ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VÃN 
KHOA VĂN HỌC
NGUYỄN THỊ THUẦN
ẢNH HƯỞNG 
CỦA TAM QUỐC DIỄN NGHĨA 
ĐỐI VỚI HOÀNG LÊ NHẤT THốNG CHÍ
Chuyên ngành: Lí thuyết và lịch sử văn học 
Mã sô : 50401
LUẬN VÃN THẠC sĩ KHOA HỌC NGỮ VÃN
Người hướng dẩn khoa học 
Giáo sư LÊ HUY TIÊU
HÀ NỘI 
Tháng 11 năm 2004
1 tìA Ỉ KOC v ó c O IA HÁ MỘI 1 
ị TSIỊNS TÍW v l's 'ị
I k S ị I i I s m ị
MỤC LỤC
MỚ ĐẦU
Chương 1. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TAM QUỐC DIẺN nghĩa và 
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
1. Nội dung tư tưởng của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất 
thống chí
2. Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống 
chí trên phương diện nội dung tư tưởng
TIỂU KẾT
Chương 2. so SÁNH KẾT CẤU TAM QUỐC DlỄN nghĩa và hoàng 
LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
1. Sự hình thành thể loại và vai trò của nó đối với kết cấu chương hồi
2. So sánh kết cấu Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí 
TIỂU KẾT
Chương 3. so SÁNH NHÂN VẬT TRONG TAM Quốc DIẺN nghĩa và 
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
1. Nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lẽ nhất thống chí
2. So sánh ngoại hình, tính cách và tâm lí nhân vật trong Tam quốc 
diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí
TIỂU KẾT
KẾT LUẬN
THƯMỤC SÁCH THAM KHẢO
/\)0 u y ê n T k ị 'U k n ém
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thông chí
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trung Quốc là một trong những nước ở phương Đông có lịch sử văn hoá 
làu đời, phong phú, đa dạng và có ảnh hưởng rộng khắp vùng Viễn Đông. Từ 
khởi điểm sáng lạn và huy hoàng của 
Kinh thi đến những tên tuổi lừng danh 
như: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Thức, Lục Du, Vương Thực Phù, La 
Quán Trung, Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần đã khẳng định vị trí xứng đáng của 
nền văn học Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết bảy nhăm vạn chữ Tam quốc diễn 
nghĩa là một trong "tứ bộ kì thư" của vãn học Trung Quốc có ảnh hưởng rộng 
rãi với bạn đọc nhiều nước. Tam quốc diễn nghĩa được dịch và xuất bản ở 
Pháp năm 1845-1846, ở Anh năm 1925, ở Đức năm 1940, ớ Nhật Bán năm 
1692, ở Triều Tiên năm 1703 và ở Thái Lan năm 1802. Tác phẩm được đặc 
biệt yêu thích ở nhiều nước Châu Á, người Thái Lan xem đó là cuốn sách dạy 
về các mưu mô chính trị và quân sự, người Mãn Châu xem đó là công cụ huấn 
luyện con người chống lại quân Minh, mớ mang bờ cõi chiếm Trung hoa. Ớ 
Triều Tiên, trái lại nhìn Tam quốc diễn nghĩa như một vũ khí tinh thần chống 
lại nhà Thanh, người Nhật Bản thấy nó là tiểu thuyết mở đầu cho sự tiếp thu 
tiểu thuyết Trung Quốc, người Mã Lai tìm thấy ở đây những bài học về quan 
hệ vua tôi Các nhà Nho Việt Nam thường đọc Tam quốc diễn nghĩa từ 
nguyên bản nên bản dịch có muộn hơn so với các nước khác ở Châu Á. Từ bao 
đời nay Tam quốc diễn nghĩa vẫn là bộ tiểu thuyết được nhiều tầng lớp người 
Việt Nam ưa thích. Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì: "Người Việt Nam 
không tìm ở đây những thủ đoạn chính trị, quân sự mà theo dõi nhân vật để cư 
xử sao cho hợp với đạo nghĩa" (44). Tam quốc diễn nghĩa không những hấp 
dẫn người đọc mà còn có vai trò quan trọng đối với văn nhân Việt Nam.
Tiểu thuyết chương hồi chữ Hán là một hiện tượng độc đáo trong bối 
cảnh những nền văn học chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, ở Việt 
Nam, bên cạnh những truyện Nôm lấy đề tài từ những truyện kể Trung Quốc 
đã xuất hiện những tác phẩm văn chương viết theo lối tiểu thuyết chương hồi 
phản ánh những vấn đề lịch sử xã hội. Có thể kể đến Hoan Châu kí của
1
Ảnh hưởng cửa Tam quốc diễn nghĩa đôi vói Hoàng Lê nhất thông chí
7\)0wyên T k i x k u á t t
Nguyễn Cảnh Thị, Hoàng Việt long hưng chí của Ngô Giáp Đậu, Nam triều 
công nghiệp diễn chí của Nguyễn Bảng Trung, Việt Lam xuân thu của Vũ 
Xuân Mai nhưng Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm thành công nhất. 
Đặc điểm chung của những tác phẩm này là vay mượn hình thức tiểu thuyết 
chương hồi, học tập nghệ thuật miêu tả sự kiện, xây dựng nhân vật của Tam 
quốc diễn nghĩa để phản ánh lịch sử Việt Nam. Hoàng Lê nhất tliống chí là 
một tác phẩm văn xuôi lịch sử đương thời chịu ảnh hưởng sâu sắc bút pháp, 
kết cấu và phong cách sử thi của 
Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên các tác giả 
Hoàng Lê nhất thông chí không chỉ chịu ảnh hướng của Tam quốc diễn nghĩa 
mà còn dựa vào truyền thống vãn học dân tộc đặc biệt là thể kí đã được phát 
triển ở Việt Nam từ thế kỉ XV.
ở Việt Nam đã có nhiều chuyên gia nghiên cứu về Tam quốc diễn nghĩa 
và Hoàng Lê nhất thống chí nhưng việc nghiên cứu ảnh hưởng của Tam quốc 
diễn nglũa đối với Hoàng Lê nhất thống chí chưa được giới nghiên cứu quan 
tâm một cách toàn diện. Đê hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi muốn phân 
tích, so sánh Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí trên ba phương 
diện: nội dung tư tưởng tác phẩm, kết cấu tác phẩm và nghệ thuật xây dựng 
nhân vật để thấy rõ hơn những ảnh hưởng của 
Tam quốc diễn nghĩa cùng 
những sáng tạo trên truyền thống văn hoá Việt Nam của tác giả Hoàng Lê nhất 
thống chí trong quá trình xây dựng một tác phẩm có vị trí quan trọng trong thể 
loại tiểu thuyết nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Đó cũng chính là lí 
do chúng tôi chọn đề tài này làm luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Tình hình nghiên cứu Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống 
chí ở Trung Quốc và nước ngoài
ơ Trung Quốc, việc nghiên cứu Tam quốc diễn nghĩa đã đạt được những 
thành tựu đáng kể. Trong các giáo trình văn học cổ Trung Quốc: Trung Quốc 
văn học sử (tập bốn, Nxb Cao đẳng giáo dục, 2002) do Viên Hành Bái chủ 
biên, Trung Quốc tiểu thuyết sử mạn cảo (Nxb Hồ Bắc giáo dục, 1998) của Lí 
Thôi Ngô, Lịch sử văn học Trung Quốc (tập một và hai, người dịch: Lê Huy
2
/s ) g u y ễ n X k ị T k u ổ n
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nhâtth ỗng chí
Tiêu, Lương Duy Thứ, Nxb Giáo dục, 1997) do Dư Quán Anh, Tiền Chung 
Thư, Phạm Ninh chủ biên đã đánh giá Tam quốc diễn nghĩa là một tác phẩm 
tiêu biểu cho thi pháp của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Đặc biệt nhà 
nghiên cứu Trịnh Thiết Sinh và nhà Hán học người Nga B.L Riftin đã có 
những đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tam quốc diễn nghĩa. Cuốn Tam 
quốc diễn nghĩa tự sự nghệ thuật (Nxb Tân Hoa, 2000) của Trịnh Thiết Sinh 
đưa ra được những vấn đề về quá trình hình thành, đặc trưng nghệ thuật, sáng 
tạo hồi mục, kết cấu tự sự và lịch sử nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Cuốn 
Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc của B.L Riftin 
(Phan Ngọc dịch, 2002) có phương pháp tiếp cận tác phẩm một cách hết sức 
mới mẻ. So sánh Tam quốc diễn nghĩa với truyền thống văn học dân gian 
Trung Quốc, tác giả đã cung cấp cho người đọc làm công tác nghiên cứu 
những kiến thức bổ ích, đặc biệt là hiểu sâu văn hoá Trung Quốc trong thế đối 
lập với văn hoá Việt Nam và văn hoá Châu Âu. Ngoài ra, trong những bài 
nghiên cứu về văn học Việt Nam đăng trên Tạp chí Văn học như: Mấy vấn đề 
ngliiên cứu những nền văn học Trung cổ cùa phương Đông theo phương pháp 
loại hình (1974), Hoàng Lê nhất thống chí và truyền thống của tiểu thuyết 
Viễn Đông (1984), B.L Riftin đã đặt nền móng cho việc nghiên cún ảnh hướng 
của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lè nhất thống chí trên phương diện 
thi pháp thể loại. Luận văn đã dẫn ra một số luận điểm của B.L Riftin trong 
quá trình đánh giá, nhận xét sự ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với 
Hoàng Lê nhất thống chí.
