nghiên cứu ĐĐ trong HĐKD của doanh nhân cần tiến hành quan sát các
cử chỉ, biểu hiện lời nói và việc làm, thái độ của doanh nhân trong quá trình giao
tiếp với chính bản thân mình, người khác và với xã hội.
8.4. Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi
Là phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu đề tài, qua đó thu thập những ý
kiến chủ quan của doanh nhân và ý kiến của người lao động về ĐĐ của doanh
4
nhân biểu hiện thông qua mối quan hệ với chính doanh nhân, với người khác và
với xã hội. Từ đó đưa ra kết quả định lượng nhằm rút ra kết luận về thực trạng
ĐĐ trong HĐKD của doanh nhân qua khảo sát ở một số cơ sở sản xuất kinh
doanh tại Thái Bình và một số yếu tố ảnh hưởng.
8.5. Phƣơng pháp thống kê toán học
Đề tài sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý những kết quả thu thập
được từ điều tra bằng bảng hỏi và đưa ra kết quả cuối cùng cho thực trạng ĐĐ
trong HĐKD của doanh nhân qua khảo sát ở một số cơ sở sản xuất kinh doanh
tại Thái Bình và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng.
5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu đạo đức và đạo đức trong kinh doanh
1.1.1. Những công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Trong tác phẩm “Politics” (ra đời vào khoảng năm 300 TCN), Aristotle đã
chỉ rõ những mối liên hệ thương mại khi bàn về quản lý gia đình [2, 30]. Ông đã
đặt ra những câu hỏi mang tính ĐĐ trong hoạt động quản lý kinh doanh: “Tôi
muốn người ta đối xử với tôi như thế nào khi tôi là thành viên của cơ quan?”,
“Những tiền đề tiềm năng nào có được để phát triển các tài năng và cả tiềm năng
của các thành viên trong cơ quan?”, “Tôi có nhận nhiều hơn công sức đóng góp của
mình vào quỹ chung hay không?”, “Liệu hệ thống phân chia lợi nhuận có ảnh
hưởng như thế nào tới không khí ĐĐ chung của cơ quan?”, “Các nhân viên sẽ nhận
được tiền thưởng chiếm bao nhiêu phần trăm số lợi nhuận thu được nhờ áp dụng
các sáng kiến và ý tưởng cho họ?” Aristotle đã nêu ý tưởng rằng, nhiệm vụ chính
của người thủ lĩnh không phải là gia tăng quyền lực của mình trước cấp dưới mà là
tạo ra những điều kiện để tất cả cán bộ dưới quyền mình có dịp thể hiện được mọi
năng lực ở mức cao nhất. Ông đưa ra nhiều phán xét về sự tham lam và việc lạm
dụng quá đáng sức lực con người để theo đuổi sự giàu có. Ông cũng chỉ trích việc
cho vay nặng lãi vì nó liên quan đến lợi nhuận của bản thân tiền tệ hơn là từ quá
trình trao đổi mà trong đó đồng tiền chỉ là sự trao đổi. Theo Giáo sư James O’Toole
của trường Đại Học Tổng hợp Nam Califonia: chính triết gia thời Hy Lạp cổ đại
này là người thực tế nhất và có “tâm hồn doanh nhân” nhất trong lịch sử triết học
của loài người.
Các nhà tư tưởng thời cổ ở Hy Lạp có cái nhìn không mấy thiện cảm đối với
hoạt động buôn bán thương mại. Platon và Aristotele đều cho rằng kinh doanh
buôn bán là một loại hoạt động phi ĐĐ bởi vì đây là những hoạt động vụ lợi. Hình
ảnh của thương nhân đối với các vị hiền triết này là tiêu cực. Từ ngữ Hy Lạp gọi
những người bán lẻ là Kapelas, đồng nghĩa với người gian lận. Những suy nghĩ
này làm cho khía cạnh ĐĐ - kinh doanh bị tách rời hoàn toàn và vẫn tồn tại cho tới
ngày nay ở nơi này nơi khác, lúc này lúc khác.
Trong tác phẩm “Nghiên cứu tính chất và nguyên nhân sự giàu có của các
quốc gia” xuất bản năm 1776 [45], Adam Smith cho rằng: con người ai cũng vị
kỷ, người nào cũng quan tâm tới lợi ích của mình và ra sức chạy theo nó, xã hội
6
là do nhiều cá nhân hợp thành, vì thế lợi ích của xã hội là tổng hòa lợi ích của
các cá nhân. Theo ông, các cá nhân trong xã hội đều có tự do kinh tế đầy đủ, tức
là họ có thể dùng vốn và lao động của mình để tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh. Ông đề cập đến những nguyên nhân thúc đẩy và cản trở sự tăng trưởng
của cải; lợi nhuận là yếu tố quyết định sự thành công trong kinh doanh; sản
phẩm làm ra phải được bán cao hơn nhiều lần giá trị thực của nó
Norman Bowie - nhà nghiên cứu ĐĐKD nổi tiếng, là người đầu tiên đưa ra
khái niệm “Đạo đức kinh doanh” trong một Hội nghị Khoa học vào năm 1974
[40, 55]. Tại Hội nghị, ông đã chỉ ra những mâu thuẫn giữa ĐĐ và kinh doanh.
