Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Khai thác ruộng bậc thang khu vực Mù Cang Chải và vùng phục cận cho phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.4 MB, 169 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
– – –  – – –
HOÀNG MẠNH THẮNG

KHAI THÁC RUỘNG BẬC THANG KHU VỰC
MÙ CANG CHẢI VÀ VÙNG PHỤ CẬN CHO
PHÁT TRIỂN DU LỊCH



LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH




HÀ NỘI, 2011


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
– – –  – – –
HOÀNG MẠNH THẮNG

KHAI THÁC RUỘNG BẬC THANG KHU VỰC MÙ


CANG CHẢI VÀ VÙNG PHỤ CẬN CHO PHÁT
TRIỂN DU LỊCH

Chuyên ngành : Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. PHẠM LÊ THẢO

HÀ NỘI, 2011


3

MỤC LỤC

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………………3
DANH MỤC BẢNG BIỂU……………………………………………………4
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH VÀ
DU LỊCH NÔNG THÔN 16
1.1. Một số khái niệm có liên quan 16
1.1.1. Điểm du lịch 16
1.1.2. Tuyến du lịch 16
1.1.3. Tài nguyên du lịch 16
1.1.4. Ruộng bậc thang 17
1.1.5. Du lịch nông thôn 18
1.2. Những vấn đề chung về du lịch nông thôn 19

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch nông thôn 19
1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu đối với phát triển du lịch nông thôn 23
1.2.2.1. Đặc điểm của du lịch nông thôn 23
1.2.2.2. Yêu cầu đối với triển đối với du lịch nông thôn 26
1.2.3. Ý nghĩa của việc phát triển du lịch nông thôn 27
1.2.4. Điều kiện để phát triển du lịch nông thôn 28
1.2.4.1. Tài nguyên du lịch nông thôn 28
1.2.4.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển du lịch nông thôn 29
1.2.4.3. Nguồn nhân lực du lịch nông thôn 29
1.2.4.4. Cơ chế chính sách cho phát triển du lịch nông thôn 30
1.3. Kinh nghiệm khai thác du lịch nông thôn trên thế giới và tại Việt Nam 31
1.3.1. Tại Banaue, Ifugao, Philipine 31
1.3.2. Tại Nguyên Dương, Hồng Hà, Trung Quốc 35
1.3.3. Tại Sa Pa, Việt Nam 40
1.3.4. Những kinh nghiệm có thể rút ra từ những bài học trên ………………….40

Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN, THỰC TRẠNG KHAI THÁC RUỘNG
BẬC THANG Ở MÙ CANG CHẢI VÀ PHỤ CẬN TRONG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH 45
2.1. Điều kiện phát triển du lịch tại Mù Cang Chải và vùng phụ cận 45
2.1.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử tộc người và văn hóa
tộc người 45
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử tộc người và văn hóa tộc người khu vực
Mù Cang Chải 45
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử tộc người và văn hóa tộc người vùng
phụ cận (Tú Lệ) 56


4
2.1.2. Hệ thống Ruộng bậc thang Mù Cang Chải và vùng phụ cận 59

2.1.2.1. Hệ thống ruộng bậc thang Mù Cang Chải và một số nghi thức liên quan . 60
2.1.2.2. Ruộng bậc thang khu vực Tú Lệ và các nghi thức có liên quan 73
2.2. Thực trạng phát triển du lịch và khai thác ruộng bậc thang tại Mù Cang
Chải trong phát triển du lịch 78
2.2.1. Thực trạng chung về phát triển du lịch tại Mù Cang Chải và vùng phụ cận . 78
2.2.1.1. Khả năng tiếp cận và cơ sở hạ tầng kỹ thuật 78
2.2.1.2. Cơ sở lưu trú du lịch 84
2.2.1.3. Dịch vụ ăn uống 88
2.2.1.4. Dịch vụ giải trí 90
2.2.1.5. Nguồn nhân lực du lịch 90
2.2.1.6. Lượng khách du lịch 92
2.2.1.7. Nguồn thu từ Du lịch 95
2.2.2. Thực trạng khai thác ruộng bậc thang Mù Cang Chải và vùng phụ cận cho
phát triển du lịch 96
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP KHAI THÁC RUỘNG
BẬC THANG Ở MÙ CANG CHẢI VÀ PHỤ CẬN PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH 102
3.1. Định hƣớng phát triển du lịch 102
3.2. Một số giải pháp thực hiện 103
3.2.1. Các giải pháp chung 103
3.2.1.1. Phát triển hệ thống giao thông 104
3.2.1.2. Phát triển các cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác 105
3.2.2. Các giải pháp cụ thể 107
3.2.2.1. Giải pháp về quy hoạch phát triển du lịch 107
3.2.2.2. Phát triển nguồn nhân lực du lịch 109
3.2.2.3 Phát triển hệ thống cơ sở lưu trú 111
3.2.2.4. Phát triển các sản phẩm dịch vụ đặc thù 112
3.2.2.5. Tăng cường xúc tiến quảng bá và phát triển thị trường khách du lịch 119
3.2.2.6. Tăng cường liên kết với các tỉnh lân cận và các hãng lữ hành 120
3.2.2.7. Thu hút tối đa nguồn lực để đầu tư phát triển 122

3.2.2.8. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các qui định về bảo vệ tài nguyên và
môi trường 122
3.3. Một số kiến nghị 125
3.3.1. Kiến nghị với các cơ quan quản lý trung ương và địa phương 125
3.3.2. Kiến nghị với tỉnh Yên Bái, Sở Văn hoá- Thể thao-Du lịch Yên Bái 127
3.3.3. Kiến nghị với chính quyền địa phương và cộng đồng địa phương 128
3.3.4. Kiến nghị với các công ty du lịch 130
3.3.5. Kiến nghị đối với du khách 130
KẾT LUẬN 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO 134
PHỤ LỤC 139


5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

UBND: Ủy ban Nhân dân
SNV (Nethelands Development Organisation): Tổ chức Phát triển
Hà Lan
QH: Quốc hội
CHXHCNVN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam




6
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
Bảng
Nội dung bảng

Trang
1
Bảng 2.1
Tổng hợp khí tượng thủy văn của Trạm Mù Cang
Chải (2009)
47
2
Bảng 2.2
Diện tích ruộng bậc thang của ba xã năm 2007
63
3
Bảng 2.3
Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ du lịch của các
huyện trong tỉnh Yên Bái
84
4
Bảng 2.4
Danh sách các cơ sở lưu trú tại Mù Cang Chải
qua khảo sát thực tế năm 2011
85
5
Bảng 2.5
Danh sách các nhà nghỉ tại Tú Lệ theo khảo sát
thực tế 2010 & 2011
86
6
Bảng 2.6
Danh sách các nhà hàng tại Mù Cang Chải 2011
theo khảo sát thực tế 2010 & 2011
87

7
Bảng 2.7
Thực trạng cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức Phòng Văn hoá và Thông tin, Trung
tâm Văn hoá, Thể thao & Du lịch tỉnh Yên Bái
89
8
Bảng 2.8.
Lượng khách du lịch đến Mù Cang Chải trong các
năm 2009, 2010 và 2011
93
9
Bảng 2.9
Doanh thu từ du lịch phân theo các huyện của
tỉnh Yên Bái
94
10
Bảng
2.10
Thực trạng các điểm du lịch của huyện Mù Cang
Chải
95


7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ruộng bậc thang Tây Bắc nói chung và khu vực Mù Cang Chải
nói riêng không chỉ là nguồn sinh kế cơ bản của đồng bào nơi đây mà
còn là cảnh quan nông nghiệp kỳ vĩ, có tiềm năng lớn cho phát triển du

lịch Tây Bắc, nhất là du lịch nông thôn miền núi. Với một vai trò quan
trọng trong đời sống vật chất cũng như đời sống văn hóa tinh thần của
đồng bào người Mông cùng với vẻ đẹp kỳ thú của nó, ruộng bậc thang
Mù Cang Chải đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là
di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 10/QĐ-BVTTDL ngày 17
tháng 10 năm 2007 [17] và trở thành di sản văn hóa ruộng bậc thang
đầu tiên tại Việt Nam.
Ruộng bậc thang không chỉ có ở Việt Nam mà còn có ở một số
nơi khác trên thế giới như ở Trung Quốc, Philipines, Indonesia,
Thailand và Nepan,… trong đó ruộng bậc thang của người Ifugao –
Banaue, Philipines (được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế
giới năm 1995) đã gắn liền với hoạt động du lịch tại đây trong nhiều
thập kỷ qua [41] và ngày nay nó đã trở thành một điểm đến nổi tiếng
của Philipines. Tại Nguyên Dương, Trung Quốc hệ thống ruộng bậc
thang khu vực này cũng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
thế giới năm 2008 và đã trở thành một điểm đến nổi tiếng đối với rất
nhiều du khách trên thế giới, nhất là đối với những du khách đam mê
nhiếp ảnh.
Tại Việt Nam, ruộng bậc thang Sapa đã gắn với hoạt động du
lịch nông nghiệp và du lịch cộng đồng trong mấy năm gần đây, đặc biệt
nơi đây còn nhận được sự tài trợ của Hội nông dân Hà Lan trong
chương trình phát triển du lịch cộng đồng cho đồng bào các dân tộc
thiểu số và bước đầu đã đem lại những thành công nhất định. Ngoài ra,
ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang cũng đã trở thành một bộ


8
phận không tách rời với hoạt động du lịch từ nhiều năm qua và đã trở
thành một điểm đến hấp dẫn đối với nhiều du khách trong và ngoài
nước, đặc biệt vào ngày 01 tháng 11 năm 2011 ruộng bậc thang Hoàng

Su Phì cũng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là
danh thắng cấp quốc gia.
Ruộng bậc thang Mù Cang Chải và Tú Lệ không chỉ là một danh
thắng có sức hấp dẫn đối với du khách bởi những cảnh quan hùng vĩ
mà ẩn trong đó là những giá trị văn hóa độc đáo của những người sáng
tạo ra chúng. Ngoài ra, những sản vật được canh tác theo hình thức này
không chỉ có vai trò an ninh lương thực cho đồng bào nơi đây mà
chúng có thể trở thành những món ăn đặc sản đối với du khách, trong
đó có thể kể đến gạo nếp Tan Lả của Tú Lệ đã nổi tiếng nhiều năm qua
và đã trở thành món ăn được nhiều du khách rất yêu thích. Khai thác
những vẻ đẹp cảnh quan đầy quyến rũ và kỳ thú của ruộng bậc thang,
những nghi thức, những nét văn hóa tiêu biểu gắn liền với hình thức
canh tác này và những sản vật được tạo ra theo hình thức canh tác đó
của cư dân bản địa cho phát triển du lịch không những làm đa dạng hóa
cho các sản phẩm du lịch của tỉnh Yên Bái, đáp ứng nhu cầu trải
nghiệm của du khách mà còn góp phần vào công cuộc xây dựng nông
thôn mới và giảm nghèo cho người dân bản xứ, đồng thời góp phần vào
việc bảo tồn những giá trị văn hóa và cảnh quan khu vực này.
Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây đã có một số hãng lữ
hành khai thác các chương trình du lịch bao gồm các điểm đến này, đặc
biệt “Chương trình du lịch về nguồn” trong khuôn khổ hợp tác của ba
tỉnh Phú Thọ, Lào Cai và Yên Bái cũng bao gồm hành trình khám phá
ruộng bậc thang của Mù Cang Chải và Sa Pa. Trong khuôn khổ hợp tác
đó, năm 2010, “Tuần văn hóa, thể thao và du lịch” đã được tổ chức tại
khu danh thắng ruộng bậc thang Mù Cang Chải và đã thu hút nhiều du
khách trong và ngoài nước đến tham quan. Tuy nhiên, việc phát triển
du lịch ở những nơi này hiện nay vẫn trong tình trạng nhỏ lẻ và tự phát,