2.2 Tình hình nghiên cứu Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thông 
chí ở Việt Nam
Tam quốc diễn nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng đối với văn học Việt Nam. 
Nó không chỉ tạo những cơn sốt "truyện Tàu" trong việc xuất bản và đọc mà còn 
có ảnh hưởng sâu sắc trong giới sáng tác. Một loạt những tác phẩm văn xuôi lịch 
sử đặt nền móng cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đều chịu ảnh hưởng 
của Tam quốc diễn nghĩa. Không những thế, kết cấu chương hồi và cách xây 
dựng hình tượng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa còn đê lại nhiều dấu tích
3
/SỈguyêiA Xkị "Thuần
Ảnh hưởng của Tam cịuốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nhất thông chí
trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tuy Tam quốc diễn nghĩa đã đi sâu 
vào lòng người đọc và giới sáng tác Việt Nam nhưng việc nghiên cứu Tam quốc 
diễn nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với văn xuôi chù' Hán nói chung và thê loại 
diễn nghĩa lịch sử nói riêng một cách chuyên sâu thì chưa có được bao nhiêu.
Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy và tìm hiểu tiểu thuyết Minh Thanh, năm 
1965 giáo sư Trần Xuân Đề viết sách Tiểu thuyết c ổ điển Trung Quốc (sau này 
được bổ sung để thành sách v ề mấy bộ tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc) 
gồm hai tập để phân tích nội dung, nghệ thuật và hình tượng nhân vật của năm 
bộ tiểu thuyết nổi tiếng Trung Quốc là: 
Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ Hử, Tây 
dư kí, Hồng lâu mộng và Nho lâm ngoại sử. Ngoài ra còn phải kể đến cuốn 
Thú xem truyện Tàu của Vương Hồng sển (1970) và Đ ể tìm hiểu tám bộ tiểu 
thuyết cổ điển Tnmg Quốc của giáo sư Lương Duy Thứ (1990). Với kiến thức 
sâu rộng và những cảm nhận sâu sắc, tinh tế, các tác giả đã có những nhận xét 
có giá trị về nội dung và nghệ thuật của Tam quốc diễn Iiglũa. Bên cạnh đó, lời 
giới thiệu của giáo sư Lê Huy Tiêu in ở đầu sách Tam quốc diễn nghĩa (2001) 
giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quát về nội dung tư tưởng, kết cấu và 
những vấn đề nghệ thuật tự sự của tác phẩm. Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Lê Bảo 
trong luận án tiến sĩ Đặc điểm kết cấu Tam quốc diễn nghĩa của La Quán 
Trung (1992) đã nêu lên những thành công của La Quán Trung trong việc lấy 
cái kì lạ để kết cấu tác phẩm, một yếu tố mang đậm bản sắc Trung Hoa nói 
riêng và phương Đông nói chung.
Về Hoàng Lê nhất thống chí, tác phẩm xuất sắc đặt nền móng cho sự 
phát triển của tiểu thuyết Việt Nam vốn được giới nghiên cứu rất quan tâm. 
Đáng kể nhất là những bài viết của giáo sư Phạm Tú Châu về những vấn đề 
liên quan đến văn bản và nhân vật trong Hoàng Lê nhất thống chí đăng trên 
Tạp chí Văn học như: Những nhân vật nữ trong Hoàng Lê nhất thống chí 
(1978), Đọc lại văn bản Hoàng Lê nhất thống chí (1979), Đọc văn bản Hoàng 
Lê nhất thống chí (1981) Đặc biệt trong cuốn Hoàng Lê nhất thống chí, văn 
bản, tác giả và nhân vật (1977), giáo sư Phạm Tú Châu đã đặt vấn đề liên 
quan đến tác giả của tác phẩm, một vấn đề chưa phải là đã được thống nhất
4
/\)0wỵẻK\ Xhị XkuầkA
Ảnh hưởng của Tam ơịuổc diễn nghĩa âồ\ vố\ Hoàng Lê nhât thông chí
trong giới nghiên cứu, đồng thời cuốn sách có nhũng nhận xét, phân tích rất 
thú vị và bổ ích về một số nhân vật nữ đã từng "buông rèm nhiếp chính" trong 
tác phẩm. Ngoài ra, có thể kê đến bài giới thiệu sách Hoàng Lê nhất thống chí 
(1984) của dịch giả Kiều Thu Hoạch, bài nghiên cứu Tìm hiểu giá trị hiện thực 
của "Hoàng Lê nhất thống chí", một tác phẩm văn xuôi cổ điển tiêu biểu 
(1966) của tác giả Mai Quốc Liên và Kiều Thu Hoạch, bài nghiên cứu Tiểu 
thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dưng và nghệ thuật (1997) của Trần Nghĩa. Đó 
là những bài viết có giá trị về nội dung phản ánh hiện thực và nghệ thuật xây 
dựng nhân vật trong Hoàng Lê nhất thống chí. Trong cuốn Văn học Việt Nam 
(nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX) chương V Hoàng Lê nhất thống chí 
(1976), giáo sư Nguyễn Lộc đã đề cao sự kết hợp tương đối hài hoà giữa chân 
lí lịch sử với chân lí nghệ thuật, đồng thời nêu những vấn đề về thể loại của tác 
phẩm. Ớ khía cạnh khác, nhà nghiên cứu Đỗ Đức Dục quan tâm đến vấn đề 
điển hình hoá trong Hoàng Lê nhất thống chí qua bài viết Tính cách điển hình 
trong "Hoàng Lê nhất thống chí'\ 1968).
Về việc so sánh, phân tích và nghiên cứu ảnh hưởng của tiểu thuyết 
Minh Thanh đối với văn xuôi chữ Hán cũng đã bước đầu được giới nghiên cứu 
quan tâm. Theo giáo sư Phạm Tú Châu, người đầu tiên phát hiện và chỉ rõ ảnh 
hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối với tiểu thuyết Việt Nam là Hà Thiện 
Hán (không rõ tiểu sử). Trong lời đề tựa cho tập Truyền kì mạn lục, ông đã chỉ 
ra những mối liên hệ giữa Truyền kì mạn lục và Tiễn đăng tân thoại của Tông 
Cát - một nhà nho đời Minh (41). Những phát hiện của Hà Thiện Hán sau này 
được Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú khẳng định. Đó là những bước tiến đầu 
tiên đặt cơ sở cho việc nghiên cứu ảnh hưởng của tiểu thuyết Minh Thanh đối 
với văn xuôi chữ Hán Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. 