Một mặt, xã hội luôn mong muốn các công ty tạo ra nhiều việc làm lương cao,
nhưng mặt khác, những công ty này lại mong muốn giảm bớt chi phí và nâng cao
năng suất lao động. Người tiêu dùng luôn mong muốn mua hàng với giá thấp
nhất còn các cơ sở thương mại lại muốn có lãi suất cao nhất. Xã hội mong muốn
giảm ô nhiễm môi trường, còn các công ty lại muốn giảm tối đa chi phí phát sinh
khi tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất của họ.
Từ đó đã nảy sinh xung đột không thể tránh khỏi trong quan niệm về ĐĐ trong
HĐKD, do khác biệt về lợi ích của công ty, lợi ích của NLĐ, người tiêu dùng và
toàn thể xã hội. Vì tất cả những điều đối lập nói trên là tất yếu nên các nhà quản
lý buộc phải làm sao để cân bằng lợi ích của công ty với lợi ích của các cổ đông
(shareholders) và những người có quyền lợi liên quan (stakeholders), bao gồm
nhân viên, khách hàng và toàn thể cộng đồng. Kể từ đó, ĐĐ trong HĐKD đã trở
thành một chủ đề phổ biến trong các cuộc tranh luận của các lãnh đạo trong giới
kinh doanh, NLĐ, các cổ đông, người tiêu dùng cũng như các giáo sư đại học ở
Mỹ, và từ đó lan ra toàn thế giới.
Những năm 80, ĐĐ trong HĐKD đã được các nhà nghiên cứu và các nhà
kinh doanh thừa nhận là một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Nhiều Trung tâm
nghiên cứu ĐĐ kinh doanh xuất hiện. Trung tâm nghiên cứu ĐĐKD ở trường
Cao đẳng Bently thuộc bang Massachusetts khởi đầu hoạt động năm 1976,
hướng đến một phong trào trong phạm vi thương trường nhằm tạo dựng nền
móng ĐĐ trong cơ cấu DN qua những quy phạm, cùng những viên chức và hội
đồng kiểm tra ĐĐ DN.
7
Tạp chí Business Ethics (Mỹ) trong 16 năm liền (1988 – 2004) thường
xuyên công bố bảng xếp hạng những công ty mà họ cho là có tính ĐĐ nhất ở Mỹ.
Trong số những tiêu chí để xếp hạng có tính tới quan hệ với các nhà đầu tư và đội
ngũ nhân viên (trong đó có quan hệ với phụ nữ; với các cộng đồng sắc tộc thiểu số,
khác màu da, tôn giáo và quan điểm ); với các cơ quan chính quyền sở tại và cộng
đồng những nhà cung cấp nguyên, nhiên liệu; với những người tiêu dùng; chính
sách bảo vệ môi trường [41] Bảng xếp hạng đã cho thấy vấn đề ĐĐ được các
công ty chú ý. Kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà còn quan tâm đến quyền lợi
của con người (nhân viên, người tiêu dùng), quan tâm đến môi trường tự nhiên
Năm 2000, hai Giáo sư John Kotter và James Heskett ở trường đào tạo
quản lý kinh doanh thuộc Harvard, tác giả cuốn sách "Văn hóa công ty và chỉ số
hoạt động hữu ích", đã phân tích những kết quả khác nhau ở các công ty với
những truyền thống ĐĐ khác nhau. Công trình nghiên cứu của họ cho thấy,
trong vòng 11 năm (1989 – 2000), những công ty "đạo đức cao" đã nâng được
thu nhập của mình lên tới 68.2% (trong khi những công ty đối thủ thường
thường bậc trung về chuẩn mực ĐĐ chỉ đạt được 3.6%). Giá trị cổ phiếu của
những công ty "đạo đức cao" trên thị trường chứng khoán tăng tới 90.1% (còn ở
các đối thủ "kém tắm" hơn, chỉ số này chỉ là 7.4%). Lãi ròng của các công ty
"đạo đức cao" ở Mỹ trong 11 năm đã tăng tới 75.6% (1%) [43].
Trong cuốn “Business – Its Legal, Ethical, and Global Environment – Kinh
doanh – tính hợp pháp, tính ĐĐ và môi trường toàn cầu của nó” của Matianne
Moody Jennings, tác giả có đề cập đến vấn đề đạo đức và trách nhiệm của các
Công ty trong thời kỳ hội nhập, đặc biệt là trách nhiệm của DN trước thực trạng
môi trường tự nhiên bị ô nhiễm nghiêm trọng [39, 70]. Tác giả nhấn mạnh đến
ĐĐ của nhà quản lý nói riêng và ĐĐ của DN nói chung trong việc ứng xử với
môi trường tự nhiên, đặc biệt việc sử dụng nhiên liệu thân thiện với môi trường.
Ở góc độ xã hội, trách nhiệm xã hội được nhìn nhận dưới khía cạnh ĐĐ.