9

chưa có kế hoạch cụ thể, lâu dài và các di tích chưa đươc quy hoạch bài
bản cho phát triển du lịch. Bên cạnh đó, cho đến nay chưa có công trình
nghiên cứu sâu nào về việc khai thác các giá trị cảnh quan nông nghiệp
nơi đây cũng như các giá trị văn hóa bản địa tiêu biểu gắn liền với hình
thức canh tác này phục vụ cho phát triển du lịch. Đề tài “Khai thác
Ruộng bậc thang khu vực Mù Cang Chải và vùng phụ cận cho phát
triển du lịch” được đưa vào nghiên cứu với mong muốn đóng góp một
phần nhỏ trong việc khai thác hợp lý nguồn tài nguyên nhân văn vô giá
này phục vụ phát triển du lịch tỉnh Yên Bái nói riêng và du lịch Việt
Nam nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch trên địa bàn
nghiên cứu.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề về du lịch nói chung và du lịch
nông thôn nói riêng, các đặc điểm của du lịch nông thôn và điều kiện
để phát triển du lịch nông thôn, tìm hiểu về di sản văn hóa ruộng bậc
thang khu vực Mù Cang Chải và vùng phụ cận, đồng thời nghiên cứu
những bài học trong nước và quốc tế về phát triển du lịch trên cơ sở
khai thác các giá trị của di sản văn hóa này cho phát triển du lịch;
- Phân tích những tiềm năng, lợi thế của khu vực Mù Cang Chải
và vùng phụ cận, trong đó tập trung phân tích giá trị của hệ thống cảnh
quan nông nghiệp ruộng bậc thang, các nghi thức gắn liền với hình
thức canh tác nông nghiệp này, những thuận lợi và khó khăn của khu
vực Mù Cang Chải và vùng phụ cận trong phát triển du lịch;
- Phân tích thực trạng chung về phát triển du lịch và thực trạng
khai thác ruộng bậc thang cho phát triển du lịch tại Mù Cang Chải và
vùng phụ cận;



10
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác một cách hợp lý giá
trị của ruộng bậc thang khu vực Mù Cang Chải và vùng phụ cận cho
phát triển du lịch.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các tài nguyên du lịch, trong đó tập
trung vào hệ thống ruộng bậc thang tại khu vực Mù Cang Chải và phụ
cận (Tú Lệ) và các nghi thức gắn với loại hình canh tác này; các sản
phẩm du lịch và hình thức du lịch có liên quan.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu: Không gian nghiên cứu thuộc
địa bàn huyện Mù Cang Chải, tập trung vào các xã có hệ thống ruộng
bậc thang đã được công nhận là danh thắng cấp quốc gia là La Pán Tẩn,
Dế Su Phình, Chế Cu Nhan và địa bàn xã Tú Lệ thuộc huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái.
Thời gian nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu là giai đoạn 2007 -
2011 kể từ khi Ruộng bậc thang Mù Cang Chải được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch công nhận là danh thắng cấp quốc gia.
Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Đề tài sử dụng một số tài liệu về du
lịch, du lịch nông thôn và ruộng bậc thang, trong đó có cả tài liệu tiếng
nước ngoài, các thông tin lựa chọn trên các website và các tạp chí, báo
điện tử có liên quan.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi
khai thác di sản văn hóa ruộng bậc thang cho phát triển du lịch nông
thôn. Các hướng nghiên cứu tiếp theo có thể là khai thác cả tài nguyên
tự nhiên và tài nguyên nhân văn khu vực này cho phát triển du lịch
hoặc các loại hình du lịch đặc thù như du lịch nghiên cứu, du lịch khám
phá, du lịch chụp ảnh v.v…



11
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tài liệu: Thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp từ các kết quả
nghiên cứu, sách báo, tạp chí, các trang web điện tử, các tài liệu, báo
cáo của cơ quan quản lý du lịch và chính quyền địa phương, tiến hành
tổng hợp và phân tích các số liệu đã thu thập được;
- Phương pháp phỏng vấn: tiến hành phỏng vấn một số cán bộ chuyên
trách du lịch thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Yên Bái, một
số cán bộ Phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch huyện Mù Cang Chải,
cán bộ và người dân địa phương và du khách, trong đó tiêu biểu là các
cuộc trao đổi và phỏng vấn với các ông Tạ Xuân Hiếu - Giám đốc Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Yên Bái, ông Giàng A Tông - Chủ
tịch UBND huyện Mù Cang Chải, ông Lê Ngọc Minh - Trưởng Phòng
Văn hóa- thông tin huyện Mù Cang Chải, ông Sầm Văn Mới – Chủ tịch
UBND xã Tú Lệ (huyện Văn Chấn) v.v
- Phương pháp khảo sát thực địa: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả
đã tiến hành 04 chuyến đi khảo sát thực địa để thu thập thông tin.
Chuyến đi thứ nhất được tiến hành vào các ngày 26 – 30 tháng 9 năm
2010 với cung đường Hà Nội – Nghĩa Lộ - Tú Lệ - Mù Cang Chải –
Than Uyên – Sa Pa – Lào Cai – Hà Nội. Đây là thời điểm lúa trên các
thửa ruộng bậc thang Tây Bắc đang chín rộ, đặc biệt khu vực Mù Cang
Chải. Tại khu vực Tú Lệ, tác giả đã tham quan, khảo sát các bản Pom
Ban, Nước Nong, bản Chao, bản Côm, bản Phạ Trên, bản Phạ Dưới của
người Thái, bản Khau Thán (của người Mông). Tại Mù Cang Chải, tác
giả đã đi khảo sát các xã Khau Phạ (khu vực Đèo Khau Phạ), xã La Pán
Tẩn, xã Dế Su Phình, xã Chế Cu Nha, là những xã có hệ thống ruộng
bậc thang được công nhận là danh thắng cấp quốc gia và các khu vực
thuộc thị trấn Mù Cang Chải, xã Kim Nọi v.v Đặc biệt, trong chuyến

đi này, tác giả đã có cơ hội được tham dự Tuần lễ văn hóa, thể thao và
du lịch tại khu Danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải
thuộc “Chương trình du lịch về nguồn” trong khuôn khổ hợp tác của ba


