Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 190 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


CHU THỊ VÂN ANH




BIỂU TƯỢNG NGƯỜI KHỔNG LỒ TRONG
THẦN THOẠI MỘT SỐ CƯ DÂN NÓI TIẾNG
THÁI Ở VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ






Hµ Néi, 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


CHU THỊ VÂN ANH


BIỂU TƯỢNG NGƯỜI KHỔNG LỒ


TRONG THẦN THOẠI MỘT SỐ CƯ DÂN
NÓI TIẾNG THÁI Ở VIỆT NAM


CHUYÊN NGÀNH: DÂN TỘC HỌC
MÃ SỐ: 60 22 70


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Lương



Hà Nội - 2009

1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
2.1. Trên Thế giới: 5
2.2. Trong nước 7
3. Mục đích nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 12
6. Đóng góp của luận văn 12
7. Bố cục của luận văn 13
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG 14

1.1. Định nghĩa và nguồn gốc của biểu tượng 14
1.1.1. Khái niệm “biểu tượng” 14
1.1.2. Nguồn gốc của biểu tượng 15
1.2. Tính chất và chức năng cơ bản của biểu tượng 23
1.2.1. Tính chất của biểu tượng 23
1.2.2. Các chức năng cơ bản của biểu tượng 27
1.3. Sự phân loại biểu tượng 31
CHƯƠNG 2: BIỂU TƯỢNG NGƯỜI KHỔNG LỒ TRONG KHO TÀNG
THẦN THOẠI MỘT SỐ TỘC NGƯỜI NÓI TIẾNG THÁI Ở VIỆT NAM 46
2.1. Khái quát về một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam 46
2.1.1. Địa bàn cư trú 46
2.1.2. Lịch sử hình thành các tộc người nói tiếng Thái ở Việt Nam 47
2.1.3. Một số đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội truyền thống 50
2.2. Biểu tượng người khổng lồ trong văn học dân gian cư dân nói tiếng Thái và
một số dân tộc anh em 54
2.2.1. Thần thoại và biểu tượng người khổng lồ 54

2
2.2.2. Người khổng lồ trong thần thoại các tộc người nói tiếng Thái 57
2.2.3. Hình tượng người khổng lồ trong truyện kể một số tộc người anh em….62
2.3. Ý nghĩa của biểu tượng người khổng lồ 73
2.3.1. Thể hiện khát vọng chinh phục và sống hoà đồng với tự nhiên của con
người trong buổi đầu của lịch sử 73
2.3.2. Đề cao vai trò của lao động sáng tạo 76
2.3.3. Khẳng định sức mạnh của cư dân trồng lúa nước 79
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA BIỂU TƯỢNG NGƯỜI KHỔNG LỒ
TRONG KHO TÀNG THẦN THOẠI MỘT SỐ TỘC NGƯỜI NÓI TIẾNG
THÁI Ở VIỆT NAM 85
3.1. Giá trị lịch sử của biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại 85
3.1.1. Thần thoại - một nguồn sử liệu về lịch sử phát triển của tộc người 85

3.1.2. Phản ánh sự phát triển tư duy của tộc người 92
3.1.3. Khẳng định vai trò của con người trong quá trình tiến hoá của mình… 95
3.2. Giá trị văn hoá của biểu tượng người khổng lồ 99
3.2.1.Thông qua hình ảnh những vị thần khổng lồ phản ánh quan niệm sơ khai
về vũ trụ và nhân sinh của tộc người 99
3.2.2. Biểu tượng người khổng lồ phản ánh tín ngưỡng của tộc người 105
3.2.3. Phản ánh khiếu tư duy thẩm mỹ của tộc người 108
3.2.4. Thần thoại – nơi ẩn chứa khát vọng của loài người 110
3.3. Phát huy những giá trị biểu tượng trong sự phát triển văn hoá tộc người 113
3.3.1. Biểu tượng người khổng lồ - niềm tự hào của tộc người 113
3.3.2. Đề cao vai trò sáng tạo của tộc người……………………………… 117
3.3.3. Tạo ra sự hoà đồng giữa con người với tự nhiên 121
KẾT LUẬN …………………………………………………………125
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 130
PHẦN PHỤ LỤC 138


3
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nghiên cứu về văn hoá tộc người, văn học dân gian giữ vai trò là
nguồn sử liệu quan trọng. Bởi nó không chỉ phản ánh tư duy, nhận thức của
con người thời nguyên thuỷ, mà còn là bức tranh phản chiếu xã hội của cư
dân trong giai đoạn sớm nhất của lịch sử loài người, khi mà sử liệu thành văn
chưa xuất hiện.
Do là một bộ phận của tự nhiên và hơn thế nữa, người nguyên thuỷ
sống dựa hoàn toàn vào tự nhiên với nền kinh tế chiếm đoạt giữ vai trò chủ
đạo, nên tư tưởng sùng bái tự nhiên, khuất phục trước tự nhiên luôn thường
trực. Nhưng bên cạnh đó, lao động xuất hiện và ngày càng đóng vai trò quan
trọng, đảm bảo cuộc sống ổn định cho các cộng đồng người nguyên thuỷ.