Nhiều DN nhận thức rất rõ trách nhiệm của mình. Trong cuộc khảo sát của công
ty McKinsey năm 2007 [46, 74], khi được hỏi về ảnh hưởng xấu mà các công ty
lớn có thể gây ra cho cộng đồng, ô nhiễm môi trường được đưa lên hàng đầu,
sức khỏe con người được quan tâm thứ hai. Những yếu tố tích cực mà DN đem
lại thì tạo việc làm được xếp cao nhất, tiếp đó là tiến bộ khoa học công nghệ,
8
cung cấp sản phẩm - dịch vụ cho nhu cầu con người, nộp thuế. Điều này cho
thấy, các nhà DN bên cạnh mục tiêu kinh doanh đem lại lợi nhuận, họ còn quan
tâm tới môi trường, vấn đề ĐĐ trong kinh doanh.
Năm 2007, Viện Đạo đức kinh doanh quốc tế (International Business
Ethics Institute) ở Mỹ đã từng xác định 4 công việc mà công ty cần phải thực
hiện để củng cố và gia tăng uy tín cho thương hiệu của mình [42]. Thứ nhất,
trung thực với các nhà đầu tư và người tiêu dùng. Thứ hai, cải thiện ngày một tốt
hơn tình hình nội bộ hãng bằng cách gia tăng tinh thần trách nhiệm và lợi ích
của các nhân viên, giảm biến động đội ngũ cán bộ, tăng năng suất lao động
Thứ ba, đánh bóng thương hiệu một cách chuyên nghiệp và thực chất. Cuối
cùng, xử lý một cách bài bản những việc liên quan tới cổ phiếu và tài chính - chỉ
có ứng xử thật đàng hoàng với luật pháp thì mới có thể tạo dựng tương lai lâu
dài và bền chắc cho hãng.
Từ đó đến nay, chủ đề ĐĐ trong HĐKD đã trở thành lĩnh vực nghiên cứu
khá thú vị, hấp dẫn. Các vấn đề của ĐĐ trong HĐKD đang được tiếp cận, được
xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: từ luật pháp, triết học và các khoa học xã
hội khác. Điều này cho thấy, ĐĐ trong HĐKD là vấn đề đang thu hút sự quan
tâm của các nhà khoa học.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc
Trước kia người Việt Nam có cái nhìn khá mâu thuẫn
về vị trí của đội ngũ
những người làm công việc kinh doanh. Một mặt họ cho rằng muốn làm giàu
thì phải kinh doanh nên có câu “phi thương bất phú”, một
mặt lại xếp tầng lớp
thương nhân vào vị trí cuối cùng trong các tầng lớp xã hội. Có thể nói trong xã
hội Việt Nam xưa đã tồn tại cái nhìn không thiện cảm với kinh doanh buôn bán
mặc dù họ cho rằng muốn giàu thì phải buôn bán. ĐĐ trong HĐKD là một vấn
đề mới ở Việt Nam, tuy nhiên đã được nhiều nhà nghiên cứu trên các lĩnh vực
như kinh tế, triết học, tâm lý học quan tâm nghiên cứu.
Dưới góc độ Kinh tế, tác giả Trần Thị Vân Hoa chủ nhiệm đề tài cấp Bộ:
“Văn hóa DN với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN thuộc khu vực kinh
tế tư nhân trên địa bàn Hà Nội” [13, 38] có đề cập đến tính trung thực, tính cạnh
tranh lành mạnh, mối quan hệ giữa chủ DN và NLĐ, bảo vệ quyền lợi của khách
hàng, thương hiệu trong kinh doanh những nét cơ bản của ĐĐ trong HĐKD.
9
Tác giả Nguyễn Thị Lan với bài viết “Nhìn nhận của người dân về ĐĐ
kinh doanh của các chủ DN tư nhân” [18, 22] đã nghiên cứu đánh giá của người
dân Hà Nội về ĐĐ trong HĐKD của các chủ DN tư nhân trong giai đoạn phát
triển kinh tế nước ta hiện nay. Nghiên cứu đã phản ánh rõ nhận thức của người
dân về ĐĐ trong HĐKD của chủ DN tư nhân dưới các góc độ: trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với xã hội; trách nhiệm và nghĩa vụ đối với người tiêu dùng và bạn
hàng; trách nhiệm đối với NLĐ trong DN và trách nhiệm đối với bản thân.
Tác giả Đỗ Ngọc Khanh với đề tài “Khó khăn liên quan đến những người
làm công của chủ DN tư nhân” [16, 25] chỉ ra những vấn đề mà NLĐ gặp phải
trong quá trình tuyển dụng và làm việc. Theo thống kê, có đến 60.3% các chủ
DN đánh giá rằng việc NLĐ “thỉnh thoảng” không biết tiết kiệm (thời gian,
nguyên – nhiên liệu ) và 26.7% cho rằng công nhân DN của họ “thường
xuyên” không biết tiết kiệm. Lý giải điều này, chủ DN cho rằng: nguyên nhân
có thể bắt nguồn từ việc NLĐ có cảm giác không phải mình là chủ, chỉ là người
làm thuê, động cơ làm việc chưa cao, hay bản thân NLĐ không biết, không
được đào tạo làm thế nào để tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả
kinh doanh Từ những bất đồng đó gây nên những tranh luận xung quanh vấn
đề ĐĐ trong kinh doanh.