12
tỉnh Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai, tham dự các sự kiện văn hóa thể
thao, hành trình tìm hiểu quá trình khai khẩn và canh tác ruộng bậc
thang, lễ hội mừng cơm mới, tham quan hội chợ thương mại v.v Tác
giả cũng gặp gỡ và trao đổi với các ông Tạ Xuân Hiếu – Giám đốc Sở
Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Yên Bái; ông Nguyễn Quốc Hoàn –
Trưởng Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Yên Bái, một số người
dân địa phương và du khách, các nhà báo và các nhà làm truyền hình.
Chuyến đi này đã giúp tác giả có cái nhìn tổng quát về hệ thống ruộng
bậc thang khu vực Mù Cang Chải và vùng phụ cận, tình hình hoạt động
du lịch tại khu vực nghiên cứu cũng như tại Sa Pa, tạo cơ sở cho việc
lập đề cương chi tiết của đề tài nghiên cứu. Chuyến đi thứ hai được tiến
hành vào các ngày từ 29 tháng 4 đến ngày 02 tháng 5 năm 2011 theo
tuyến Hà Nội – Tú Lệ - Mù Cang Chải. Đây là thời điểm mà lúa ở Tú
Lệ đang vào “thì con gái” của vụ chiêm. Còn ở Mù Cang Chải là thời
điểm bắt đầu lấy nước về ruộng để làm đất. Chuyến đi đã đem lại cho
tác giả những nhìn nhận mới về vẻ đẹp của ruộng bậc thang vào mùa
nước đổ, tình hình hoạt động du lịch vào thời điểm này. Trong chuyến
đi này, tác giả cũng đã có các cuộc gặp với ông Sầm Văn Mới – Phó
Chủ tịch UBND xã Tú Lệ, ông Lê Ngọc Minh – Trưởng Phòng văn hóa
thông tin huyện Mù Cang Chải, thu thập thêm các thông tin về cơ sở
lưu trú, nhà hàng, lượng khách và các dịch vụ khác. Chuyến đi thứ ba
được thực hiện vào các ngày 22, 23, 24 tháng 7 năm 2011 cũng theo
tuyến Hà Nội – Tú Lệ - Mù Cang Chải. Thời điểm này lúa ở Mù Cang
Chải đang lên xanh, mang một vẻ đẹp riêng của “thì con gái” hòa cùng

màu xanh của núi rừng. Chuyến đi nhằm mục đích thu thập thêm thông
tin để bổ sung cho luận văn. Chuyến đi thứ 4 được thực hiện vào các
ngày 23, 24, 25, 26, 27 tháng 9 năm 2011 theo lộ trình Hà Nội – Nghĩa
Lộ - Tú Lệ - Mù Cang Chải – Than Uyên – Ô Quý Hồ - Sa Pa – Lào
Cai – Hà Nội. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cuộc gặp với ông
Giàng A Tông – Chủ tịch UBND huyện Mù Cang Chải, ông Hà Hải
Sơn – Phó chánh văn phòng UBND huyện Mù Cang Chải và tham dự


13
cuộc họp báo của UBND huyện với các Nhà báo từ Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh ngày 23 tháng 9. Chuyến đi đã giúp tác giả củng cố
thêm kiến thức thực tế và có được nhiều thông tin bổ ích để bổ sung và
hoàn thiện luận văn.
- Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến các nhà quản lý du lịch
địa phương, một số chuyên gia của Tổng cục Du lịch, các nhà điều
hành du lịch và một số chuyên gia trong ngành.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, việc khai thác ruộng bậc thang phục vụ phát du
lịch đã diễn ra trong nhiều thập kỷ qua. Các công trình nghiên cứu
ruộng bậc thang trên thế giới liên quan đến hoạt động du lịch tiêu biểu
có thể kể đến Báo cáo của UNCESCO Bangkok năm 2008 [41], trong
đó có nói về thực trạng phát triển du lịch cũng như những mối đe dọa
đối với di sản văn hóa thế giới ruộng bậc thang nơi đây mà trong đó du
lịch là một trong những nguyên nhân chính gây xáo trộn các tập quán
xã hội và canh tác tại khu vực này. Ngoài ra có thể kể đến công tình
mang tên “Xây dựng cơ chế tài chính bền vững cho việc bảo tồn ruộng
bậc thang Ifugao” của Margaret M. Calderon và cộng sự năm 2008
[36], v.v…Đặc biệt phải kể đến công trình của Yu Gao và cộng sự năm
2007: Vai trò của Du lịch trong phát triển bền vững – Nghiên cứu

trường hợp ở Nguyên Dương, Trung Quốc – báo cáo được thuyết trình
tại Hội nghị Quốc tế thường niên về nghiên cứu Phát triển bền vững,
Vasteras, Sweden từ ngày 9 – 12 tháng 6 năm 2007 [42]. Công trình
này cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống trong đó có di sản văn hóa ruộng bậc thang và phát triển
du lịch tại bản Thanh Khẩu, Nguyên Dương – Trung Quốc và là bài
học quý giá cho phát triển du lịch tại Mù Cang Chải và phụ cận.
Tại Việt nam, đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chưa
công trình nào đi sâu vào vấn đề khai thác loại hình cảnh quan nông
nghiệp này phục vụ cho phát triển du lịch, vẫn chủ yếu là các bài viết


14
trên báo giới thiệu về vẻ đẹp của ruộng bậc thang khu vực Tây Bắc chứ
chưa thấy có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào liên quan đến việc
khai thác các giá trị của ruộng bậc thang cho phát triển du lịch. Trong
các công trình có đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
và cảnh quan ruộng bậc thang trong phát triển du lịch có thể kể đến Hồ
sơ di tích khu Danh thắng Ruộng bậc thang Mù Cang Chải của Nguyễn
Kim Lê thuộc Bảo tàng Yên Bái lập năm 2007 [7]. Hiện nay Ban Quản
lý di tích và danh thắng thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Yên
Bái đang tiến hành lập đề cương quy hoạch Khu danh thắng Ruộng bậc
thang Mù Cang Chải. Bản đề cương đã được trình lên Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch để xin ý kiến phê duyệt và triển khai. Ngoài ra, gần đây
có thể kể đến công trình của Nguyễn Trường Giang với tiêu đề “Ruộng
bậc thang ở Việt Nam – Những lợi thế, vấn đề bảo tồn và phát triển bền
vững’, có để cập đến vấn đề khai thác nguồn tài nguyên này cho phát
triển bền vững trong đó có đề cập đến vấn đề khai thác ruộng bậc thang
phục vụ phát triển du lịch [3].
Đối với du lịch nông thôn, có thể nói loại hình du lịch này đã