Chính vì vậy, ý thức về vai trò của bản thân, cụ thể ở đây là của lao động,
trong thế giới tự nhiên đã được người nguyên thuỷ nhận thức rõ nét. Với lòng
tự hào về khả năng lao động, người xưa đã mạnh dạn đặt khả năng lao động
của con người sánh ngang với sự sáng tạo của tự nhiên.
Lúc này, trong tư duy của người nguyên thuỷ, tự nhiên không còn là
một lực lượng quá xa lạ đối với họ. Tuy vẫn còn e sợ trước sức mạnh vô song
của tự nhiên nhưng người xưa cũng phần nào gắn kết những sức mạnh ấy với
sức lao động, với khả năng sáng tạo của con người. Từ đó họ đi đến sự thần
thánh hoá khả năng lao động của con người, coi đó là cội nguồn sáng tạo nên
tự nhiên. Họ mong muốn tác động đến tự nhiên theo hướng có lợi cho cuộc
sống của mình, thông qua vai trò của những vị thần khổng lồ trong thần thoại
- một loại hình văn học dân gian ra đời vào giai đoạn sớm của lịch sử nhân
loại, khi con người đứng trước sự tan rã của chế ‘độ công xã nguyên thuỷ và
manh nha hình thành xã hội có giai cấp.

4
Biểu tượng người khổng lồ và nhiều biểu tượng khác liên quan đến sức
mạnh của con người đã được thần thánh hoá và sinh ra từ những quan niệm
đó. Đồng thời, biểu tượng người khổng lồ cũng là ước mơ, mong muốn của
con người có thể sống chan hoà với thế giới tự nhiên đầy trắc trở. Chỉ có sức
mạnh người khổng lồ mới mong đạt được những ước muốn đó. Những biểu
tượng đó đã trở thành nơi hội tụ ước mơ, hy vọng và niềm tin của con người
trước các lực lượng tự nhiên hùng vĩ. Vì vậy, tìm hiểu, nghiên cứu về các biểu
tượng chính là tìm hiểu, nghiên cứu về những ước mơ, hy vọng đó của con
người trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Nghiên cứu về thần thoại của các dân tộc ở Việt Nam cũng như trên
Thế giới là một đề tài khá phổ biến, đặc biệt trong văn học và văn hoá. Tuy
nhiên, dưới góc độ Nhân học, nghiên cứu về một biểu tượng phổ biến trong
thần thoại, biểu trưng cho sức mạnh sáng tạo và khả năng lao động của người
xưa như biểu tượng người khổng lồ lại là một đề tài mới mẻ. Tuy vấn đề này

cũng đã được đề cập một các khái quát ở đâu đó nhưng để thành một nghiên
cứu cụ thể thì hầu như chưa được đề cập tới.
Chọn nghiên cứu về Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số
cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam, chúng tôi mong muốn được gợi ra một
hướng nghiên cứu mới trong Nhân học - một khoa học mới mẻ ở nước ta trước
một đối tượng nghiên cứu vô cùng phong phú của các tộc người.
Vì đây là một loại đề tài mới, một hướng tiếp cận mới trong Nhân học,
chúng tôi chưa thể tránh khỏi nhiều điều bỡ ngỡ về cả mặt lý thuyết lẫn thực
tiễn của loại đề tài này. Chân thành mong muốn nhận được sự chỉ bảo, góp ý
của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!



5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Biểu tượng là những thành tố văn hoá có từ thời nguyên thuỷ. Có thể
nói “loài người sống trong một thế giới biểu tượng, một thế giới biểu tượng
sống trong chúng ta” [5,tr XIV]. Nghiên cứu Nhân học chính là nghiên cứu về
hệ thống các biểu tượng đó. Đặc biệt, khi những biểu tượng đó gắn với thế
giới tôn giáo tín ngưỡng thì chúng trở nên vô cùng phong phú, phức tạp và trở
thành những sức mạnh to lớn đối với đời sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên, sự ước lệ và ý nghĩa các biểu tượng được thể hiện và hiểu
một cách rất khác nhau ở các dân tộc, các châu lục cũng như ở phương Đông
và phương Tây.
Nghiên cứu biểu tượng như là một khoa học được sinh ra từ thập kỷ 60
– 70 của thế kỷ XX. Đây là sự ra đời từ một phân ngành Nhân học qua một
quá trình tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết Nhân học Thế giới, như Nhân học
xã hội của E.Durkheim, T.Parsons; Nhân học văn hoá của F.Boas, Mead…và
đặc biệt Cấu trúc luận của Leví Strauss. Họ nghiên cứu Biểu tượng trong sự

gắn kết chặt chẽ với sự phát triển tư duy, nhận thức xã hội và thế giới quan, là
nghiên cứu nền tảng tinh thần của các dân tộc. Mỗi lý thuyết đều có cách tiếp
cận riêng, nhưng đều có xu hướng coi biểu tượng là những yếu tố văn hoá gắn
liền với thần thoại, các truyền thuyết tôn giáo và các nghi lễ truyền thống.
Một số tác phẩm tiêu biểu nghiên cứu về Biểu tượng trên Thế giới và
Việt Nam như sau:
2.1. Trên Thế giới:
Từ lâu, Biểu tượng đã thu hút được sự chú ý nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học nổi tiếng, và là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội
và nhân văn khác nhau như: Triết học, mỹ học, dân tộc học, nhân học văn
hoá, xã hội học, văn hoá học…Trong tiếng Hy Lạp, biểu tượng có nghĩa
tương hợp với từ Sumbolum, tức là dấu hiệu để nhận ra nhau. Mà từ