Tác giả Văn Thị Kim Cúc trong nghiên cứu “Tìm hiểu năng lực làm chủ
của DN kinh tế tư nhân hiện nay” [7, 15] có đề cập đến thái độ ứng xử của chủ
DN đối với NLĐ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có 69.4% chủ DN có thể có
thái độ cư xử tốt với NLĐ. Thái độ cư xử tốt vô điều kiện của các nhà lãnh đạo,
quản lý, đó là các chủ DN khu vực kinh tế tư nhân đối với NLĐ, theo tác giả,
đây là con đường thu phục nhân tâm, vô cùng cần thiết. Nhưng vẫn còn tồn tại
tới 30.6% chủ DN kinh tế tư nhân chưa làm được. Điều này cho thấy, chủ DN
còn gặp khó khăn hoặc chưa trang bị cho mình kỹ năng, thái độ ứng xử tốt với
mọi người, đặc biệt là với nhân viên và khách hàng.
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn với bài viết Kinh tế thị trường và trách
nhiệm xã hội [5, 28], đã cho rằng ý thức về trách nhiệm xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện đại giúp cho người ta thấy rằng thị trường thế giới rộng
lớn, đầy tiềm năng trên phạm vi toàn cầu là môi trường vô cùng thuận lợi để
tìm kiếm lợi nhuận không chỉ cho riêng mình, mà còn cho cả quê hương, đất
10
nước, và cho sự phát triển, sự tiến bộ chung của xã hội. Bởi vậy, chỉ những ai
biết tôn trọng khách hàng, biết tôn trọng đạo lý và biết lấy chữ Tín làm đầu mới
hy vọng thành đạt trên thương trường. Ý thức về trách nhiệm của DN cũng như
vai trò của cá nhân sẽ giúp những người sản xuất, kinh doanh tự điều chỉnh các
hoạt động của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực ĐĐ để
cân bằng lợi nhuận DN và quyền lợi của khách hàng.
Nguyễn Hoàng Ánh trong nghiên cứu “Đạo đức kinh doanh tại Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp” [2, 5] đã đưa ra quan điểm của NLĐ về ĐĐ trong
HĐKD, trách nhiệm của DN đối với xã hội, mối quan hệ giữa NLĐ và chủ DN.
Đặc biệt, tác giả đã đi sâu nghiên cứu vấn đề sở hữu trí tuệ (bản quyền) của các
DN, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao ĐĐ trong HĐKD.
Trong đề tài “Một số hành vi ứng xử với môi trường không mang tính đạo
đức ở nước ta hiện nay” [10, 27] tác giả Vũ Dũng và cộng sự đã bước đầu nghiên
cứu hành vi ĐĐ môi trường ở Việt Nam. Trong nghiên cứu đó, nhóm tác giả
phản ánh một số biểu hiện về những hành vi chưa mang tính chất ĐĐ đối với môi
trường, đặc biệt là những DN, công ty sản xuất kinh doanh và làng nghề. Ở làng
nghề chế biến gỗ Tân Hòa, phường Tân Hòa, Thành phố Biên Hòa với 350 hộ cá
thể, 29 DN; công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn của Đồng Nai có trên
4000 cơ sở chế biến lương thực thực phẩm, thu hút khoảng 31.000 lao động, cũng
là những điểm gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người
dân. Tại Đồng Nai, hàng tháng Công ty Veđan xả ra hơn 45.000 m
3
nước thải ra
sông Thị Vải. Điều đáng nói là hành vi này được thực hiện một cách có chủ ý,
tinh vi và liên tục trong 14 năm liền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh
tế và tinh thần của người dân sống tại khu vực này Điều đó chứng tỏ, ĐĐ của
người làm kinh doanh đáng được xã hội quan tâm.
Tác giả Nguyễn Ngọc Thức đã đề cập đến vấn đề ĐĐ trong kinh doanh
“Đạo đức kinh doanh với môi trường tự nhiên” [31, 9]. Trong bài viết này tác
giả đã đi sâu nghiên cứu thực trạng ĐĐ trong HĐKD và vấn đề ô nhiễm môi
trường hiện nay, trách nhiệm của các nhà DN với môi trường tự nhiên.
Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều
bài báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công
ty FPT, website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn DN (tờ thời báo cho giới
11
doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo, tạp chí khác như: Saigon
Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động có đề cập đến vấn đề ĐĐ
trong kinh doanh. Các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những
sự kiện gần đây ở Việt Nam có liên quan đến ĐĐ trong HĐKD hoặc cung cấp
về một số vụ việc trên các sách báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát
hay đưa ra một khái niệm cụ thể nào về ĐĐ trong HĐKD.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bước đầu đã
quan tâm đến ĐĐ trong HĐKD. Tuy nhiên, nghiên cứu về ĐĐ trong HĐKD của
doanh nhân trong nền kinh tế thị trường với xu thế Hội nhập quốc tế dưới góc độ
Tâm lý học còn vắng bóng. Đặc biệt là những nghiên cứu về ĐĐ của người làm
kinh doanh ở những tỉnh, thành phố nhỏ với ngành tiểu thủ công nghiệp, làng
nghề truyền thống còn rất hạn chế. Do đó, nghiên cứu “Đạo đức trong hoạt động
kinh doanh của các doanh nhân qua khảo sát ở một số cơ sở sản xuất kinh
doanh tại Thái Bình” là vấn đề mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp
phần làm phong phú hơn lý luận về ĐĐ trong HĐKD dưới góc độ Tâm lý học và
góp phần làm rõ thực trạng ĐĐ trong HĐKD của các doanh nhân Thái Bình.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm đạo đức
1.2.1.1. Định nghĩa
Khái niệm ĐĐ luôn được nhiều ngành khoa học khác nhau quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, trong phạm vi Luận văn này chúng tôi chỉ tập trung vào
quan điểm của một số nhà tâm lý học về ĐĐ.