phát triển từ nhiều thập kỷ qua trên thế giới. Trong các công trình về
vấn đề này có thể kể đến các công trình như “Rural tourism policy”
(Chính sách du lịch nông thôn) của Beeton S., [30], “Tourism and
recreation in rural areas” (Du lịch và giải trí tại các khu vực nông thôn)
của Butler R., Hall M., Jenkins J., [31], “Rural tourism in Australia”
(Du lịch nông thôn ở Australia) của O’Halloran [34], “The Business of
Rural Tourism” (Kinh doanh Du lịch nông thôn) của Page J., Getz D.,
[37], “Conflict and practise in rural tourism” của Winter M., [43],
“Environmental management for rural tourism and recreation” (Quản
lý môi trường đối với hoạt động giải trí và du lịch nông thôn) của Tribe
J., et al [40], v.v
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây loại hình du lịch nông
thôn cũng đã được quan tâm nghiên cứu và phát triển. Trong số các


15
công trình về lĩnh vực này có thể kể đến công trình “Khảo sát tiềm
năng và đề xuất giải pháp phát triển loại hình du lịch nông thôn bền
vững cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” của Bùi Thị Lan Hương
[5], một số bài nghiên cứu đăng trên các báo và tạp chí như bài viết của
Bùi Xuân Nhàn đăng trên Tạp chí cộng sản số 9 tháng 9 năm 2009 với
tiêu đề “Phát triển du lịch nông thôn ở nước ta hiện nay” [11], “Khai
thác du lịch nông thôn: Sự gắn kết lỏng lẻo” của Nguyễn Tố [22]…. Và
mới đây, được sự hỗ trợ của Tổ chức Năng suất Châu Á, từ ngày 23-
24/5/2011 tại thành phố Đà Lạt, Trung tâm Năng suất Việt Nam đã
phối hợp với Đại học Nông lâm TP. Hồ chí Minh và Đại học Yersin Đà
Lạt tổ chức “Hội thảo tập huấn về Phát triển du lịch nông thôn tại Việt
Nam" với sự tham dự của hơn 60 đại biểu đến từ các Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Khoa Du
lịch, các trường đại học và các Công ty Du lịch tại khu vực phía nam

[57]. Điều này cho thấy du lịch nông thôn đang dần được quan tâm
rộng rãi tại Việt Nam và trong tương lai có thể sẽ trở thành loại hình du
lịch chủ chốt trong công cuộc phát triển nông thôn, nhất là nông thôn
miền núi.
5. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm ba phần, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần
nội dung được chia thành ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch và du lịch nông
thôn.
Chƣơng 2: Điều kiện, thực trạng khai thác ruộng bậc thang Mù
Cang Chải và vùng Phụ cận trong phát triển du lịch.
Chƣơng 3: Định hƣớng, giải pháp khai thác ruộng bậc thang ở Mù
Cang Chải và phụ cận phục vụ phát triển du lịch


16
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH VÀ
DU LỊCH NÔNG THÔN

1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Điểm du lịch
Theo luật du lịch thì điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch
hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. [14, tr.2].
1.1.2. Tuyến du lịch
Theo Luật Du lịch 2005, tuyến du lịch được hiểu là “lộ trình liên
kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn
với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng
không.” [14, tr.2].
1.1.3. Tài nguyên du lịch
Theo Luật du lịch 2005 thì “Tài nguyên du lịch là cảnh quan

thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao
động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được
sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành
các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.” [14, tr.2].
Thông thường, tài nguyên du lịch được chia thành hai loại, đó là
tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố như địa lý, địa
hình, khí hậu, thủy văn,…tạo nên các cảnh quan tự nhiên có sức hấp
dẫn đối với du khách.
Tài nguyên nhân văn được hiểu là những tài nguyên do con
người tạo nên. Theo các chuyên gia trong ngành, tài nguyên du lịch
nhân văn bao gồm các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị
và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một


17
điểm, một vùng hoặc một đất nước. Chúng có sức hấp dẫn đặc biệt với
số đông du khách du lịch với nhiều nhu cầu và mục đích khác nhau của
chuyến du lịch [19; tr.107].
1.1.4. Ruộng bậc thang
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, Ruộng bậc thang là những
thửa ruộng được san lấp thành các vạt đất có cùng độ dốc theo đường
đồng mức, tiếp nối nhau từ trên xuống theo kiểu bậc thang [59].
Đối với người Mông ở Mù Cang Chải, ruộng bậc thang được gọi
là “Làn Đáy”. Từ “Làn đáy” trong tiếng Mông có nghĩa là “bậc thang”.
Ruộng bậc thang được phân thành các loại ruộng bậc thang khác
nhau dựa vào hệ thống thủy lợi và độ cao của ruộng.
Đối với ruộng bậc thang có hệ thống thủy lợi thuận tiện, có hệ thống
mương máng dẫn nước bao quanh có thể canh tác liên tục, được gọi là
ruộng bậc thang thâm canh (2 vụ). Những thửa ruộng loại này thông

thường xuất hiện tại các địa hình như thung lũng có độ dốc hay tại dọc
theo những con suối có nước chảy quanh năm.
Ngoài ra, ruộng bậc thang còn được chia theo độ cao, từ khoảng 30
0

trở lên là ruộng bậc thang cao, loại ruộng này chủ yếu phân bố trên các
địa hình đất dốc như trên sườn núi, sườn đối; ruộng bậc thang có độ
dốc từ 30
0
trở xuống được coi là ruộng bậc thang thấp, loại ruộng này
thường phân bố tại các thung lũng có độ dốc thấp [7].
Ruộng bậc thang của các tộc người còn được coi như một bảo
tàng sống của nền văn minh nông nghiệp lúa nước tại các khu vực miền
núi. Với hang loạt các địa hình từ vùng thấp, vùng giữa đến vùng cao là
các thay đổi về cảnh quan văn hóa, đó là ruộng bậc thang cao ở Mù
Cang Chải (Yên Bái), Hoàng Su Phì (Hà Giang), vùng giữa như Thanh
Kim, Thanh Phú (Sa Pa, Lào Cai) đến các ruộng có độ dốc tương đối
thấp như ruộng bậc thang tại thung lũng Mường Hoa (Tả Van, Lao
Chải), Tả Phìn [3] và khu vực Tú Lệ (Văn Chấn, Yên Bái).