6
sumbolum cũng là gốc của các từ symbole (tiếng Pháp), symbol (tiếng Anh)
hay symbol (tiếng Đức). Đây là đối tượng được nhiều ngành khoa học quan
tâm theo cách riêng của mình. Như vậy, có thể nói, nghĩa đầu tiên của biểu
tượng được xác định bằng chính lý do ra đời của nó: “biểu tượng là dấu hiệu
được phô bày ra bên ngoài để nhận biết sự sở thuộc cộng đồng” [73, tr38].
Với tư cách là đối tượng nghiên cứu của Triết học, phải kể đến tác
phẩm “Triết học các hình thái biểu tượng” [4] của nhà triết học Đức Ernst
Cassirer. Trong mỹ học, tác phẩm “Mỹ học” [30] của Heghen được coi là tiêu
biểu, trong đó biểu tượng được coi là một trong những thành tố quan trọng tạo
nên những giá trị thẩm mỹ của các xã hội tiền giai cấp.
Biểu tượng còn được tập hợp lại để xây dựng thành từ điển, tiêu biểu là công
trình “Từ điển biểu tượng văn hoá Thế giới” [5] của hai tác giả Jean Chevalier và
Alain Gheerbrant đã nêu những nét khái quát về thuật ngữ “biểu tượng”, cũng như
nguyên nhân ra đời, nội dung và những đặc trưng của biểu tượng.
Cùng với đó còn có tác phẩm “Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại” của
Lue Benoist[1] như một bản tóm tắt về những vấn đề của biểu tượng và bước

đầu có sự phân biệt giữa khái niệm “biểu tượng” với những khái niệm khác
như khái niệm “biểu trưng”, “dấu hiệu”…
Gần gũi hơn với nội dung luận văn của chúng tôi phải kể đến một số
công trình nghiên cứu biểu tượng theo phương pháp tiếp cận của các ngành
dân tộc học, nhân học văn hoá, xã hội học, tiêu biểu là cuốn sách “Kinh
nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thuỷ” của nhà triết học, xã hội
học người Pháp Lucien Lévy – Bruhl [52]. Cuốn sách đã tập hợp được một
khối lượng tư liệu dân tộc học phong phú liên quan đến biểu tượng. Tác giả
đã tập trung phân tích nguồn gốc của biểu tượng, gắn với những đặc điểm tư
duy của người nguyên thuỷ mà tác giả gọi là “tư duy tiền logic”.

7
Tìm hiểu cội nguồn của biểu tượng, gắn với tín ngưỡng và tư duy nguyên
thuỷ còn phải đề cập đến một số tác phẩm như: “Các hình thái tôn giáo sơ khai
và sự phát triển của chúng” của X.A.Tocarev [80] và “Văn hoá nguyên thuỷ”
của E.B.Taylor [71]. Tuy các tài liệu này không trực tiếp nghiên cứu về biểu
tượng, nhưng chúng cũng là những tài liệu tham khảo quý cho luận văn.
2.2. Trong nước
Vấn đề nghiên cứu và giải mã biểu tượng ở nước ta còn nhiều hạn chế.
Nghiên cứu biểu tượng thường được lồng trong các công trình nghiên cứu văn hoá
dân gian, nhất là về lễ hội, trong mỹ thuật cổ, về tín ngưỡng và tâm thức dân gian.
Dưới góc độ tiếp cận về lý thuyết, có công trình nghiên cứu của Đoàn
Văn Chúc (“Văn hoá học” [8]), Phạm Đức Dương (“Từ văn hoá đến văn hoá
học” [12]) và Bùi Quang Thắng (“30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá” [73]) đã
bắt đầu có sự tiếp cận trực tiếp với khái niệm “biểu tượng”. Trong công trình
của mình, các tác giả đã dành hẳn ra những chương mục cụ thể trình bày
nghiên cứu khái quát về “biểu tượng”, trong đó chủ yếu tập trung giải thích
một cách hệ thống về mặt thuật ngữ cũng như nguồn gốc, những đặc trưng cơ
bản của biểu tượng. Luận án của chúng tôi cũng đã kế thừa những kết quả
nghiên cứu trong 3 công trình trên.

Về vấn đề xác định lý thuyết biểu tượng, phải kể đến luận án tiến sỹ
của Nguyễn Văn Hậu [27] và Bùi Thị Thanh Mai [57]. Hai luận án trên bên
cạnh việc đưa ra những nét khái quát nhất trong lý thuyết về biểu tượng còn
áp dụng vào thực tiễn nhằm giải mã một hiện tượng biểu tượng cụ thể. Trong
đó, cơ bản nhất là luận án của Nguyễn Văn Hậu. Dưới góc độ triết học và văn
hoá học, tác giả đã đưa ra những kiến giải khá đầy đủ về lý thuyết biểu tượng.
Điều này rất có ích cho nghiên cứu của chúng tôi do đặc thù đối tượng nghiên
cứu khá gần nhau. Do vậy, trong luận văn này, chúng tôi cũng đã trích dẫn
một số quan điểm cũng như kết quả nghiên cứu của tác giả.