Theo Platơnôp, cấu trúc của nhân cách bao gồm năng lực và phẩm chất
được kết hợp hữu cơ trong chỉnh thể con người hoạt động [3, 136]. Đây là quan
hệ giữa đức và tài. Đức hay ĐĐ, quy tụ những phẩm chất, còn tài hay tài năng là
sự biểu hiện tập trung và nổi bật của năng lực. Điều này có nghĩa là “đức” (ĐĐ)
được xem là một thành phần quan trọng trong cấu trúc của nhân cách. Hai mặt
này tác động qua lại một cách biện chứng với nhau. Mặt khác, khi xem xét mối
quan hệ giữa ĐĐ với toàn bộ chỉnh thể của nhân cách con người nói chung, ta
thấy nổi bật vai trò của ĐĐ và giáo dục ĐĐ đối với sự phát triển nhân cách, và
12
giáo dục nhân cách con người đối với sự phát triển, trưởng thành của con người
về mặt ĐĐ xã hội.
Ở con người có nhân cách phát triển trình độ cao thì ĐĐ của họ phát triển
bền vững và chín muồi đến trình độ nâng ĐĐ lên thành văn hóa.
Nói tới ĐĐ là nói đến hệ thống giá trị chuẩn mực, các nguyên tắc mà con
người lựa chọn, theo đuổi và thực hành trong cuộc sống, thể hiện trong quan hệ
và thái độ đối với chính mình, với người khác, với xã hội. Trong ĐĐ, giá trị cốt
lõi nhất là cái thiện, biểu hiện ra ở tính trung thực, lòng nhân ái. Thiếu hụt tính
trung thực và lòng nhân ái là sự thiếu hụt đáng sợ nhất, tệ hại nhất đối với đời
sống ĐĐ của con người, đẩy con người tiến gần đến cái ác trong hành vi ứng xử
hoặc biểu hiện sự tầm thường, nhỏ mọn, vị kỷ của con người. Đạo đức đảm bảo
cho năng lực được sử dụng và phát huy một cách phù hợp với nhân tính, trong
quỹ đạo của cái thiện và không bị lợi dụng vào những hoạt động và những hành
vi xấu, độc ác, phản ĐĐ, phi nhân tính. Ngược lại, không có năng lực, ĐĐ
không thể trở thành hành động thực tế, chỉ dừng lại như một mong muốn,
nguyện vọng mà không trở thành giá trị hiện thực. Sự tốt đẹp của ĐĐ, tác động
và hiệu quả của ĐĐ phải được chứng thực ở hành động, việc làm, ở kết quả của
nó chứ không chỉ dừng lại ở lời nói tốt đẹp về ĐĐ. Chính năng lực đảm bảo
điều đó. Như vậy, trong cấu trúc của nhân cách, ĐĐ và năng lực gắn liền với
nhau, biểu hiện và chi phối lẫn nhau, đúng như Bác Hồ nhận xét: “Có tài mà
không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó”. Do đó, khi xem xét nhân cách của con người, cần tránh tách rời ĐĐ và
năng lực, tuyệt đối hóa mặt này mà xem nhẹ mặt kia và tránh đồng nhất học vấn
với ĐĐ của nhân cách hoặc thu gọn, giản lược nhân cách và ĐĐ.
Tóm lại, ĐĐ và nhân cách thống nhất với nhau trên cả phương diện giá trị
lẫn phương diện chủ thể. Một mặt, ĐĐ hiện ra như một phẩm chất xã hội của
nhân cách, như một bộ phận cấu thành của nhân cách. Mặt khác, ĐĐ thống nhất
với nhân cách ở sự thống nhất giữa ĐĐ với các yếu tố khác của nhân cách (như
năng lực, khí chất, xu hướng…). Sự thống nhất này quyết định vai trò của ĐĐ
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người.
Tác giả Phạm Minh Hạc quan niệm: “Đạo đức theo nghĩa hẹp, là luân lý,
những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng
13
trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và ĐĐ bao
gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người với
con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống”.
Theo nghĩa rộng, khái niệm ĐĐ liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị,
pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt
nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc
sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động giải quyết hợp lý, có hiệu quả
những mâu thuẫn. Khi thừa nhận ĐĐ là “Một hình thái ý thức xã hội” thì ĐĐ của
mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cùng phản ánh ý
thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại [11, 153-154].
Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên cho rằng: Đạo đức – trong Tâm
lý học là phẩm chất tốt đẹp của cá nhân hay nhóm, biểu hiện ở hành vi phù hợp
với các quy tắc, chuẩn mực xã hội [9].