Mặt khác, việc dịch và xuất bản những bộ tiểu thuyết nổi tiếng thời Minh 
Thanh như: Tam quốc diễn nghĩa (1901), Nho lâm ngoại sử (1961), Hồng lâu 
mộng (1963) đã tạo điều kiện để bạn đọc và giới nghiên cứu tiếp xúc với 
những tinh hoa của tiểu thuyết Trung Quốc. Những bài nghiên cứu trên Tạp 
chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc và Tạp chí Hán Nôm như: Ảnh
5
/\)0uyền Tkị Xhucm
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa dôi vói Hoàng Lế nhất thông chí
hưởng của tiểu thuyết Trưng Quốc ở Việt Nam của giáo sư Phan Ngọc (1996), 
Ý nghĩa của văn học Trung Quốc trong tiến trình phát triển của văn học Việt 
Nam của giáo sư Trần Đình sử (1966), Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc 
đôi với văn học Việt Nam của giáo sư Nhan Bảo (1998), Tiểu thuyết Minh 
Thanli và diễn tiến của tiểu thuyết Hán Nôm nước ta của giáo sư Phạm Tú 
Châu (1999), Một số thể nghiệm trong việc so sánh văn hoá văn học giữa Việt 
Nam và Trưng Hoa của giáo sư Phương Lựư (1998), Lược đồ quan hệ tiểu 
tluiyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu tluiyết cổ các nước trong khu vực của giáo 
sư Trần Nghĩa (1998) đã phần nào nghiên cứu những ảnh hưởng trực tiếp 
của tiểu thuyết Minh Thanh đối với công chúng bạn đọc Việt Nam trong nhiều 
thế kỉ qua và những ảnh hưởng về mặt nội dung cũng như thể loại của tiểu 
thuyết Minh Thanh đối với văn xuôi chữ Hán và truyện Nôm của Việt Nam.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu kể trên mới chỉ dùng ở việc bình 
điểm, nhận xét khái quát chứ chưa xác định những ảnh hưởng cụ thể trên các 
phương diện nội dung và nghệ thuật. Bài viết của giáo sư Lê Huy Tiêu Ánh hưởng 
của Tam quốc diễn nghĩa đối với tiểu thuyết Nhâm Thìn lục (ỉm Jin-Nok) của 
Triều Tiên và Hoàng Lê nhất thống chí của Việt Nam đã gợi ý cho chúng tôi 
những điểm nhìn để đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng của Tam quốc diễn 
nghĩa - bộ tiểu thuyết mẫu mực cho thi pháp tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc 
đối với Hoàng Lê nhất thống chí trên một số phương diện về nội dung tư tưởng, 
kết cấu tác phẩm và nghệ thuật xây dựng nhân vật, hy vọng sẽ góp phần đưa ra 
những kiến giải về thành công của các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí trong quá 
trình xây dựng một tác phẩm xuất sắc của văn học Trung đại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đôi tượng nghiên cứu
So sánh nội dung tư tưởng, kết cấu, hệ thống nhân vật của Tam quốc 
diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu những 
ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí trên các
6
Ảnh hưởng của Tam ơịUốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nh ấ t thống chí
/M guyên x h ị T k u ầ n
phương diện nội dung tư tướng, kết cấu và hệ thống hình tượng nhân vật. Tác 
phẩm mà chúng tôi sử dụng để khảo sát là Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê 
nhất thống chí.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu là tính tất yếu của một 
công trình khoa học. Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp so sánh: để đối chiếu, nhận diện những điểm giống và 
khác nhau về nội dung và nghệ thuật giữa Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lé 
nhất thống chí.
- Phương pháp hệ thống: cung cấp những dữ liệu cơ sở tin cậy cho 
những kết luận của luận văn và đảm bảo tính chính xác khoa học.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: để khẳng định ảnh hướng của Tam 
quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí và sáng tạo của tác giả 
Hoàng Lê nhất thống chí trên cơ sở truyền thống vãn hoá dân tộc.
5. Mục đích và ý nghĩa khoa học của đề tài
Đây là luận văn đầu tiên so sánh Tam quốc diễn Iiglũa với Hoàng Lê 
nhất thống chí để tìm hiểu nhũng ảnh hướng nội dung và nghệ thuật cùng 
những sáng tạo trên cơ sở truyền thống văn hoá dân tộc, từ đó khẳng định 
những giá trị của Hoàng Lê nhất thống chí trong nền văn học dân tộc.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm các phần: Mở đầu, Nội dung (gồm ba chương) và Kết 
luận. Cuối cùng là Thư mục sách tham khảo.
Phần nội dung chính được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Nội dung tư tưởng của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê 
nhất thống chí
Chương 2: So sánh kết cấu Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất 
thống chí
Chương 3: So sánh nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê 
nhất thống chí
1
/\ j0 u y ễ n T k ị x k u ầ n
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nhất thống chí
Chương 1
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TAM QUỐC DIEN n g h ĩa 
VÀ HOÀNG LÊ NHẤT THốNG CHÍ
1. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TAM Q ưốc DlỄN NGHĨA VÀ HOÀNG LÊ NHẤT 
THỐNG CHÍ
1.1 Nội dung tư tưởng của Tam quốc diễn nghĩa
Lịch sử Trung Hoa là lịch sử của những cuộc chiến tranh cát cứ giữa các 
chư hầu. Trước sự đòi hỏi thống nhất đất nước của nhân dân và lịch sử, từ thời 
Tây Chu, Võ Vương hội tám trăm chư hầu ở Mạnh Tân đến thời kì Đông Chu 
số chư hầu giảm xuống còn hai trăm. Sau đó, Tần Thuỷ Hoàng kết thúc thời kì 
Chiến quốc phân tranh thống nhất đất nước, dẹp tan họa cát cứ của 7 nước: Yên, 
Tề, Sở, Hàn, Triệu, Nguỵ, Tần. Nhưng nhà Tần đã bất lực trong việc thống trị 
đại thiên hạ dẫn đến mầm loạn lạc. Con cháu 6 nước nổi lên phục thù và nguy 
cơ xâu xé lại bắt đầu. Tuy nhiên, nạn cát cứ không thê kéo lui được tiến trình 
phát triển của lịch sử. cả xã hội bị cuốn vào một lực lượng mới vừa có nhiệm vụ 
diệt Tần vừa có nhiệm vụ thống nhất đất nước, đó là lực lượng cúa Sớ Hạng 
Vương. Sau đó, Hán Cao tổ kết thúc thời kì Hán - sở tranh hùng, dẹp 18 chư 
hầu và thống nhất đất nước mớ ra một kỉ nguyên mới cho lịch sử Trung Quốc.
Tính từ thời điểm khởi nghĩa Hoàng Cân đời Đông Hán Linh Đế năm 
184 đến khi nhà Tấn diệt Ngô, thống nhất đất nước năm 280, trong khoảng 
thời gian 97 năm, nội dung của Tam quốc diễn Iighĩa bao gồm những sự kiện 
lịch sử chính sau đây:
Vào thời Hán Linh Đế, nền chính trị nhà Hán mục ruỗng tận gốc rễ. 
Hoạn quan kết hợp với ngoại thích lộng quyền, vơ vét tài sản của nhân dân, lập 
phe đảng uy hiếp triều chính. Kinh tế đất nước suy sụp vì thiên tai, hạn hán, lụt 
lội, châu chấu phá hoại mùa màng. Đời sống của nông dân vô cùng cực khổ. 
Nhân đó, bọn quan liêu đại địa chủ thừa cơ thôn tính đất đai, ngày càng thoát ly 
khỏi chính quyền trung ương, tổ chức những tập đoàn quân phiệt có vũ trang. 
Lòng người xáo động, giặc cướp nổi lên như ong. Năm 184 khởi nghĩa nông
8
/\ )0 Uỵềv\ T k ị X k u c m
Ảnh hưởng của Tam quốc diấn nghĩa đồi với Hoàng Lê nhất thông chí
dân do ba anh em Trương Giác, Trương Lương, Trương Bửu lãnh đạo với khí 
thế lừng lẫy chưa từng có cùng một lúc ở ba mươi sáu nơi với một lực lượng vô 
cùng đông đảo. Với danh nghĩa "phù trì vương thất”, các tập đoàn địa chủ có vũ 
trang ra sức đàn áp khởi nghĩa Hoàng Cân. Nghĩa quân Hoàng Cân thất bại 
nhưng chính quyền Đông Hán cũng vì thế mà suy sụp hoàn toàn.
Năm 189, Đổng Trác kéo quân vào Lạc Dương rắp tâm thực hiện chí 
lớn, tác oai, tác quái trong triều đình.
Năm 190, liên quân địa phương gồm 17 đạo do Viên Thiệu cầm đầu, tổ 
chức tiến đánh Đổng Trác.
Năm 196, loạn Đổng Trác bị dập tắt nhung nền kinh tế bị phá hoại 
nghiêm trọng, kinh đô Lạc Dương hoang phế, tiêu điều. Trong quá trình dẹp 
loạn các tập đoàn không ngừng tăng cường vây cánh của mình. Trong đó 
mạnh nhất phải kể đến Viên Thiệu, Viên Thuật và Tào Tháo.
Trong vòng 10 năm từ 197 đến 207, sau khi dẹp loạn kiêu binh Lí Thôi, 
Quách Dĩ, Tào Tháo tập trung lực lượng tiêu diệt Viên Thuật, Viên Thiệu, 
thống nhất cả một vùng đất đai rộng lớn, chấm dứt thế lực cát cứ của quan liêu 
địa chủ, hình thành một cục diện mới. Cũng trong thời kì này, Tôn Quyền lợi 
dụng tình thế củng cố địa vị của mình ở vùng Giang Đỏng.
Năm 208 Tào Tháo thực hiện chí lớn vượt Trường Giang tiêu diệt Tôn 
Quyền. Kế hoạch của Tào Tháo thất bại vì liên quân Tôn, Lưu. Sau đại bại ở Xích 
Bích, cục diện đã hoàn toàn đổi khác. Lưu Bị lĩnh chức Kinh Châu mục, chiếm 
ích Châu rồi dần dần tiến vào Thành Đô. Thế chân vạc dần được hình thành.
Năm 219, Lưu Bị xưng vương ở Hán Trung, lên ngôi Hoàng đế, lập nên 
Thục Hán. Năm 220, Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế vua Hán lập ra nhà 
Nguỵ. Kế đó Tôn Quyền xưng đế, lập nên nước Ngô ở Giang Đông. Mặc dù 
phân cắt nhưng ba nước luôn luôn tiến hành chiến tranh nhằm thôn tính lẫn 
nhau, thống nhất về một mối.