8
Nếu như các công trình trên chủ yếu tập trung giải thích biểu tượng ở
mặt lý thuyết thì những tác phẩm sau lại nhằm “giải mã” những biểu tượng cụ
thể. Như công trình “Nguồn gốc và sự phát triển của biểu tượng, kiến trúc và
ngôn ngữ Đông Sơn” của Tạ Đức [17], “Biểu tượng rồng, văn hoá và những
câu chuyện” của Nam Việt [105]. Các tác giả đã không chỉ dừng lại ở việc làm
rõ khung lý thuyết của biểu tượng mà còn áp dụng nó vào một đối tượng cụ
thể. Tuy khía cạnh tiếp cận cũng như phương pháp giải mã biểu tượng có
khác nhau nhưng đây được coi là những công trình đầu tiên nghiên cứu toàn
diện về một “biểu tượng” cụ thể trong văn hoá cũng như trong kiến trúc
truyền thống của Việt Nam.
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành cũng xuất hiện nhiều bài viết
về biểu tượng như của tác giả Phan Đăng Nhật [59], Nguyễn Khắc Xương
[108], Tạ Đức [18], Nguyễn Văn Hậu [26], Mai Văn Hai [24], Trang Thanh Hiền
[28], Nguyễn Ngọc Mai [58], Vũ Trường Giang [21], Bùi Thị Hoa [31], Bùi
Xuân Tiệp [79], Nguyễn Kim Hoa [32], Huỳnh Ngọc Trảng [81], Hoàng Lương
[55]…Các tác giả đã tập trung nghiên cứu những biểu tượng cụ thể trong văn
hoá các tộc người nhằm bước đầu giải mã chúng. Tuy chưa phải là những
chuyên luận sâu, tiếp cận đầy đủ những khía cạnh của biểu tượng nhưng
những bài báo trên cũng góp phần làm rõ hơn những lý thuyết về nghiên cứu

biểu tượng đối với những đối tượng cụ thể trong văn hoá tộc người.
Không tập trung nghiên cứu về một loại hình biểu tượng cụ thể hay
nhằm đưa ra những nét khái quát về thuật ngữ này, nhưng đâu đó trong các
công trình nghiên cứu văn hoá cũng đã phần nào đề cập đến vấn đề này. Chủ
yếu các tác giả tập trung giải mã những biểu tượng quen thuộc trong văn hoá
truyền thống Việt Nam, như tác phẩm “Thần, người và đất Việt” của Tạ Chí
Đại Trường [87], “Về nguồn văn hoá cổ truyền Việt Nam” của Đông Phong
[66], “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm [76], “Văn hoá

9
Việt Nam đa tộc người” của GS.Đặng Nghiêm Vạn [101], “Văn hoá Việt Nam
tìm tòi và suy ngẫm” của cố GS. Trần Quốc Vượng [107], “Bản sắc văn hoá
Việt Nam” của GS.Phan Ngọc [61]…Hình tượng quen thuộc được các tác giả
đưa ra giải mã là hình ảnh “con rồng cháu tiên” thể hiện sự thống nhất trong
lịch sử cũng như văn hoá của dân tộc. Bên cạnh đó là những biểu tượng liên
quan đến các thành tố cơ bản của văn hoá như ăn, mặc, ở, đi lại…mang tính
phổ biến của các tộc người.
Bên cạnh những tài liệu mang tính chất tham khảo, định hướng về lý
thuyết, còn có những công trình phục vụ trực tiếp cho luận văn. Do đối tượng
khảo cứu của luận văn là thần thoại các tộc người về một đề tài cụ thể nên
trong những nghiên cứu về văn học dân gian cũng đã phần nào đề cập đến. Đó
là công trình của GS.Nguyễn Đổng Chi [6], GS.Đinh Gia Khánh [44], tác giả
Phúc Khánh [45], tác giả Ngô Văn Lệ [53], tác giả Hoàng Lương [54], tác giả
Lê Ngọc Thắng [74], các công trình về cư dân Tày – Thái của nhà Thái học
Cầm Trọng [82] [83] [84] [85] [86], các công trình của GS Đặng Nghiêm Vạn
[90] [91] [92] [93] [94] [95] [96]… Trong các công trình này đã đề cập đến vai trò
cũng như ý nghĩa của biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại của các tộc
người như là một đề tài phổ biến trong thần thoại giai đoạn đầu, khi con người
vừa thoát thai khỏi động vật.
Tuy nhiên, những nhận định này còn tản mát, không được cấu thành

những chương mục cụ thể. Trong luận văn này, trên cơ sở kế thừa những nhận
định của các tác giả kể trên, chúng tôi cố gắng tập trung, khái quát hoá nhằm
bước đầu tiếp cận và giải mã biểu tượng người khổng lồ một cách có hệ thống
trên cơ sở đối chiếu, so sánh với thần thoại của các tộc người khác về một đề
tài chung. Do vậy mà những tài liệu về văn học cổ các tộc người là nguồn
khảo cứu chính để chúng tôi thực hiện đề tài này.

10
Với ý nghĩa là một nguồn tài liệu quan trọng về xã hội con người thời
sơ sử, thần thoại các tộc người nói tiếng Thái nói riêng và các tộc người khác
nói chung luôn là bức tranh phản ánh trung thực về thực tế đời sống con
người. Trong đó hình ảnh những người khổng lồ - những vị anh hùng thời kỳ
dựng nước đã trở thành hình ảnh đại diện cho sức mạnh, trí tuệ của cả cộng
đồng. Thông qua hình ảnh những vị thần “đầu đội trời, chân đạp đất, san núi,
bạt sông”, con người thể hiện ước vọng chinh phục tự nhiên bằng chính sức
lao động và tinh thần cố kết cộng đồng trong buổi đầu lịch sử. Thần thoại
không chỉ là hiện thực xã hội con người thời sơ sử, mà nó còn khẳng định sức
mạnh của con người trước tự nhiên. Con người không chỉ còn là khách thể thụ
động trước những tác động của tự nhiên mà họ đã chủ động tác động trở lại
đối với thiên nhiên, buộc thiên nhiên phải phục vụ cho lợi ích của mình. Biểu
tượng người khổng lồ trong thần thoại các tộc người cũng chính là để chuyển
tải những khát vọng đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong nghiên cứu Dân tộc học – Nhân học ở Việt Nam và trên thế giới
hiện nay chưa có được một lý thuyết chung về nghiên cứu biểu tượng. Các tác
giả, tuỳ thuộc theo nội dung cũng như đối tượng nghiên cứu cụ thể mà đưa ra
những lý thuyết nghiên cứu riêng của mình.
Với đề tài “Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân
nói tiếng Thái ở Việt Nam”, mục đích của luận văn là:
Thứ nhất: sưu tầm và hệ thống kho tàng thần thoại của một số dân tộc