Trong nghiên cứu về ĐĐ sinh viên, tác giả Nguyễn Văn Phước cho rằng:
“Đạo đức là hệ thống những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực ĐĐ, nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con
người trong mối quan hệ giữa con người và con người, giữa cá nhân và tập thể
hay toàn xã hội” [13, 25].
Tóm lại, chúng tôi tán thành với quan điểm của Phạm Thành Nghị [23,
201]: Đạo đức là hệ thống các chuẩn mực xã hội được đặt ra để điều chỉnh hành
vi con người trong mối quan hệ với bản thân, với người khác và với xã hội.
1.2.1.2. Chức năng của đạo đức
Đạo đức góp phần quan trọng xây dựng mối quan hệ giữa người với người,
giữa cá nhân và xã hội. Chức năng của ĐĐ là giúp con người nhận thức, giáo dục
và điều chỉnh suy nghĩ, hành động phù hợp với những yêu cầu của xã hội. Nhờ đó,
con người tự giác tuân theo những quy tắc, chuẩn mực trong xã hội. Đạo đức có
vai trò lớn lao giúp con người sáng tạo hạnh phúc và giữa gìn, bảo vệ cuộc sống tốt
đẹp của xã hội và phẩm giá con người. Những giá trị ĐĐ cao cả có sức rung cảm
sâu sắc làm thức tỉnh những tình cảm cao đẹp và bền lâu trong tâm hồn con người.
Đạo đức giúp con người nâng cao lòng tin vào cuộc sống, nâng cao tính tích cực xã
hội của họ, bên cạnh đó là biểu hiện lòng tin vào con người và xã hội.
14
Chức năng nhận thức: Các quan điểm, tư tưởng ĐĐ là kết quả của sự phản
ánh đời sống xã hội. Đồng thời, là công cụ để con người nhận thức xã hội. Những
quan điểm ĐĐ tiến bộ, khoa học giúp con người nhận thức, đánh giá đúng đắn các
quá trình vận động, phát triển ĐĐ. Nhờ những nguyên tắc, chuẩn mực ĐĐ đã được
nhận thức, con người phân biệt được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái
ác trong đời sống. Trên cơ sở đó mà định hướng một cách đúng đắn hành vi của
mình trong thực tiễn. Trong quá trình tham gia vào đời sống ĐĐ thực tiễn, mỗi
người nhờ nỗ lực của mình mà làm cho nhận thức ĐĐ của bản thân thêm sâu sắc
và phong phú.
Chức năng giáo dục: Chức năng này nhằm hình thành cho con người những
quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực ĐĐ. Nhờ đó, con
người có thể có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng ĐĐ xã hội
cũng như tự đánh giá những suy nghĩ, hành vi của bản thân mình. Vì thế ĐĐ góp
phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển nhân cách con người. Nhờ hoạt
động tích cực, con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, ý thức danh dự
và các phẩm chất ĐĐ của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống xã hội.
Trên cơ sở nhận thức ĐĐ, chức năng giáo dục giúp con người hình thành
những phẩm chất nhân cách, hình thành hệ thống định hướng giá trị và các
chuẩn mực ĐĐ, điều chỉnh ý thức, hành vi ĐĐ.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Trong xã hội, cần có một hệ thống quy tắc,
chuẩn mực nhằm kết hợp bằng cách này hay cách khác lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể, lợi ích xã hội. Trong đời sống ĐĐ, tự điều chỉnh có vai trò hết sức quan
trọng. Nhờ nắm được những quan điểm ĐĐ tiến bộ, hiểu rõ vai trò của ĐĐ, các
chủ thể ĐĐ luôn hướng hoạt động của mình vào những lợi ích chung. Trên cơ sở
đó thoả mãn nhu cầu ĐĐ và lợi ích chính đáng của mình. Chức năng này được
thể hiện bằng hai hình thức chủ yếu, trước hết là bản thân chủ thể ĐĐ phải tự
giác điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực ĐĐ xã hội. Thứ
hai là tập thể cần tạo ra dư luận để khen ngợi, khuyến khích, đánh giá hoặc phê
phán những biểu hiện cụ thể của hành vi ĐĐ trên cơ sở những chuẩn mực giá trị
ĐĐ. Đây là chức năng xã hội cơ bản, hết sức quan trọng của ĐĐ.
15
1.2.1.3. Các yếu tố cấu thành đạo đức
Khi phân tích cấu trúc của ĐĐ, người ta xem xét nó dưới nhiều góc độ,
mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định.
Nếu xét ĐĐ theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo
đức hợp thành hai yếu tố: ý thức ĐĐ và thực tiễn ĐĐ [12, 11].
Ý thức ĐĐ là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi
của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những quy tắc
ĐĐ xã hội đặt ra. Nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành
một cách tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ ĐĐ.
Thực tiễn ĐĐ là quá trình hiện thực hóa ý thức ĐĐ trong cuộc sống. Ý
thức ĐĐ phải được thể hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích xã
hội và ngăn ngừa cái ác.