Cũng năm 219, Quan Công đánh Phàn thành của Nguỵ, Đông Ngô nhân 
cơ hội ấy sai Lã Mông đánh úp lấy được Kinh châu, giết chết Quan Công, thế 
hoà hợp giữa Ngô và Thục bị phá vỡ.
9
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thông chí
A lg u y ê n ~CW[ x k u c m
Năm 221, Lưu Bị cử đại quân đi báo thù cho Quan Công. Vướng một sai 
lầm trong binh pháp nên Lưu Bị đại bại ở Hào Đình, trong phút chốc 40 doanh 
trại bị ngọn lửa của Lục Tốn thiêu sạch, sự nghiệp của Lưu Bị phá sản từ đó. 
Năm 222, Lưu Bị mất ở thành Bạch Đế, Lưu Thiện nối ngôi. Trưng thành với 
lời "thác cô" của Lưu Bị, Khổng Minh quyết ra tay xoay chuyển tình thế. Hàn 
gắn lại chính sách hoà Ngô, diệt Nguỵ, Khổng Minh cử binh Bắc phạt 6 lần, 
nhưng những cố gắng của Khổng Minh không thể thay đổi được cục diện.
Năm 234, Khổng Minh mất, giao lại binh quyền cho Khương Duy, 
Khương Duy tiếp tục Bắc phạt cho đến mùa xuân năm 263, Tư Mã Chiêu sai 
Đặng Ngải, Chung Hội, Gia Cát Tư, chia ba đường đánh Thục. Lưu Thiện đầu 
hàng, Thục Hán bị diệt vong.
Năm 265, Tư Mã Chiêu mất, con Tư Mã Chiêu là Tư Mã Viêm lật Tào 
Hoán chiếm ngôi nước Nguỵ, lập nên nhà Tấn, Nguỵ bị diệt vong.
Năm 280, hai mươi vạn quân Tư Mã Viêm chia làm 6 đạo, vượt Trường 
Giang tiến đánh Đông Ngô, Tôn Hạo đầu hàng, Đông Ngô bị diệt vong, nhà Tấn 
thống nhất đất nước.
Dựa trên những sự kiện có thật trong lịch sử biên niên, dựa vào những 
thoại bản và truyền thống kể chuyện dân gian, nhà văn La Quán Trung đã xây 
dựng được một bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ. Câu chuyện tranh bá xảy ra thời kì 
cuối đời Đông Hán đến đầu nhà Tấn phản ánh mâu thuẫn dân tộc phức tạp, thê 
hiện nguyện vọng thống nhất đất nước, chống giặc ngoại xâm của nhân dân thời 
Tống - Nguyên (960 - 1368).
Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là tố cáo sự tàn khốc của chiến tranh. 
Mới chỉ có loạn Đổng Trác, "Dân Lạc Dương còn được vài trăm nóc nhà, cũng 
không có gì để ăn, phải ra ngoài thành bóc vỏ cây, đào rễ cỏ mà ăn. Còn các 
quan thì từ thượng thư lang trở xuống cũng phải ra thành hái rau. Có nhiều 
người bị đè chết ở những chỗ tường đổ vách nát" (1, hồi 14). Trong cuộc nội 
chiến các tập đoàn coi việc tranh quyền, đoạt lợi là phương tiện sống còn của 
mình. Số phận của người dân thật mong manh, họ bị giết một cách tàn nhẫn 
ngay trong lễ hội cầu may của mình. "Giữa mùa xuân dân Dương Thành đang
10
/\)guyễk\ T k Ị T k u ầ n
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thông chí
tế lễ, Đổng Trác ra lệnh cho quân lính vây chặt lại, chém giết sạch, cướp đàn 
bà, của cải chất đầy lên xe, treo hơn một nghìn cái đầu ở dưới xe rồi trở về 
thành, phao tin là đã giết được giặc thắng lợi trở về, sau đó thắp lửa đốt đầu 
người ở dưới cửa thành, đem đàn bà, của cải chia cho quân lính" (1, hổi 5).
Cuộc nội chiến liên miên giữa các tập đoàn phong kiến đã cuốn đại đa 
số nhân dân vào guồng máy khủng khiếp của nó và tàn phá nền kinh tế đất 
nước. Theo B.L.Riữin thì cư dân Trung Quốc lúc đó không đông, nhưng chiến 
tranh đã làm cho số cư dân đó rút xuống một con số hết sức "khiêm tốn". "Nếu 
như vào năm 157 của Công nguyên (đời Đông Hán) dân cư Trung Quốc là 
năm mươi sáu triệu rưỡi thì vào những năm 221 - 240 trong cuộc chiến tranh 
khốc liệt nhất con số này chỉ còn lại không đầy tám triệu." (6, tr 38).
Trong một xã hội loạn lạc như thế, người dân đã mất hết lòng tin vào 
"thiên tử", họ tha thiết mong ước có một đấng minh quân thương dân, thi hành 
chính nghĩa. Theo các học giả Trung Quốc, khi Tam quốc diễn nghĩa ra đời là 
lúc tập đoàn Nữ Chân đang hoạt động ráo riết để lật đổ nhà Tống. Tư tướng "úng 
Lưu, phản Tào" của nhân dân thời kì Tam quốc cũng phù hợp với ước nguyện 
của nhân dân thời đại La Quán Trung "lòng người Trung Quốc hướng về nhà 
Hán". Không phải ngẫu nhiên ở thời kì suy tàn của nhà Tống mọi người rất 
thích nghe kể chuyện Tam quốc. Ớ nhà có trẻ em quấy khóc, người nhà cho 
tiền lẻ bảo đi nghe Tam quốc là thôi ngay. Câu chuyện Tam quốc không 
những được lưu truyền rộng rãi mà khuynh hướng "ủng Lưu. phản Tào" được 
thể hiện khá rõ nét. Khi nghe Lưu Huyền Đức thất bại, mọi người nhãn mày, 
có kẻ khóc; nghe Tào Tháo thất bại, mọi người vui mừng. Triều nhà Tống hà 
khắc, giặc giã nổi lên, quan tham ra sức vơ vét bóc lột nhân dân, chiếm đoạt 
ruộng đất. Nhân dân mong muốn có một bậc "cái thế" yêu nước thương dân 
đứng ra cứu họ thoát khỏi cảnh dầu sôi lửa cháy. Họ muốn mượn tích truyện 
cũ để bộc lộ mong muốn của mình. Cho nên tư tưởng coi nhà Thục Hán là 
chính thống, đề cao chính thống của Tam CỊUỐC diễn nghĩa được coi là phù hợp 
với nguyện vọng của đông đảo nhân dân thời đại La Quán Trung. Quan điểm 
này chi phối rất nhiều trong quá trình sáng tạo của nhà văn.
11
A lg u y ễ n T h ị x k n ầ n
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thông chí
Mặc dù đề cao chính thống, nhưng trong Tam quốc diễn nghĩa nhà văn 
vẫn cho rằng nguyên nhân của mọi sự rối loạn trong triều đình, nguyên nhân 
của chiến tranh loạn lạc, chia cắt đất nước chính là do hai vua Linh Đế và 
Hoàn Đế nhu nhược, bất tài ham mê tửu sắc dung túng bọn hoạn quan ngoại 
thích mà ra. Lưu Bị có vai trò lịch sử để làm hoàng đế một phần do Lưu Bị 
thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Hán nhưng phần nhiều là do tính nhân từ, 
thương dân của Lưu BỊ. Mấu chốt quyết định thành công của tập đoàn Thục 
Hán là "nhân hoà" chứ không chỉ đơn giản là tư tưởng chính thống. Đối với 
những người trong tôn thất như Lưu Chương, Lưu Biểu không nhũng không 
nhận được thiện cảm của nhà văn mà còn có phần bị chê trách. Mặt khác, đối 
với những người có tài năng, đức độ của các tập đoàn Nguỵ và Ngô cũng được 
nhà văn La Quán Trung ca ngợi và tán thưởng. Những Tuân úc, Quách Gia, 
Điển Vi, Từ Hoảng, Trương Liêu của Nguỵ hay Lỗ Tử Kính, Thái sử Từ, 
Hoàng Cái, Hám Trạch của Ngô cũng đã để lại trong lòng người đọc những 
ấn tượng tốt đẹp về tài năng và nhân cách. Điều đó cũng phù hợp với quan 
niệm và nguyện vọng của nhân dân thời đại La Quán Trung.
Mặc dù lấy nguồn sử liệu trong Tam quốc chí nhưng tư tưởng của Tam 
quốc diễn nghĩa đi ngược với quan điểm của Trần Thọ. Điều này có liên quan 
đến thân thế và sự nghiệp của tác giả Tam quốc chí. Trần Thọ một mặt là quan 
ngự sử dưới triều đại nhà Tấn, triều đại được thành lập từ nhà Nguỵ, mặt khác 
Trần Thức, bố của Trần Thọ làm quan dưới triều Thục Hán đã bị Gia Cát 
Lượng giết chết trong một lần không làm tròn trọng trách. Vì vậy, Trần Thọ 
hết sức ca ngợi Tào Tháo và đề cao tính chính thống của nhà Nguỵ.