nói tiếng Thái về biểu tượng người khổng lồ.
Thứ hai: Giới thiệu khái quát về hệ thống các khái niệm biểu tượng ở
Việt Nam và trên thế giới. Qua đó trình bày những biểu tượng về người khổng
lồ trong thần thoại một số dân tộc nói tiếng Thái ở Việt Nam trong bối cảnh
chung về biểu tượng người khổng lồ trên thế giới.

11
Thứ ba: Tìm những ý nghĩa và giá trị của biểu tượng người khổng lồ
trong đời sống một số dân tộc nói tiếng Thái nhằm nêu lên những đặc trưng
văn hoá của tộc người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để triển khai luận án, chúng tôi cũng dựa trên quan điểm coi biểu
tượng như là một phương tiện để tiếp cận con người trong buổi đầu của lịch
sử. Thông qua một biểu tượng cụ thể là người khổng lồ để tìm hiểu về tâm tư,
nguyện vọng, ước mơ của con người trong giai đoạn đầu, khi họ mới thoát
thai khỏi thế giới động vật. Có thể coi biểu tượng người khổng lồ là sáng tạo
văn hóa đầu tiên của con người nhằm thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên
cũng như đề cao khả năng lao động, sáng tạo, cải biến thế giới của con người
thời tiền sử. Với hình ảnh những vị thần khổng lồ - nhân vật trung tâm trong
lớp thần thoại đầu tiên của lịch sử loài người - một lần nữa vai trò quyết định
của lao động đối với tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại nói chung được
khẳng định. Qua đó nhằm khẳng định vai trò chủ thể của loài người trong vũ
trụ mênh mông này.
- Đối tượng nghiên cứu: do không có điều kiện đi điền dã thực tế, luận văn
chủ yếu khai thác thần thoại của các tộc người thông qua các công trình sưu
tầm, biên soạn, nghiên cứu văn học dân gian sẵn có. Tuy nguồn sử liệu được
sử dụng là nguồn sử liệu gián tiếp, nhưng trong quá trình tiếp cận, tác giả
cũng có sự so sánh, đối chiếu giữa các dị bản với nhau để có được thông tin
chính xác nhất trong điều kiện có thể.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không chỉ dừng lại nghiên cứu về thần thoại

của các dân tộc nói tiếng Thái, mà còn mở rộng, so sánh, đối chiếu với thần
thoại về người khổng lồ của một số dân tộc khác trong nước và thần thoại các
nước khác trên thế giới thông qua các công trình sưu tầm, biên soạn về văn
học dân gian của các dân tộc ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

12
5. Phương pháp nghiên cứu
Do chưa có nhiều kinh nghiệm trước một đề tài mới mẻ, nên để giải
quyết những yêu cầu của luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Tổng hợp và khái quát về lý thuyết biểu tượng của một số tác giả nước ngoài
và Việt Nam. Từ đó áp dụng vào giải quyết những vấn đề cụ thể của luận văn
là “Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái
ở Việt Nam”.
- Thu thập và tổng hợp về biểu tượng người khổng lồ trong một số cư dân nói
tiếng Thái và các tộc người khác ở Việt Nam cũng như trên thế giới thông qua
những công trình sưu tầm, biên soạn về văn học dân gian sẵn có.
- Do đặc thù của đối tượng nghiên cứu, những tài liệu thu thập được chủ yếu
là những tư liệu gián tiếp nên phải có sự phê phán khách quan, phân tích định
tính, đối chiếu, so sánh giữa các dị bản trong khi sử dụng.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh với biểu tượng người khổng lồ ở các tộc người
khác (cả trong nước và thế giới) cũng sẽ được sử dụng một các tích cực.
6. Đóng góp của luận văn
- Khai thác một đối tượng nghiên cứu mới dưới góc độ Nhân học của cư dân
nói tiếng Thái cũng như loài người về tiến trình phát triển ở thời kỳ sơ sử của
nhân loại.
- Coi biểu tượng như là một “phương tiện tiếp cận đối với con người trong xã
hội nguyên thuỷ”. Từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về tiến trình lịch sử của các
tộc người.
- Gợi ra một cách tiếp cận mới nhằm giải mã những biểu tượng nói chung, về

người khổng lồ nói riêng trong nghiên cứu Dân tộc học và Nhân học ở nước ta.



13
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 138 trang, ngoài phần dẫn luận (11 trang), phần kết luận
(5 trang) và phần mục lục và tài liệu tham khảo (11 trang), phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Khái niệm về biểu tượng (32 trang, từ trang 14 đến trang 45)
- Chương 2: Biểu tượng người khổng lồ trong kho tàng thần thoại một số cư
dân nói tiếng Thái ở Việt Nam (39 trang, từ trang 46 đến trang 85)
- Chương 3: Những giá trị của biểu tượng người khổng lồ trong kho tàng thần
thoại một số tộc người nói tiếng Thái ở Việt Nam (40 trang từ trang 86 đến
trang 125)
Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục bao gồm những câu chuyện
thần thoại có nhân vật chính là những vị thần khổng lồ trong buổi khai thiên
lập địa cùng những dị bản mà chúng tôi sưu tầm được và là đối tượng khảo
sát chính của luận văn.