Quan điểm khác cho rằng, ĐĐ được hợp thành bởi ý thức ĐĐ, hành vi
ĐĐ và quan hệ ĐĐ [21, 17].
- Ý thức ĐĐ: là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với
những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại, mặt khác nó bao hàm cả những cảm
xúc, tình cảm đạo đức của con người. Ý thức ĐĐ thể hiện thái độ nhận thức của
con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực
hành vi và những quy tắc ĐĐ xã hội đặt ra, giúp con người tự giác điều chỉnh
hành vi và tự nguyện hình thành những nghĩa vụ ĐĐ. Tóm lại, về mặt cấu trúc,
ý thức ĐĐ gồm tri thức ĐĐ, tình cảm ĐĐ và ý chí ĐĐ.
- Hành vi ĐĐ: Là hành động có ý thức, được thúc đẩy bởi động cơ có ý
nghĩa về mặt ĐĐ. Hành vi ĐĐ được cấu thành bởi các yếu tố sau:
+ Niềm tin ĐĐ: Là sự tin tưởng một cách sâu sắc của cá nhân vào tính
khách quan của các chuẩn mực ĐĐ và sự thừa nhận tính tất yếu phải thực hiện
đầy đủ các chuẩn mực ấy. Niềm tin ĐĐ là cơ sở để con người thực hiện các
hành vi ĐĐ.
+ Động cơ ĐĐ: Là yếu tố bên trong thúc đẩy bởi con người thực hiện
hành vi ĐĐ trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với xã hội.
16
+ Tình cảm ĐĐ: Là những rung cảm của cá nhân đối với hành vi ĐĐ của
mình và của người khác. Sự rung cảm ấy xuất hiện nhiều lần sẽ trở thành tình cảm
ĐĐ, thúc đẩy và điều chỉnh hành vi ĐĐ của cá nhân.
+ Thói quen ĐĐ: Là những hành vi ĐĐ ổn định, thường xuyên lặp lại,
liên quan chặt chẽ với nhu cầu ĐĐ. Nhu cầu này được thực hiện thì con người
cảm thấy thoải mái, hài lòng. Nhu cầu không được thỏa mãn thì con người thấy
khó chịu, day dứt.
Thói quen ĐĐ, niềm tin ĐĐ soi sáng con đường đi đến hành vi ĐĐ; còn
động cơ ĐĐ, tình cảm ĐĐ phát huy sức mạnh vật chất và tinh thần tiềm ẩn của
con người để thực hiện hành vi ĐĐ, góp phần tạo nên sự thống nhất giữa ý thức
ĐĐ và hành vi ĐĐ.
- Quan hệ ĐĐ: Là một hệ thống những quan hệ xác định giữa con người
với con người, giữa cá nhân với xã hội về mặt ĐĐ. Quan hệ đạo đức được hình
thành và phát triển như những quy luật tất yếu của xã hội, nó xác định những
nhu cầu khách quan của xã hội, nó “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Quan hệ
đạo đức tồn tại một cách khách quan và luôn biến đổi qua các thời kỳ lịch sử và
nó chính là một trong những cơ sở hình thành nên ý thức ĐĐ.
Như vậy, theo quan điểm của tác giả Phạm Kiều Linh, ý thức ĐĐ, hành
vi ĐĐ và quan hệ ĐĐ là những yếu tố tạo nên cấu trúc của ĐĐ. Các yếu tố này
không tồn tại độc lập mà liên hệ, tác động lẫn nhau tạo nên sự vận động, phát
triển và chuyển hóa bên trong của hệ thống ĐĐ.
Chúng tôi tán thành với quan điểm: Đạo đức được cấu thành bởi các thành
tố: nhận thức ĐĐ (ý thức ĐĐ), thái độ ĐĐ và hành vi ĐĐ.
Ý thức ĐĐ là sự nhận thức, thấu hiểu của con người về các chuẩn mực
ĐĐ, thái độ và hành vi ĐĐ của bản thân và người khác, qua đó điều chỉnh hành
vi ĐĐ của mình. Ý thức ĐĐ có vai trò rất quan trọng trong tiếp thu các chuẩn
mực ĐĐ, hình thành thái độ và có hành vi ứng xử phù hợp với yêu cầu xã hội.
Thái độ ĐĐ là xúc cảm của con người đối với các hành vi ĐĐ của người
khác cũng như của bản thân trong mối quan hệ với con người và với xã hội.
Thái độ ĐĐ có thể thấy ở lòng yêu nước, tình yêu con người, trách nhiệm
và nghĩa vụ, danh dự và lương tâm, tình đồng loại, tình yêu lao động và người
lao động…
17
Hành vi ĐĐ là những việc làm cụ thể của cá nhân mang trách nhiệm,
được thể hiện thông qua mối quan hệ với cá nhân, người khác và xã hội. Khi
đáp ứng được những nhu cầu thực thi các chuẩn mực ĐĐ trong hành động ở con
người thì xuất hiện động cơ ĐĐ.