Thái độ đối với cuộc chiến tranh thời Tam quốc thay đổi trong những thời 
kì khác nhau của lịch sử Trung Quốc. Vào thời Lục triều, khi vua nhà Tấn bị 
đánh đuổi xuống phía Nam thì quan niệm đương thời đã khẳng định tính chính 
thống của tập đoàn Thục Hán. Nửa đầu thời Bắc Tống là triều đại giành quyền 
lực từ nhà Đường thì các sử gia đề cao Tào Tháo. Còn khi những đoàn người Nữ 
Chân đánh chiếm miền Bắc, kinh đô chuyển xuống Hàng Châu (1127) thì các sử 
gia và các nhà văn lại nói đến tính chính thống của nhà Thục. Tư Mã Quang (thế
12
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhât thông chí
/slg u y ê n TTKi T k u ầ n
kỉ XI) bênh vực tính chính thống của nhà Nguỵ còn Chu Hy (1130) lại bênh vực 
tính chính thống của nhà Thục. Như vậy mỗi thời đều đưa ra một cách giải quyết 
của mình về vấn đề này và kết luận lại phụ thuộc vào tư tưởng của các nhà sử 
học, nhà văn của thời đại ấy.
1.2 Nội dung tư tưởng của Hoàng Lé nhất thống chí
Hoànẹ Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán trong 
bộ "Ngô gia văn phái". Tác phẩm có 17 hồi, gồm 7 hồi chính biên và 10 hồi 
tục biên. Xét về mặt qui mô thì 
Hoàng Lê nhất thống chí không bằng Tam 
quốc diễn Iiglũa nhưng tác phẩm đã dựng được một bức tranh rộng lớn, phức 
tạp về xã hội Việt Nam từ năm 1767 đến năm 1802. Đây là thời gian khủng 
hoảng, giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử đồng thời cũng là thời kì có nhiều 
biến động lớn lao trong xã hội Việt Nam. Mâu thuẫn nội bộ giai cấp phong 
kiến và mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân bộc lộ gay gắt chưa từng 
thấy. Cả một cơ cấu xã hội cùng những hình thái ý thức, tư tướng, đạo đức bị 
đảo lộn và lung lay đến tận gốc rễ.
Mở đầu tác phẩm, tác giả viết về những lục đục trong phủ Chúa. Trịnh 
Sâm say mê Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng lập con thứ. Hoàng Đình Bảo về phe 
Đặng Thị Huệ. Năm 1782, Trịnh Sâm mất, con cả là Trịnh Tông dựa thế kiêu 
binh giết Hoàng Đình Bảo, tiêu diệt phe Đặng Thị Huệ, truất ngôi Trịnh Cán. 
Kiêu binh lấy thế phò chúa lộng hành quay sang áp đảo chúa, gây náo loạn xã 
hội làm cho nhân dân vô cùng khổ cực. Năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra 
Bắc với danh nghĩa "phù Lê, diệt Trịnh", đánh tan kiêu binh, đưa Lê Chiêu 
Thống lên ngôi. Khi Nguyễn Huệ kéo quân vào Nam, Trịnh Bồng lại nhảy ra 
tranh giành ngôi chúa. Mâu thuẫn giữa vua Lê và húa Trịnh lại tiếp tục tái 
diễn. Nguyễn Hữu Chỉnh được Nguyễn Huệ phái ra Bắc, đánh đuổi Trịnh 
Bồng, nắm giữ chính quyền Đàng Ngoài. Vua Lê dựa thế Hữu Chỉnh đốt sạch 
sự nghiệp hai trăm năm của nhà Chúa. Hữu Chỉnh lộng quyền, Nguyễn Huệ 
phái Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Hữu Chỉnh. Lê Chiêu Thống bỏ chạy, cho 
người sang cầu cứu nhà Thanh. Nhân cơ hội ấy nhà Thanh cho Tôn Sĩ Nghị và 
hai mươi vạn quân Thanh xâm lược nước ta. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi
13
y \ )g u y ễ n T k ị X K u ầ n
Ảnh hưởng của Tam CỊUÔC diễn nghĩa đổi vói Hoàng Lê nhất thống chí
Hoàng đế xong liền hạ lệnh xuất quân ra Bắc, quét sạch hai mươi vạn quân 
Thanh, đuổi Tôn Sĩ Nghị về nước. Lê Chiêu Thống cùng đám tàn quán chạy 
sang Trung Quốc và chết luôn ở đó. Quang Toản, người nối nghiệp Nguyễn 
Huệ đã không giữ được thành quả lớn lao của cha, nội bộ nhà Tây Sơn bị chia 
rẽ và suy yếu. Nguyễn Ánh ở Đàng Trong nhờ thế lực ngoại viện trở lại tấn 
công, lật đổ nhà Tây Sơn, đàn áp đẫm máu phong trào Tây Sơn, lập nên triều 
đại nhà Nguyễn năm 1802.
Bằng những hình ảnh lịch sử cụ thể, tác giả của Hoàng Lé nhất thống 
chí đã vẽ nên một cách hết sức sinh động cảnh dâu bể tang thương của xã hội 
phong kiến Đàng Ngoài thời kì Lê-Trịnh. Những mâu thuẫn trong nội bộ các 
tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh, cuộc nổi dậy của "kiêu binh", sức tấn công như 
vũ bão của phong trào khởi nghĩa nông dân do Nguyễn Huệ lãnh đạo, sự thất 
bại nhục nhã chưa từng thấy của quân xâm lược nhà Thanh và bè lũ bù nhìn Lê 
Chiêu Thống đã giúp các tác giả nhìn thấy sự suy sụp không gì cứu vãn nổi 
của triều đình nhà Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam nói chưng.
Bên cạnh chủ đề chính viết về triều đình Lê-Trịnh, chủ đề về cuộc sống 
của nhân dân cũng được đề cập đến trong Hoàng Lê nhất thống chí. Trăm cái 
cơ cực đổ lên đầu người dân khi đất nước là một bãi chiến trường. Mỗi lần có 
một toán lính kéo quân vào thành là dân chúng lại một phen tranh nhau chạy 
trốn. Các tập đoàn trong quá trình đánh nhau cũng không quên thả lính ra vơ 
vét tài sản của nhân dân. Những kẻ tiếm quyền mượn oai chúa như Đặng Mậu 
Lân tác oai tác quái ở kinh thành, những kẻ có quyền thực như Hữu Chỉnh thả 
quân vào làng Bái Hạ giết không sót một người nào, Vũ Văn Nhậm vào thành 
cho quân lính lùng sục để lấy của ở khắp các nhà dàn Tiếng kêu khóc của 
người dân vô tội vang lên đầy trời.
Trong toàn bộ nền văn xuôi Trung đại Việt Nam, chưa có một tác phẩm 
nào có được qui mô sử thi như Hoàng Lê nhất thống chí. Chính thực tế xã hội 
đầy phức tạp, mâu thuẫn, với những đảo lộn, những biến cố dồn dập đã cung 
cấp những tài liệu quí giá để các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí dựng nên bức 
tranh hiện thực và sinh động của thời đại. "Một tác phẩm đã phản ánh được lịch
14
/\]0 u y ếr\ T k ị T k u c m
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa ảố\ vói Hoàng Lê nhât thông chí
sử với một độ chân xác như thế, với một cảm quan nhạy bén và sâu sắc như thế, 
tác phẩm ấy chứng tỏ một sự vươn lên của nền văn học dân tộc" (28).
2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TAM QUỐC DIẺN NGHĨA Đối VỚI HOÀNG LÊ 
NHẤT THỐNG CHÍ TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
2.1 Vài nét về tác giả Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thông chí
2.1.1 Vê cuộc đời và sáng tạo của nhà văn La Quán Trung
B.L.Riítin đã đánh giá về La Quán Trung: "La Quán Trung đối với văn 
học Trung Quốc đã thực hiện được cái sứ mạng lịch sử là dụng lên được một sử 
thi dân tộc, một điều mà vào thế kỉ X - XI nền văn học Ba tư đã làm được, và 
Aliser Navoi đã làm được sau La Quán Trung sau một thế kỉ trong sử thi Uzbek. 