14
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG
1.1. Định nghĩa và nguồn gốc của biểu tượng
1.1.1. Khái niệm “biểu tượng”
Biểu tượng là một loại “ký hiệu” cổ xưa, ra đời trong buổi bình minh
của lịch sử nhân loại. Biểu tượng được xem như là “vật thay thế” của tư duy
trong tiến trình phát triển nhận thức của con người. Hơn nữa, biểu tượng còn
là con đẻ của sự liên tưởng và sự tưởng tượng, nó giúp cho người ta khám phá
và nhận thức ra một thế giới đầy ý nghĩa, phong phú và đa dạng, nhằm truyền
đạt những thông tin và khơi dậy những cảm xúc thường có trong “đời sống
tâm lý” của con người.
Ngày nay, vai trò của biểu tượng trong hoạt động xã hội của con người
đã được quan tâm và nghiên cứu một cách sâu sắc với tinh thần khoa học. Trí
tưởng tượng không còn bị xem nhẹ như trước đây mà nó đã được xác định lại
vị trí và được coi là “mặt thứ hai của lý trí”. Không những vậy, biểu tượng còn
là nguồn cảm hứng cho các tìm tòi khám phá. Điều đó đã được khẳng định là
do phần lớn những hư cấu viễn tưởng có giá trị tiên báo mà khoa học đã từng
bước xác minh. Chính vì vậy, hiện nay biểu tượng đang ngày được quan tâm.
Vấn đề “giải mã” biểu tượng đang được nhiều ngành hướng tới như tâm lý học,
xã hội học, triết học, văn hoá học, Dân tộc học, Nhân học văn hoá…
Vậy, “biểu tượng” (symbol) là gì?
Thuật ngữ “Biểu tượng” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: “Sumbolum” là
dấu hiệu, có nghĩa tương ứng với các từ: ký hiệu (sign), hoặc tín hiệu (signal).
Cũng có thuyết cho rằng, chữ Symbol bắt nguồn từ động từ Hy Lạp
“Symballo” có nghĩa là: “ném vào vị trí”, “liên kết”, “suy nghĩ về”, “thoả
thuận”, “ước hẹn”…


15
Từ điển Petit Larousse định nghĩa: “Biểu tượng là một dấu hiệu hình
ảnh, con vật sống động hay đồ vật biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình
ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. Người Trung Hoa quan niệm
“biểu” có nghĩa là “dấu hiệu”, “tỏ rõ”, “bày ra”… để người ta nhận biết về
một điều gì đó; “tượng” có nghĩa là “hình trạng”, “hình tượng”…Do vậy,
biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra tạo thành một dấu hiệu
tượng trưng, nhằm diễn đạt một ý nghĩa nào đó mang tính trừu tượng.
Để cụ thể hoá một ý niệm trừu tượng nào đó, con người đã chọn một hình
ảnh, một tên gọi để diễn đạt một điều vô hình, vô hạn, bất khả tri. Như vậy, biểu
tượng là tín hiệu hai mặt, cái biểu thị là dạng thức tồn tại hình tượng hoá hay tên
gọi và cái được biểu thị là những giá trị của ý niệm ẩn dấu bên trong nó.
Con người sống đồng thời với ba thế giới : thế giới thực tại - tồn tại
khách quan, là cái có trước và độc lập với nhận thức của con người ; thế giới
ý niệm – là hình ảnh về thế giới thực tại được con người cảm nhận bằng khả
năng tri giác của bản thân ; và thế giới biểu tượng - tức là hình ảnh về thế giới
hiện thực được con người cảm nhận qua thế giới ý niệm. Qua thế giới biểu
tượng, con người có thể tư duy và thông báo cho nhau bức tranh về thế giới ý
niệm nằm trong đầu anh ta. Do vậy, biểu tượng là vật thay thế, là cầu nối giữa
thế giới ý niệm và thế giới thực tại bằng cách đưa cái vô hình, vô hạn, vô khả
tri vào cái hữu hình, hữu hạn, khả tri, làm cho con người có thể cảm nhận
được cái thế giới ý niệm trong mỗi cá nhân. Thế giới ý niệm giúp cho con
người ngày càng xích lại gần nhau hơn.
1.1.2. Nguồn gốc của biểu tượng
Theo quan điểm mác - xít thì “ngôn ngữ là hiện thực của ý thức”
(K.Marx). Chính lao động và ngôn ngữ đã góp phần biến đổi người vượn trở
thành người. Nhờ vào hoạt động trí tuệ mà sức mạnh của tập đoàn người và
sức mạnh của mỗi cá nhân sống trong tập đoàn đó được nâng lên gấp bội.