1.2.2. Khái niệm hoạt động kinh doanh và doanh nhân
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh
Theo quan điểm của A. N. Leonchiev, khi tiến hành hoạt động, phía chủ
thể bao gồm 3 thành tố: hoạt động – hành động và thao tác; về phía khách thể
bao gồm: động cơ – mục đích – phương tiện. Các thành tố này có mối quan hệ
biện chứng với nhau. HĐKD được tiến hành bởi các hoạt động, các hành động
được diễn ra bằng các thao tác. HĐKD luôn gắn với những động cơ cụ thể như:
muốn làm giàu, muốn được khẳng định mình, muốn được mạo hiểm, muốn
được kinh doanh lĩnh vực mà mình yêu thích Và để đạt được điều đó, doanh
nhân phải có những mục đích cụ thể, sử dụng các công cụ, phương tiện để đạt
được mục đích.
Kinh doanh là một khái niệm rộng, dùng để chỉ tổ chức sản xuất, buôn
bán dịch vụ, nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh hiểu theo nghĩa thông thường
là việc xây dựng và điều hành cơ sở sản xuất, dịch vụ theo nguyên tắc mua và
bán (thương mại). HĐKD và nhà kinh doanh (doanh nhân) chỉ tồn tại và phát
triển khi quan hệ mua – bán trở thành phổ biến (hay trong nền kinh tế thị
trường) và với mục tiêu phải có lãi.
Hiện nay, HĐKD rất phong phú, đa dạng, nhiều hướng. HĐKD có thể do
xí nghiệp sản xuất ra những sản phẩm, sau đó cung cấp cho thị trường, hoặc là
quá trình phân phối các sản phẩm do nơi sản xuất khác cung cấp tới người tiêu
dùng, hoặc là làm xong công việc dịch vụ cho những nhu cầu thiết yếu của mọi
tầng lớp nhân dân: du lịch, khách sạn, hàng cơm, hàng phở…
Dưới góc độ Kinh tế, Trần Thị Vân Hoa quan niệm: “Hoạt động kinh
doanh là hoạt động bất kỳ mang tính rủi ro để nhận được lợi nhuận. Lợi nhuận –
Phần doanh thu vượt trội so với phần chi phí, tức là hiệu giữa thu nhập và chi
phí. Nếu chi vượt thu, tức là thua lỗ. Người ta gọi lợi nhuận (hoặc thua lỗ) là kết
quả tài chính của HĐKD” [13, 121].
18
Chúng tôi tán thành với định nghĩa của tác giả Nguyễn Hữu Thụ: “Hoạt
động kinh doanh là một khâu trong quá trình kinh doanh, là việc cụ thể hoá
những hành động, những thao tác trong quá trình kinh doanh”. HĐKD được tiến
hành theo kế hoạch cụ thể đã được định sẵn [31, 40].
Mỗi loại hình, xu hướng kinh doanh đều có những đặc điểm, khó khăn,
thuận lợi chung và riêng. Đặc điểm chung của nghề kinh doanh là:
- Là hoạt động có tính chất gián tiếp. Nhà DN phải quản lý, điều hành, ra
các quyết định quản lý và kinh doanh, thông qua đội ngũ nhân viên để tác động
vào đối tượng của hoạt động và đạt mục đích cuối cùng là doanh thu, doanh lợi.
- Hiệu quả của HĐKD không chỉ đo bằng sản phẩm do nó tạo ra mà còn
là hiệu quả của toàn bộ hệ thống sản xuất, kinh doanh trước mắt và dài hạn,
thông qua các chỉ tiêu trực tiếp và gián tiếp, số lượng cũng như chất lượng.
- HĐKD có tính sáng tạo cao. Đây là dạng hoạt động mà lao động trí óc
là chủ yếu. Nhà DN không có sẵn thị trường, kế hoạch, sản phẩm và lợi nhuận.
Tất cả những cái đó phải được tạo ra bằng óc sáng tạo để đạt được lợi thế trên
thương trường đầy cạnh tranh và biến động.
- HĐKD mang tính mạo hiểm. Nó có thể mang lại hoặc lấy mất của nhà
kinh doanh không chỉ của cải vật chất mà đôi khi là danh tiếng, sự nghiệp, sự ổn
định và hạnh phúc trong cuộc đời.
- Môi trường kinh doanh (thị trường) luôn luôn biến động, rất bất ngờ. Nó
đòi hỏi nhà kinh doanh phải có đầu óc mạo hiểm và biết cách chấp nhận sự
thành công và cả sự thất bại với phương châm: được ăn, lỗ chịu và có chí làm
quan, có gan làm giàu.
- Kinh doanh chịu sức ép của nhiều yếu tố: giá cả, đổi mới của khoa học -
kỹ thuật, luật pháp, các chính sách tài chính của nhà nước, sự ổn định an ninh của
đất nước và của thế giới, trình độ dân trí, truyền thống tiêu thụ (thị hiếu) và tình
hình cạnh tranh trên thị trường.
Theo các nhà kinh tế tổng kết – xác xuất mạo hiểm càng cao thì kinh
doanh càng thắng lợi, mau giàu có. Còn xác xuất an toàn cao thì kinh doanh
nhỏ, chỉ đủ ăn, đủ tiêu.
- Kinh doanh là một nghề khó khăn, phức tạp trong mối quan hệ, giống như
“làm dâu trăm họ” nên đòi hỏi các nhà kinh doanh cần có sự hiểu biết nhiều tri