Sáng tác của La Quán Trung do đó thuộc vào loại những nhà kinh điển lớn nhất 
của phương Đông Trung cổ" (6, tr 244). Là một nhà văn lớn của văn học Trung 
Quốc nhưng người đời lại biết rất ít về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Nhà văn 
Lỗ Tấn đã tìm được một số ít tài liệu về La Quán Trung và đã qui định khái quát 
niên đại của nhà văn là 1330 - 1400. Như vậy, La Quán Trung sống vào khoảng 
giữa đời Nguyên và đời Minh. Ông tên là Bản, tự là Quán Trung, hiệu là Hồ Hải 
Tản Nhân. Ông là người Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây hiện nay, sau đó 
chuyển xuống sống ở Tiền Đường thuộc thành phố Hàng Cháu, một trong những 
trung tâm văn hoá, thương mại lớn thời đó (1127 - 1162). Theo giáo sư Lê Huy 
Tiêu thì một người bạn thân của nhà văn là Giả Trọng Minh cho biết tính tình La 
Quán Trung "ít hoà hợp với mọi người", ông thường tìm những nơi vắng vẻ để 
sáng tác nên mọi người không biết ông đi đâu và kết cục đời ông thế nào. Cũng 
có người cho rằng ông đã từng phò tá Trương Sĩ Thành khởi binh chống lại nhà 
Nguyên rồi lại lui về ở ẩn để sáng tác (1, lời giới thiệu).
Ngoài Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung còn viết ba vở kịch, hiện 
nay chỉ còn lại một vở "Phong vân hội" và những sử thi lịch sử khác như: "Tàn 
Đường", "Tuỳ Đường diễn nghĩa", "Ngũ đại diễn nghĩa" và tiểu thuyết quái đản 
"Tam Toại bình yêu" Nhưng những tác phẩm này cho đến nay hình thức đã 
thay đổi nhiều nên rất khó xác định được tác giả thật sự. Có một số quan niệm 
cho rằng La Quán Trung cùng Thi Nại Am viết Thuỷ Hử nhưng hiện nay các
15
/slguyềia Xkị Xkuần
Ảnh hưởng của Tam ơịuổc diễn nghĩa âô\ với Hoàng Lê nhât thống chí
nhà nghiên cứu đều thống nhất bút pháp của Tam quốc diễn nghĩa hoàn toàn 
khác Thuỷ Hử nên chỉ khẳng định có lẽ ông là người sửa sang lại tác phẩm cho 
Thi Nại Am. Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm lưu danh tên tuổi của La Quán 
Trung cả về tính phổ biến cũng như giá trị nghệ thuật.
Tam quốc có nhiều dị bản. Bản Tam quốc sớm nhất của La Quán Trung được 
xuất bản và còn luu giữ được đến ngày nay là vào năm 1522 (niên hiệu Gia Tĩnh đời 
Minh) và có một bài tựa viết vào năm 1494. Bản này gồm 24 quyển, có 240 hồi với 
tên gọi là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, về sau có đến 20 bản khác được in ra 
có chút ít thay đổi nhưng nội dung vẫn không khác với bản in ban đầu. Đến đời 
Thanh, cha con Mao Tôn Cương dựa vào bản in năm 1522 chinh lí lại các hồi mục, 
thêm bớt sử liệu và thêm các lời bàn vào cuối mỗi hồi, dồn 240 hồi thành 120 hồi. 
Đến Mao Tôn Cương, nghệ thuật của tác phẩm được nâng cao, tư tưởng chính thống 
được nhấn mạnh và là văn bản được lưu truyền cho đến ngày nay.
2.1.2 Vê tác giả Hoàng Lê nhất thông chí
Hoàng Lê nhất thống chí (còn gọi là An Nam nhất thống chí) là một tác 
phẩm có nhiều tác giả. Bản chính của tác phẩm không còn nên việc xác định ai 
là tác giả của những hồi nào thì hiện nay vẫn còn là vấn đề đòi hỏi sự khảo sát 
tỉ mỉ của nhiều nhà nghiên cứu. Phần lớn các tài liệu đều cho rằng Ngô Thì 
Chí là người đã viết bảy hồi đầu gọi là phần chính biên. Mười hồi tiếp theo là 
phần tục biên trong đó có bảy hồi là do Ngô Thì Du viết còn ba hồi viết có 
tính chất chắp vá chưa xác định được chính xác tác giả.
Dưới thời Lê Chiêu Thống, Ngô Thì Chí làm đến chức Thiêm thư bình 
chương tỉnh sự. Năm 1787, khi Vũ Văn Nhậm được Nguyễn Huệ sai ra Bắc diệt 
Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngô Thì Chí cùng Trần Danh Án, Vũ Trinh chạy theo Lê 
Chiêu Thống. Ông đã từng dâng lên Lê Chiêu Thống bản Trung hưng sách bàn 
kế khôi phục lại nhà Lê. Kế sách của ông đã được Lê Chiêu Thống khen ngợi và 
ông được cử đi Lạng Sơn liên lạc với Nguyễn Đình Túc qui tập những quan lại 
lưu vong đang hoạt động ở Cao Bằng. Trên đường đi ông bị bệnh và mất vào 
năm 1788. Ngoài phần sáng tác trong Hoảng Lê nhất thống chí, Ngô Thì Chí 
còn có Học Phi thi tập và Học Phi văn tập trong Ngô gia văn phái.
16
Ảnh hưởng của Tam ơịyổc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thông chí
Ngô Thì Du, tự là Trưng Phủ (1772 - 1840), từ nhỏ đã có chí học tập nhưng 
thi không đậu. Do tài học vấn ông được điều vào kinh làm việc ở sở cục rồi được 
thăng chức Đốc học Hải Dương. Nhưng không bao lâu, ông trở về quê sống cuộc 
đòi thanh bạch, dạy trẻ và làm ruộng. Ngô Thì Du có một tập mang tên Tnứig Phủ 
công thi văn trong Ngô gia văn phái ghi lại những biến thiên thời thế và bộc bạch 
nỗi lòng của một chí sĩ trước cảnh đen tối của xã hội phong kiến.
Các nhà văn trong dòng họ Ngô Thì đời nối đời sáng tác văn học, kế tiếp 
nhau dùng ngòi bút đóng góp đáng kể vào sự nghiệp văn học của đất nước. Họ 
tiêu biểu cho những trí thức dưới các triều đại phong kiến là những hạt giống 
nảy mầm trên chính quê hương, đất nước của mình. Hệ tư tưởng của họ vẫn 
thuộc về nho giáo, nhưng những tứ thư, ngũ kinh cùng những triết lí giáo điều 
không thể uốn họ thành những giống cây xa lạ. Trong không khí Nho học dày 
đặc, họ vẫn biết chắt lọc những gì tinh tuý nhất, phù hợp với tâm thức Việt Nam 
để tạo thành cái vốn tinh thần tiêu biểu cho những giá trị văn hoá dân tộc. Tính 
nhân dàn và tính dân tộc là biểu hiện cao nhất trong sáng tác của những tác giả 
Hoàng Lê nhất thống chí nói riêng và Ngô gia nói chung.
2.2 Những ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nhất 
thông chí trên phương diện nội dung tư tưởng
2.2.1 Cảm hứng bi kịch
Bối cảnh lịch sử của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí 
thuộc về những thời đại khác nhau nhưng tựu trung lại đều phản ánh mâu thuẫn 
gay gắt trong lòng xã hội phong kiến, những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau 
giữa các tập đoàn phong kiến, những rối loạn trong hậu cung dẫn đến những rối 
loạn chính trị xã hội, sự hưng vong của những triều đại, cuộc sống cực khổ của 
người dân lương thiện trong chiến tranh Xét về nội dung, Tam quốc diễn nghĩa 
thiên về mô tả chiến tranh quân sự, Hoàng Lê nhất thống chí thiên về nhũng vấn 
đề phức tạp chính trị xã hội nhưng cả hai tác phẩm đều diễn tả những tấn bi kịch 
của đất nước. Đó vừa là những bản anh hùng ca vừa là những tấn bi kịch, cảm 
hứng bi kịch đã làm nội dung của tác phẩm thêm phần sâu sắc.
17
Ảnh hưởng của Tam ơịyốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí
N g u y ê n x k ị X k w ầ n
Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí đều là những tác phẩm 
lấy đề tài từ lịch sử nên nhân vật trong tác phẩm đều là những nhân vật có thật 
trong lịch sử. Đó là những con người được sinh ra để gánh vác sứ mệnh lịch sử. 