18
Có thể nói ruộng bậc thang là một hình thức canh tác nông
nghiệp độc đáo và đầy sáng tạo của con người, nhất là các dân tộc thiểu
số sống tại các khu vực miền núi. Ruộng bậc thang đã khắc phục bất lợi
về độ dốc của địa hình, tạo ra các thửa ruộng có cùng độ dốc
theo đường đồng mức, tiếp nối nhau từ trên xuống rất thuận lợi cho
việc canh tác. Sự độc đáo còn ở chỗ người ta có thể áp dụng canh tác
lúa nước trên những thửa ruộng này để nâng cao năng suất trồng trọt.
Với nhiều cộng đồng nông thôn miền núi, trong đó có các cộng đồng

dân tộc thiểu số tại Việt Nam như khu vực Tây Bắc, ruộng bậc thang là
một nguồn sinh kế rất quan trọng, cung cấp nguồn lực thực chính cho
họ khi mà địa hình nơi đây có độ dốc cao, không có những khu vực
bằng phẳng để canh tác như các khu vực đồng bằng.
1.1.5. Du lịch nông thôn
Cho đến nay có nhiều cách hiểu về du lịch nông thôn, và mỗi
nhà nghiên cứu đều có cách nhìn nhận riêng của mình về du lịch nông
thôn.
Theo Recharb Buck, du lịch nông thôn là hoạt động rời khỏi môi
trường đô thị và đi đến những vùng nông thôn vì mục đích trải nghiệm
và thưởng ngoạn vẻ đẹp tự nhiên, sự đa dạng về nông nghiệp, vẻ cổ
kính của những thị trấn nhỏ, những nét văn hóa giàu bản sắc; và để
“chạy trốn” khỏi những áp lực của những lối sống đô thị để có được
những trải nghiệm thú vị và nâng cao chất lượng cuộc sống [39].
Còn theo Kotas E.Sillignakis, du lịch nông thôn là một hoạt động
nhiều mặt diễn ra tại môi trường bên ngoài khu vực đô thị. Đó là một
loại hình du lịch có quy mô nhỏ, diễn ra tại các khu vực nơi mà đất đai
chủ yếu được sử dụng cho các hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp hay
tại các khu vực nông thôn những nét văn hóa độc đáo, cảnh quan tự
nhiên đẹp [33].


19
Ở Việt Nam, du lịch nông thôn lại được gọ i theo nhiều cách
khác nhau, chẳng hạn như “Du lịch trang trạ i” ,“Du lịch nông trạ i” , “Du
lịch nông nghiệp” , “Du lịch đổ ng quê” , “Du lịch miệ t vườ n” , “Du lịch
sông nướ c” , “Du lịch là ng bả n” ,“Du lịch sinh thá i” [10]. Mỗ i tên gọ i
đều phản ánh yếu tố cốt li để tạo ra đặc trưng của từng thể loại du lịch
trong loạ i hình du lịch nông thôn .
Theo Nguyễn Văn Mạnh, du lịch nông thôn là m ột tậ p hợ p thể

loại du lịch, dự a trên sự khá c biệ t củ a tà i nguyên thiên nhiên , nhân văn,
sự kiệ n và sả n vậ t củ a nông thôn để thu hú t khá ch . Sản phẩm du lịch
nông thôn = Sự khá c biệ t của tài nguyên ở là ng quê + Dịch vụ ở là ng
quê + Sản vật của làng quê [10].
Từ những quan niệm trên có thể thấy, du lịch nông thôn là loại
hình du lịch diễn ra tại các khu vực nông thôn nơi chủ yếu có các hoạt
động nông nghiệp. Du khách có thể đến các khu vực này trải nghiệm và
thưởng ngoạn vẻ đẹp tự nhiên, những nét đẹp về văn hóa hay là để giải
tỏa những áp lực của công việc, lối sống đô thị. Sản phẩm của du lịch
nông thôn chính bao gồm tài nguyên du lịch hấp dẫn, dịch vụ và sản
vậ t củ a là ng quê.
1.2. Những vấn đề chung về du lịch nông thôn
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch nông thôn
Những năm gần đây, loại hình du lịch nông thôn đã được nhắc
đến tại Việt Nam và ở một số nơi cũng bắt đầu xuất hiện loại hình du
lịch này. Khái niệm du lịch nông thôn đã xuất hiện cùng với sự hình
thành của ngành đường sắt ở châu Âu. Tuy nhiên, cho mãi đến những
năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới được coi là
một loại hình du lịch và phổ biến ở nhiều quốc gia ở châu Âu như
Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển Khi đó,
khái niệm du lịch nông thôn được quan niệm tương đồng với các loại
hình du lịch ở nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở


20
nông thôn Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia phát triển
và quốc gia đang phát triển là ở chỗ: tại các quốc gia đang phát triển,
người ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hóa thu nhập từ nông
nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của
cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống và bảo vệ

môi trường. Vì vậy, du lịch nông thôn ở các nước này phát triển theo
chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại
phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông
thôn ngày càng bị thu hẹp lại như là kết quả của công cuộc công nghiệp
hóa [11].
Tại Pháp, Bộ Du lịch nước này đã có chủ trương phát triển đa
dạng hóa các loại hình du lịch như du lịch bãi biển và du lịch nông thôn
để thu hút du khách nước ngoài. Trong thời gian tới, tại Pháp có
khoảng 300 điểm ở các vùng nông thôn sẽ được lựa chọn để thực hiện
các dự án lắp đặt các thiết bị, phát triển các phương tiện giao thông
công cộng nhằm thu hút khách du lịch quốc tế.
Còn tại Trung Quốc, từ năm 1990, Chính phủ nước này đã thực
hiện một chương trình du lịch nông thôn nhằm mục đích chống đói
nghèo tại một số tỉnh như Vân Nam, Quảng Đông, trong đó có khu vực
Nguyên Dương thuộc Châu Hồng Hà của tỉnh Vân Nam đã khai thác
hiệu quả danh thắng ruộng bậc thang cho phát triển du lịch nông thôn
Ở Nhật Bản, từ năm 1995, Bộ Nông Lâm Thủy sản nước này đã
xây dựng chương trình “nhà nghỉ nông thôn” khắp trên cả nước. Các
nhà nghỉ nông thôn này chủ yếu do các hộ nông dân quản lý trực tiếp
hoặc được xây dựng tại các trang trại. Tại đây, du khách được phục vụ
các dịch vụ ăn nghỉ hoặc tham gia các hoạt động hằng ngày cùng với
người dân bản địa như trồng trọt, gặt hái, câu cá
Ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn bắt đầu vào năm 1984 từ một dự
án của chính phủ nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Nhiều làng quê
Hàn Quốc trước đây vốn nghèo nàn, nhờ chương trình này mà bộ mặt
đã thay đổi hẳn, thu nhập của nông dân tăng lên đáng kể.


21
Ở Thái Lan, từ lâu chính phủ đã có chính sách khuyến khích đầu

tư phát triển du lịch nông thôn theo mô hình các trang trại hoặc các khu
làng khép kín, có đầy đủ các dịch vụ phục vụ du khách. Từ năm 1997,
du lịch nông thôn đã phát triển khá nhanh, thu hút nhiều du khách nội
địa và quốc tế.
Ngoài ra, du lịch nông thôn còn có ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới như Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ca-na-đa, Lat-vi-a, Tây Ban Nha, In-đô-
nê-xi-a, Nê-pan, Ấn Độ Đáng chú ý là Anh, Pháp, Đức và Áo là
những quốc gia thống trị thị trường du lịch nông thôn toàn cầu với hàng
ngàn doanh nghiệp kinh doanh loại hình du lịch này ở mỗi nước.
Do những điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên khác nhau, nên hình
thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh
thổ. Chẳng hạn, ở Ô-xtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu dựa vào các
trang trại lớn; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là du lịch dựa vào
cộng đồng với các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn; ở Hàn Quốc, du
lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại quy mô nhỏ tại các khu
vực nông thôn; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm
sở thích của cộng đồng; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có
nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng. Phát
triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi
trường; giảm nghèo thông qua phát triển kinh kế nông thôn, phát triển
các ngành, nghề thủ công truyền thống; giúp phát triển du lịch sinh thái
và các loại hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ
năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và sử dụng sản phẩm địa
phương, giúp phát triển nông nghiệp sinh thái [11].
Ở nước ta cho đến nay, khái niệm du lịch nông thôn vẫn chưa
được nhắc tới một cách chính thức trong các văn bản pháp lý, mặc dù
nước ta có tiềm năng lớn để phát triển du lịch nông thôn. Hiện chỉ thấy
xuất hiện chủ chương phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp nông
thôn trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030 đang trình Thủ tướng Phê duyệt. Phong cảnh thiên nhiên



22
đẹp, địa hình đa dạng gồm núi đồi, sông suối, biển đảo, hang động, hệ
động và thực vật phong phú, vùng nông thôn với những làng quê cổ
kính vùng Bắc Bộ, những nét văn hóa truyền thống đặc sắc, những
vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời với nhiều di tích lịch sử và
truyền thống văn hóa tập tục của người xưa, hay những vùng nông thôn
miền núi nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống với nhiều nét văn
hóa còn nguyên sơ và đặc sắc là những tài nguyên du lịch tiềm năng
để phát triển du lịch nông thôn. Những năm gần đây, các khu vực nông
thôn miền núi nơi mà ảnh hưởng của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
chưa nhiều cùng với địa hình đa dạng và những nét văn hóa dân tộc độc
đáo đang ngày càng thu hút cả khách du lịch nội địa và quốc tế.
Trong khuôn khổ hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ
Hà Lan, nhằm góp phần xóa đói, giảm nghèo cho người dân vùng nông
thôn, từ năm 2001, Tổ chức Phát triển quốc tế của Hà Lan (SNV) phối
hợp với các sở du lịch của một số tỉnh thực hiện Chương trình Du lịch
bền vững vì người nghèo và Sa pa (Lào Cai) là điểm được lựa chọn làm
thí điểm, trong đó tập trung vào các xã là Tả Van, xã Ô Quý Hồ và xã
Tả Chải. Theo đó, mỗi xã có 20-30 hộ được tạo cơ hội trực tiếp tham
gia vào các hoạt động của Dự án với thu nhập ước đạt 100USD/lao
động/tháng và tạo việc làm gián tiếp cho hơn 200 hộ gia đình khác. Tại
Thừa Thiên - Huế, SNV đã phối hợp với Sở Du lịch của tỉnh đề ra
nhiều chương trình thiết thực và cụ thể với những nội dung chính: nâng
cao nhận thức về du lịch bền vững; xóa đói, giảm nghèo; quản lý nhà
nước về du lịch ở địa phương; xây dựng mô hình du lịch cộng đồng và
quan hệ hợp tác giữa các bên liên đới trong du lịch. Với chương trình
này, SNV hỗ trợ tư vấn kỹ thuật cho các đối tác cấp tỉnh, huyện và
cộng đồng để xây dựng mô hình du lịch bền vững, góp phần bảo tồn

môi trường, văn hóa và phát triển sinh kế cho người nghèo.
Những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam phát triển đa dạng
các loại hình du lịch, tuy nhiên có thể thấy rằng du lịch nông thôn chưa
phát triển. Lý do là chưa lập được quy hoạch cụ thể cho từng địa