16
Trong buổi bình minh của lịch sử đó, những cuộc cách mạng về trí năng, về
sự sáng tạo ra các công cụ sản xuất cũng lần lượt xuất hiện cùng với sự ra đời
của ngôn ngữ. Điều đó đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình sống kiểu quần thể
bầy bàn - vượn người lên đời sống xã hội của loài người. Con người đã vượt
lên bản chất động vật của chính mình để trở thành “con người xã hội”.
Nhờ có hoạt động ngôn ngữ, loài người có thể giao tiếp với nhau và
truyền thông cho nhau những kinh nghiệm đã được đúc kết trong lao động,
trong chiến đấu cũng như trong hoạt động trí tuệ. Trong xã hội nguyên thuỷ,
chính nhờ vào hoạt động trí tuệ này mà sức mạnh của nhóm, của cộng đồng
và từng cá nhân sống trong cộng đồng đó ngày càng tăng lên gấp bội. Đó là
cơ sở đảm bảo cho sự thắng lợi của con người trong đấu tranh sinh tồn và
trong lao động chinh phục tự nhiên.
Tuy nhiên, ở thưở bình minh lịch sử ấy, trước khi có chữ viết ra đời, hoạt
động lời nói của con người còn bị hạn chế và bị bó hẹp trong không gian và thời
gian hữu hạn. Do vậy, ngoài lời nói ra, họ còn dùng những phương tiện ngoài
ngôn ngữ, đó là những “ngôn ngữ không lời” bao gồm: hình vẽ, tranh khắc, điệu
bộ, cử chỉ, dấu hiệu và các ký hiệu đơn giản hoặc phức tạp khác.
Ngay từ thời nguyên thuỷ, khi mà tiếng nói còn rất nghèo nàn thì điệu
bộ, cử chỉ, nét mặt của con người đã có vai trò rất lớn trong quá trình giao tiếp
giữa con người với nhau, nhất là trong hoàn cảnh khi mà tiếng nói chưa định
hình đầy đủ và ở trong điều kiện có sự khác biệt về ngôn ngữ. Chúng là
những dạng thức nguyên mẫu được sao chép từ trong cuộc sống thực tế, đã
được “cách điệu hoá” cao, gần như là những “ký hiệu nghệ thuật”, để sử dụng
trong mọi sinh hoạt của người nguyên thuỷ với mục đích tạo ra những “tín
hiệu thông tin” trong hoạt động giao tiếp của họ.
Có thể đọc ra một số “danh từ” của thứ “ngôn ngữ đặc biệt” nằm trong
trang từ điển những “ký hiệu hình ảnh” của người tiền sử:

17

-“Cái cung”: một tay ra hiệu cầm cái cung vô hình, tay kia ra hiệu cầm
dây cung bằng sự tưởng tượng.
- “Túp lều”: giơ hai tay chắp chéo, hình dung ra mái nhà nhọn hình chữ A.
- “Chó sói”: một bàn tay giơ hai ngón ra biểu thị hai cái tai của con sói.
- “Cá”: bàn ta để dứng theo chiều dọc, quẫy đi quẫy lại.
- “Mây đen”: hai nắm tay để trên đầu, mô tả mây đang treo lơ lửng trên đầu.
- “Tuyết”: hai nắm tay giơ cao trên đầu, rồi từ từ mở ra và hạ xuống
theo đường ngoằn ngoèo như bông tuyết rơi.
- “Ngôi sao”: hai ngón tay, khi thì chụm lại, khi thì xoè ra lơ lửng ở
trên đầu biểu thị ngôi sao lấp lánh. [27, tr29]
Như vậy mỗi “tiếng” chính là một hình ảnh vẽ bằng tay trên không khí.
Cũng như những chữ viết cổ xưa là những hình vẽ (chữ tượng hình Trung
Quốc và Ai Cập), thì có lẽ, những điệu bộ nguyên thuỷ cũng chính là một thứ
ngôn ngữ mang tính “tượng trưng” đầu tiên của loài người – loại hình “ngôn
ngữ điệu bộ”.
Những điệu bộ tự nhiên đó đều là những “ký hiệu”, hoạt động theo
những quy ước đã định sẵn mà ý nghĩa của nó có thể thay đổi tuỳ theo từng
cộng đồng người. Thứ “ngôn ngữ câm” đó vẫn tồn tại theo thời gian và đời
sống của con người. Bởi lẽ, trong từng hoạt động nhất định của đời sống con
người (như trong ứng xử, giao tiếp, trong trao đổi và dự báo thông tin, hoặc
trong các lễ thức tín ngưỡng…), ký hiệu đã đem lại hiệu quả đáng kể và có
những điều thuận lợi. Đôi khi chỉ cần một vài động tác cũng có thể thông báo
một tin tức quan trọng.
Ngoài ngôn ngữ điệu bộ và lời nói là ngôn ngữ chủ yếu giúp cho người
nguyên thuỷ nhận thức và giao tiếp, họ còn dùng những “vật thay thế” để đưa
tin từ nơi này đến nơi khác. Đó là các “thẻ truyền tin” bằng gỗ, trên có những

18
nét khắc vạch tạo thành “mã ký hiệu” để người đưa tin sẽ dựa vào đấy mà
truyền đạt thông tin. Đây là một hình thức “ký hiệu” của người nguyên thuỷ.