Những Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị, Gia Cát Lượng (1) chia ba thiên hạ, 
mưu đồ bá vương lập giang san cho riêng dòng họ của mình; hay như Hữu Chỉnh 
có thế lực lật nghiêng nước, Nguyễn Huệ đánh tan hai mươi vạn quân xâm lược 
thống nhất đất nước, lập nên một triều đại mới (3) Những người có chí lớn của 
chim bằng nhưng sinh ra trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, họ làm được 
những việc "đội đá vá trời" nhưng đa phần đều có kết cục bi kịch. Hữu Chính, Vũ 
Văn Nhậm phải chấp nhận cái chết bi thảm do chính tham vọng của bản thân, Lê 
Chiêu Thống phải gửi nắm xương tàn ở xứ người, Nguyễn Huệ mất sớm trong khi 
chính quyền còn chưa được củng cố vững chắc khiến sự nghiệp cả đời xây dựng 
tiêu tán trong vòng hơn chục năm (3). Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đều chết 
trong những hoàn cảnh trớ trêu, Tào Tháo chết trong đau đớn, Khổng Minh chết 
trong thất vọng không có cách nào xoay chuyển được tình thế (1) Quan Công 
khi mất rồi hồn không chịu tiêu tan, cứ lang thang trong không trung la lớn: "Trả 
đầu ta đây?". Phổ Tĩnh đã giải thích cho hồn Quan Công: "Xưa nay phải trái nhất 
thiết không bàn; nhân trước quả sau, bao giờ vẫn thế. Nay tướng quân bị Lã 
Mông làm hại, kêu lên rằng: "Đem trả đầu ta đây!" thế thì đầu Nhan Lương, Văn 
Sú cùng những đầu sáu tướng ở năm cửa ải và bao nhiêu đầu nữa thì đòi vào 
đâu?" (1, tập 2, hồi 77). Lời giải thích của Phổ Tĩnh đã chứng minh cho sự thật 
tàn khốc của chiến tranh; chiến tranh, loạn lạc chính là sự huỷ diệt, nhân chiến 
tranh thì ắt quả là bi kịch.
2.2.2. Thái độ đổi với lịch sử
Trong Tam quốc diễn nghĩa
Các dân tộc vói truyền thống văn hoá khác nhau nhưng trong những bộ sử thi 
của họ đều có chung một tư tưởng, đó là cùng thấm nhuần một nhiệt tình ca ngợi 
những người cai trị chính nghĩa và phủ nhận những bạo chúa. Tưởng Đại Khởi, 
trong bài tựa đầu tiên cho Tam quốc diễn nghĩa đã viết rằng, bắt đầu từ Khổng Tử, 
mục đích của việc viết sử không phải đơn thuần ghi lại các biến cố theo thứ tự niên
18
/slguyếkA T k ị XkuầK \
Ảnh hưởng của Tam ơịuốc diễn nghĩa đôi với Hoàng Lê nhất thông chí
đại mà: "soi sáng cảnh hưng thịnh và suy vong của những thời đại đã qua, phản ánh 
lòng nhân từ và những hành động xấu xa của những người cầm đầu cùng các thần 
dân, ghi lại những thành công và những thất bại trong việc trị nước, nêu lên một biểu 
tượng về số phận hạnh phúc hay bất hạnh của con người để lưu lại tác phẩm cho 
đời sau có thể biết những việc làm có đạo đức và những ý định xấu khiến cho 
người ta thiên về điều thiện tránh điều ác" (dẫn theo Riftin, 6, tr 251).
Là tác giả của cuốn sử thi về sự hợp, tan của ba nước, La Quán Trung bộc 
lộ rõ quan điểm của ông về sự phát triển của lịch sử. Mở đầu tác phẩm có câu: 
"Phù thiên hạ đại thế, phân cửu tất hợp, hợp cửu tất phân" (Thế lớn trong thiên 
hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan). Đối với tác giả, lịch sử là một sự 
vận động không ngừng đi từ chỗ phân chia lại quay trở về hợp nhất, tức là lịch 
sử giống như một sự vận động vòng tròn. Quan niệm này xuất phát từ sự ảnh 
hưởng của tư tưởng triết học sơ khai Trung Quốc: thuyết Âm dương Ngũ hành. 
Theo thuyết đó mọi sự luôn vận động trong thế tương sinh, tương khắc. Trong 
một sự vật luôn tổn tại hai mặt đối lập (âm và dương), hai mặt này tác động 
chuyển hoá vào nhau làm cho sự vật biến chuyển không ngừng. Từ quan niệm 
Âm dương Ngũ hành phát triển thành qui luật của tự nhiên, xã hội và con người.
Phản ánh một giai đoạn lịch sử với một số lượng khổng lồ những sự 
kiện từ loạn Khăn vàng đến cuộc tranh quyền Đổng Trác, cuộc chiến tranh 
Viên, Tào, trận Xích Bích chia ba đất nước đến những cuộc chiến tranh giữa 
ba nước Nguỵ, Thục, Ngô; tác giả đã đi từ trạng thái tranh chấp nội bộ đến 
chiến tranh quốc gia, chiến tranh giữa các quốc gia đến thống nhất lãnh thổ. 
Con người cho dù là "thiên tử" cũng không thể dừng được tiến trình của thời 
gian. Thời kì phồn vinh, huy hoàng phải bị thay thế bằng thời kì tàn tạ, khi sự 
vật phát triển đến cực điểm, thì sẽ đến thời kì suy tàn, sự vận động theo vòng 
này kết thúc và tiếp theo lại bắt đầu một vòng khác.
Theo quan điểm của tác giả, cái mới là sự lặp lại một tinh trạng đã có từ xưa. 
Sự khẳng định uy túi hiển nhiên của cái cổ xưa có thể nhìn thấy ngay trong tính từ 
"cổ" trong ngôn ngữ Trung Quốc. Người Châu Âu coi những cái "cổ" là lỗi thòi, 
lạc hậu; ngược lại, từ "cổ" trong ngôn ngữ Trung Quốc chỉ có ý nghĩa tích cực.
19
/slguyeKA ~ukị "Ukucm
Ảnh hưởng của Tam quốc diẫn nghĩa dôi với Hoàng Lề nhất thông chí
Khổng Tử xem thòi xưa là một lí tưởng không thể nào đạt tới, là "thế ki vàng của 
nhân loại". Chính vì vậy "mục đích của loài người không phải ở sự vận động tiến 
lên phía trước mà ở sự nắm bắt tốt nhất nhũng bài học của thế ki xa xưa, ở sự theo 
đòi những mẫu mực hoàn hảo đã có" (18, tr 263). Người Trung Quốc cổ xưa 
không cảm thấy các thế kỉ đã qua đứng sau lưng mình mà coi quãng thời gian ấy là 
lí tưởng để người ở thòi hiện tại vươn tới. Đây là một đặc điểm quan trọng trong tư 
tưởng của Trung Quốc cổ đại, sự cảm thụ thời gian như một chuỗi vòng tuần hoàn 
khép kín này gắn liền vói đặc trưng của những tộc người gắn bó cuộc đời mình với 
đất đai và cây lúa nước. Sự vận động của lịch 
sử "không phải là lịch sử của sự kiện 
mà là lịch sử của một sự xét xử nghiêm khắc đối với những sự kiện, một sự xét xử 
xây dựng trên quan niệm cái thiện và cái ác" (6, tr 253).
Trong Hoàng Lê nhất thông chí
Lấy đề tài trong một giai đoạn lịch sử đau thương và hào hùng của dân 
tộc, tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã phản ánh những vấn đề lớn của xã hội 
có liên quan đến cả một thời đại và số phận hàng triệu người, đặc biệt tác 
phẩm được viết ngay trong lòng của những sự kiện nên tính thời sự luôn được 
nhiều ngành, nhiều giới quan tâm. Tuy nhiên đây không phải là một bản kí sự 
lịch sử đơn thuần mà trong quá trình trình bày các sự kiện, tác giả bộc lộ một 
cách rõ ràng thái độ đối với hiện thực phản ánh.