23
phương để phát triển du lịch nông thôn, cụ thể là chưa có một khung lý
thuyết chung cho các khái niệm về loại hình du lịch này. Ngoài ra, tuy
du lịch đang phát triển, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có
của nó. Sự phát triển của du lịch do không có quy hoạch cụ thể đã tác
động đến đời sống con người, thiên nhiên và môi trường ở nông thôn
về cả hai hướng tích cực lẫn tiêu cực, mà phần nhiều là tiêu cực. Đặc
biệt, do phát triển du lịch chưa gắn kết với địa phương nên các tài
nguyên thiên nhiên được ngành du lịch khai thác chưa hiệu quả và bền
vững. Trong khi đó, người nông dân ở nông thôn vẫn chưa được tham
gia rộng rãi vào các quá trình vận động của ngành du lịch, những hoạt
động du lịch chỉ mới mang lợi cho Nhà nước và khu vực tư nhân. Một
vấn đề khác nữa là chưa có sự chuẩn bị tốt về nhận thức cho cấp ủy,
chính quyền các cấp và người dân địa phương có tài nguyên du lịch
nông thôn để họ sẵn sàng tham gia hoạt động này, từ đó giảm bớt được
những tệ nạn thường gặp như chèo kéo khách, cung ứng sản phẩm và
dịch vụ kém chất lượng, dần làm mất đi bản sắc văn hóa của địa
phương. Thực tế còn cho thấy, nông dân là những người đưa di sản
sinh thái và văn hóa của mình tham gia hoạt động du lịch nông thôn,
nhưng thường lại thu được rất ít lợi ích từ hoạt động này [11] Và vì
vậy, dù có nhiều tiềm năng nhưng du lịch nông thôn vẫn chỉ là mảng
màu nhạt, chưa tạo được dấu ấn đáng kể [22].
1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu đối với phát triển du lịch nông thôn
1.2.2.1. Đặc điểm của du lịch nông thôn

* Đặc điểm chung
Theo Lane (1994), thì du lịch nông thôn có những đặc điểm sau:
- Diễn ra tại các khu vực nông thôn;
- Được hình thành trên cơ sở các đặc thù của doanh nghiệp quy
mô nhỏ của nông thôn trên thế giới, trong không gian mở và có kết hợp


24
với tự nhiên, di sản văn hóa, các truyền thống và phong tục tập quán
của địa phương;
- Thường có quy mô nhỏ kể cả các công trình xây dựng và các
cơ sở lưu trú;
- Có bản sắc truyền thống, phát triển từ từ nhưng có tổ chức, và
được kết nối với các hộ gia đình bản dịa. Thường được kiểm soát rộng
rãi bởi cộng đồng địa phương và về lâu dài được phát triển để đem lại
những gì tốt đẹp cho vùng nông thôn;
- Thuộc nhiều loại hình khác nhau, đại diện cho mô hình phức
hợp về môi trường, kinh tế, lịch sử và vùng nông thôn [35, tr.14].
Ngoài ra, theo những nghiên cứu khác, du lịch nông thôn còn có
các đặc điểm khác sau đây:
- Nền tảng của du lịch nông thôn là nông nghiệp bao gồm các
hoạt động nông nghiệp, cảnh quan nông nghiệp và các sản phẩm hàng
hóa từ nông nghiệp.
- Mô hình du lịch nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và
không gian cho phù hợp với tình hình, như du lịch nông thôn khu vực
đồng bằng, du lịch nông thôn khu vực hải đảo và khu vực nông thôn
khu vực miền núi.
- Du lịch nông thôn mang đặc điểm chung của du lịch là có tính
liên ngành và liên vùng cao [11].
Từ những đặc điểm trên, có thể rút ra những vấn đề sau:

Về không gian du lịch nông thôn diễn ra tại các khu vực nông
thôn, trong đó có cả nông thôn tại các khu vực đồng bằng và nông thôn
thuộc các khu vực hải đảo, miền núi, vùng sâu vùng xa.
Về quy mô, du lịch nông thôn thường diễn ra ở quy mô nhỏ, kể
cả quy mô của các cơ sở lưu trú du lịch và quy mô doanh nghiệp.
Du lịch nông thôn phải dựa vào tác tài nguyên khu vực nông
thôn, trong đó có cả các hoạt động nông nghiệp, các cảnh quan nông


25
nghiệp, các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng địa phương và
được kiểm soát rộng rãi bởi người dân địa phương.
* Đặc điểm về nguồn khách
Khách du lịch nông thôn thường gồm 2 nguồn: nguồn khách
quốc tế và nguồn khách nội địa.
+ Nguồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam: Trong những năm qua
với sự phát triển mạnh mẽ của ngành hàng không khiến cho khả năng
di chuyển dễ dàng và đã làm gia tăng lượng khách du lịch ngoại quốc
đến các nước trên thế giới. Ngoài nhu cầu tìm hiểu lịch sử văn hóa đất
nước viếng thăm, nhu cầu tìm hiểu thiên nhiên và con người và vùng
nông thôn của nước đó cũng là một việc hết sức lý thú.
+ Nguồn khách du lịch nội địa từ các trung tâm đô thị và các tỉnh
thành khác: Đối với người dân trong nước, cuộc sống công nghiệp
và hiện đại đã làm nãy sinh nhu cầu tham quan, du lịch, giải trí hướng
về vùng nông thôn. Chính vì thế các trung tâm đô thị là nơi phát sinh
khách du lịch nông thôn chủ yếu [5].
Thông thường, khách du lịch nông thôn có các nhu cầu sau đây:
- Nhu cầu thư giãn, gần gũi thiên nhiên, hoạt động ngoài trời;
- Nhu cầu khám phá kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian;
- Nhu cầu thưởng thức ẩm thực dân gian, các món ăn cổ truyền;

- Nhu cầu tìm hiểu các lễ hội truyền thống, các sản vật địa
phương;
- Nhu cầu tìm hiểu đời sống cư dân nông thôn;
- Nhu cầu trãi nghiệm thực tế;
- Nhu cầu khám phá;
- Nhu cầu chứng kiến;
- Nhu cầu tiếp xúc trực tiếp;
- Nhu cầu tham vấn cộng đồng;
- Nhu cầu từ thiện;
- Nhu cầu nghiên cứu, học tập;
- Nhu cầu thăm viếng gắn liền với địa danh, sự kiện, nhân vật,

×