Lấy tinh thần đề cao sự thống nhất, trung hưng nhà Lê, nhưng ngòi bút 
hiện thực của tác giả đã làm nổi bật tình cảnh suy sụp cả vật chất lẫn tinh thần 
của tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh trước sự tấn công như vũ bão của phong trào 
khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. Nhờ đó tác phẩm đã ghi lại một cách trung thực 
những sự kiện lịch sử vô giá, những con người của một thời đại đáng ghi nhớ 
của dân tộc. Được viết ra dưới sự thôi thúc của lòng trung quân theo tư tưởng 
Khổng giáo, tôn phò chính thống, nhưng tư tưởng của tác giả đã chịu sự chi 
phối mạnh mẽ của tinh thần khoa học, trung thực, tinh thần dân tộc, tinh thần 
nhân dân và sự đảo lộn ý thức hệ đang diễn ra vào thời kì này. Đó là điều trái 
với ý định chủ quan của tác giả. Cũng là những người trung thành với triều Lê, 
nhưng đối với một sự nghiệp lớn lao của nhân dân như chống ngoại xâm lúc
2 0
/M g u y e n x k i X k u ầ n
đó, Phạm Đình Hổ đã lờ đi không nói đến, hoặc có đả động đến thì xuyên tạc, 
mạt sát như Phạm Thái. Chỉ có Hoàng Lê nhất thống chí cho chúng ta biết đầy 
đủ hơn cả về phong trào Tây Sơn, thú lĩnh của họ và không giấu nổi sự thán 
phục của tác giả. Tác giả đã xác định vị trí phù Lê nhưng chủ đề của tác phẩm 
vẫn là phê phán sự mục nát, suy tàn của chế độ phong kiến Lê-Trịnh và ca 
ngợi công lao thống nhất đất nước, đại phá quân Thanh của Tây Sơn Nguyễn 
Huệ. Sự chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực trong Hoàng Lê nhất thống chí 
chính là sự chiến thắng của nhũng mặt mạnh trong thế giới quan đầy mâu 
thuẫn của nhà văn. Trong lịch sử văn học cũng có những trường hợp tương tự, 
Ban zắc đứng trên lập trường của giai cấp quí tộc nhưng lại ca ngợi những 
chiến sĩ cộng hòa hi sinh trên chiến luỹ, Nguyễn Du nhìn xã hội bằng nhãn 
quan phong kiến nhưng chỉ nhìn thấy bộ mặt xấu xa của nó, đồng thời lại thấy 
rõ nỗi thống khổ của những người dân lao động và đồng cảm với họ 
Điểm khác nhau về nguyên tắc giữa Hoàng Lẻ nhất thống chí và Tam 
quốc diễn nghĩa là việc tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã xây dựng được 
một tác phẩm văn xuôi nghệ thuật về những sự kiện lịch sử, chính trị của chính 
thời đại họ. La Quán Trung xây dựng Tam quốc diễn nghĩa sau khi sự kiện lịch 
sử thời đại Tam phân xảy ra một nghìn năm nên tác phẩm là sự nhìn nhận, đánh 
giá lại lịch sử. Thái độ đánh giá ấy là của La Quán Trung và thời đại La Quán 
Trung. Là tác phẩm viết về lịch sử đương thời nên thái độ đánh giá của tác giả 
Hoàng Lê nhất thống chí ít nhiều phải phù hợp với chính quyền đương thời, 
những lực lượng có quyền quyết định sự lưu hành của tác phẩm. Có thể nói thái 
độ của tác giả trong Hoàng Lê nhất thống chí là một thái độ tôn trọng khách 
quan, tác giả đã chịu sự chi phối mạnh mẽ của tinh thần khoa học, dân tộc và 
bút pháp hiện thực. Việc phản ánh những sự kiện lịch sử trung thực được gắn 
liền với những yếu tố hư cấu, nghệ thuật đã làm nên giá trị của tác phẩm.
2.2.3 Tư tưởng mệnh trời 
Trong Tam quốc diễn nghĩa
Thôi Châu Bình nói với Lưu Bị: "Tướng quân muốn khiến Khổng Minh 
chuyển xoay trời đất, chắp vá càn khôn, tôi e khó lắm, chỉ uổng hơi sức mà thôi.
Ảnh hưởng cửa Tam quốc diễn nghĩa dôi với Hoàng Lê nhất thông chí
21
Ảnh hưởng của Tam cịuôc diễn nghĩa đôi vói Hoàng Lê nhất thông chí
/\Jgu yên x k ị X k u ầ n
Tướng quân chẳng nghe người ta nói: "Thuận trời thì an nhàn, trái trời thì vất vả", 
"số đã định, lí không chống lại được; mệnh đã định, người không cưỡng lại 
được" hay sao?" (1, hồi 37).
Đọc Tam quốc diễn nghĩa, sự hưng vong của những triều đại, những biến 
cố trần gian, sự thành bại của mỗi con người đều có sự quyết định của trời. Tác 
phẩm có sự hiện diện vô hình nhưng rất rõ ràng bởi một quyền năng tuyệt đối 
đó là mệnh trời. Muốn thành công, con người chỉ có cách duy nhất là hành động 
theo ý muốn của trời. Chính vì vậy đoán được điềm trời, hiểu được mệnh trời là 
một phẩm chất không thể thiếu được của người quân tử. Khổng Tử nói: "kẻ nào 
chưa hiểu được mệnh trời thì chưa có thể xem là một người quân tử". Mệnh trời 
được thông qua rất nhiều những biểu hiện kì lạ của tự nhiên như một ngọn gió, 
một tiếng hạc kêu, những giấc mơ, những ngôi sao sa, những bài hát đồng dao 
của trẻ con không ai biết từ đâu tới Tư tướng mệnh trời là một yếu tố chi phối 
mạnh mẽ tư tưởng nghệ thuật của tác giả, nó quyết định việc sắp xếp tổ chức sự 
kiện trong tác phẩm theo một dòng mạch thống nhất.
Mở đầu tác phẩm, La Quán Trung đã đưa ra một loạt những điềm kì lạ 
báo hiệu sự suy vong không thể cưỡng lại của triều đình nhà Hán. Ngày rằm 
tháng tư năm Kiến ninh thứ hai, vua đang ngự điện thì tự nhiên "có cơn gió to 
ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ớ trên xà nhà quăng 
xuống quằn quại trên long án", tháng hai năm Kiến an thứ tư ở tỉnh Lạc Dương 
có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, rồi năm Quang hoá thứ nhất, 
một con gà mái hoá gà trống, rồi một luồng khí đen dài mười trượng bay vào 
điện Ôn Đức, cầu vồng mọc ở giữa Ngọc Đường, rặng núi Ngũ Nguyên bỗng 
dưng lở sụt xuống (1, hồi 1).
Mệnh trời không những qui định sự hưng vong của một triều đại mà còn 
qui định cả số phận của từng con người. Từ "thiên tử" con trời, những vị tướng 
lĩnh đến những con người bình thường đều lệ thuộc số phận vào trời. Trời thụ 
động, nhưng trời lại là tất yếu lịch sử nên sớm hay muộn trời cũng bắt con người 
phải phục tùng theo. Trong quan niệm của La Quán Trung thì sự phát triển của 
lịch sử là quá trình đã được trời qui định từ trước. Nhưng con người trong Tam
22
AJgwyễn xhị xkuần
Ảnh hưởng của Tam CỊUÔC diễn nghĩa đỗi vói Hoàng Lê nhâì thông chí
quốc diễn nghĩa không phải là con người chịu chấp nhận sự an bài của số mệnh. 
Khi cùng Lưu Bị luận bàn về anh hùng, Tào Tháo nói: "anh hùng là người trong 
bụng có chí lớn, mưu cao, có tài bao trùm thiên hạ, có chí lớn nuốt cả trời kia" 
(1, hồi 21). Theo quan điểm của La Quán Trung, Tào Tháo không được trời xác 
lập cái quyền làm vua, Tào Tháo là một kẻ cướp ngôi. Nhờ sức mạnh của ý chí, 
do sự khôn ngoan, hiểu và đánh giá đúng tình hình chính trị, Tào Tháo đã trở 
thành người sáng lập một triều đại. Nhưng con người không sợ trời, luôn đấu 
tranh với số phận, có chí lớn nuốt cả trời kia cũng không thể nào thoát khỏi 
mệnh trời. Thoát nạn ở Hoa Dung lộ, Tào Tháo được trời cứu; chết trong cảnh 
đớn đau quằn quại, Tào Tháo bị trời trừng phạt.
Lưu Bị và Khổng Minh là những con người tiêu biểu cho sự dung hoà 
giữa trời và người. Khổng Minh nói: "mun việc tại người, mưu thành tại trời". 
Có trời nhưng cũng có con người. Con người làm hết sức mình nhưng kết quả 
lại do trời. Đại cuộc đời thì do trời nhưng tiểu cuộc đời thì do con người, con 
người phải vận động mà không được trông chờ vào số mệnh. Lưu Bị là dòng 
dõi nhà Hán. Ông là người được thừa nhận là có thể kế nghiệp nhà Hán nhưng 
sự nghiệp mà ông gây dựng là do chính hai bàn tay ông chứ không phải là sự 
trông chờ của số mệnh. Khổng Minh ở Long Trung đã có quyết sách chia ba 
thiên hạ, nhưng trong quá trình giúp Lưu Bị dựng cơ đồ, Khổng Minh đã có 
những cố gắng không mệt mỏi mưu đồ thống nhất đất nước. Sáu lần xuất quân 
ra Kì Sơn đã chứng minh rõ điều đó. Lần xuất quân thứ 6, ông hiểu đây là lần 
ra đi cuối cùng. Hiểu được vận mệnh của mình, Khổng Minh làm đàn tế xin 
trời cho gia tăng tuổi thọ, nhưng không được. Khổng Minh là người hiểu rõ 
lòng trời, nhưng vẫn cố gắng vươn lên với tất cả trí tuệ và lòng trung thành của 
mình. Lời than trước giờ phút lâm chung: "trời xanh thăm thẳm, giận này biết 
bao giờ nguôi!" (1, tập 3, hồi 104) thể hiện sự nuối tiếc, tuyệt vọng của con 
người trước mệnh trời.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí
Hoàng Lê nhất thống chí viết về lịch sử đương thời nhưng trong tác phẩm 
có sự hiện diện của mệnh trời và biểu hiện của trời cũng được thông qua nhũng
23