Việc thông tin trực tiếp tại chỗ như muốn thông báo: chỗ này là khu
vực nguy hiểm, chỗ kia là nơi có thú dữ, chỗ khác là bãi săn thú tốt, có thể săn
bắn được. Thay vì phải thông báo chỉ dẫn trực tiếp thì họ dùng vật thực để
làm “vật thay thế” cho ngôn từ, như: hình ảnh một chiếc đầu lâu treo trên bìa
rừng, xác một con rắn đặt trên tảng đá ven đường hoặc một cái sừng hươu gác
bên bờ suối nào đó sẽ có giá trị như là một “ký hiệu” khuyến cáo, nhắc nhở
mọi người trong cộng đồng biết được nơi nào có nhiều thú dữ, rắn độc nên
tránh xa, hoặc nơi kia có nhiều hươu nai, là bãi săn lý tưởng…
Theo nhận định của Giáo sư Đặng Đức Siêu, thì “điều này vốn bắt
nguồn từ tính cụ thể trong lối tư duy của người cổ xưa mà chứng tích còn tìm
thấy trong hoạt động ngôn ngữ của họ” [27, tr31]
Theo các tư liệu Khảo cổ học và Dân tộc học, hình vẽ và dấu hiệu –
ngôn ngữ không lời, cũng đã xuất hiện ngay trong thời tiền sử, ở giai đoạn
hậu kỳ đồ đá cũ (40.000 đến 9000 năm TCN) với những tranh khắc vẽ trên
vách động. Phần lớn các nhà nghiên cứu cho đó là “ký hiệu ma thuật săn thú”,
nhưng dù sao cũng có thể gọi những người sáng tạo ra các bức bích hoạ đó là
những “nghệ sỹ”, không chỉ vì họ biết minh hoạ những con vật trong tự nhiên,
mà vì sự tinh tế và hoàn mỹ đến mức kinh ngạc của những “tác phẩm” của họ.
Bên cạnh những bức hoạ có mục đích thông báo tin tức và mang tính
chất lễ thức “ma thuật”, còn có sự xuất hiện trên các vách hang động, trên đá,
mảnh xương…nhiều nét vạch rất lạ lùng, bí ẩn. Những nét khắc vạch đó có lẽ
không phải là ngẫu nhiên bởi chúng được thể hiện khá tỉ mỉ và được lặp lại
với độ chính xác cao trong số hàng trăm hình ảnh khác nhau, theo phong cách
ước lệ hay trừu tượng mang “tính biểu tượng”.

19
Như vậy là, tất cả những điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, vật thực, hình vẽ, vật
tượng trưng và ngôn ngữ nói, nếu nhìn dưới góc độ “thông tin” thì chúng đều
là những “ký hiệu” ra đời từ rất xa xưa, cùng với sự hình thành nên “ý thức”
của loài người. Các hệ thống “ký hiệu” đó đã tồn tại và phát triển ngày càng

phức tạp và hoàn thiện hơn cùng với quá trình phát triển về mặt nhận thức của
người nguyên thuỷ.
Tuy nhiên, với cách nhìn và đánh giá theo khoa học hiện đại, người ta
thường cho rằng lối tư duy của người nguyên thuỷ là lối “tư duy huyền thoại”
theo kiểu tư duy liên tưởng trong thế giới tưởng tượng, hết sức mơ hồ, mang
tính võ đoán và khó giải thích. Đó là vấn đề cần đặt ra một cách nghiêm túc
trong nghiên cứu về loại hình “ký hiệu”, cũng như tìm hiểu về “quá trình tâm
lý” của người tiền sử trên bước đường nhận thức và sáng tạo của họ để tạo ra
các hệ thống “biểu tượng sơ khai” (tiền biểu tượng - biểu tượng cấp I).
Quan niệm của người nguyên thuỷ cho rằng, con người sinh ra trên đời
không những phải săn bắn, kiếm sống cho no đủ, mà họ còn phải dõi theo thế
giới chung quanh và chịu chi phối bởi thế giới đó với vô vàn những biến
động, trắc trở. Con người cổ đại luôn đặt ra những câu hỏi và mong muốn có
thể giải đáp được những gì thuộc về bản chất của sự tồn tại hay huỷ diệt của
chính bản thân mình và của đồng loại.
Trên con đường vươn tới sự nhận thức về thế giới khách quan, do tư
duy còn non kém, họ luôn cho rằng tự nhiên chính là một thế lực bí hiểm,
huyền bí, thường xuyên tác động trực tiếp và quyết định số phận của họ. Nỗi
lo âu, sợ hãi và niềm khát vọng mong chờ vẫn là những điều khắc khoải trong
đời sống tâm lý người nguyên thuỷ, một khi con người còn chưa tách ra khỏi
thế giới tự nhiên một cách đầy đủ, cái tự nhiên mà chính bản thân họ - một
sinh vật, vừa bước vào thế giới của con người.

20
Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
hiện đại, con người hiện nay không còn bối rối trước những hiện tượng tự
nhiên mà người nguyên thuỷ trước đây hay lo âu, sợ hãi và tốn nhiều tâm sức
để giải thích. Những câu hỏi thường trực như: tại sao mặt trời mọc lại lặn, tại
sao có hiện tượng ngày đêm, tại sao có thuỷ triều, tại sao lại có gió, có mưa,
có bão…? Tất cả những điều đó đã được khoa học hiện đại giải thích cặn kẽ,

đúng với quy luật tự nhiên và trở thành quen thuộc đối với chúng ta. Nhưng
đối với người nguyên thuỷ thì hoàn toàn ngược lại. Họ tin vào sự tồn tại của
cái “siêu tự nhiên” theo lối “tư duy nguyên thuỷ” (huyền thoại) bằng những lý
lẽ riêng của họ. Người nguyên thuỷ đã hình dung như sau:
Theo thần thoại Hy Lạp, “vũ trụ được sinh ra từ một vực thẳm bao la,
trống rỗng và không hình thù, một vùng hỗn độn miên man và tối tăm. Đó là cõi
Hỗn mang (Chaos), nguồn gốc của vạn vật. Từ nơi này sinh ra tất cả mọi dạng
thể của vũ trụ cổ đại: thần linh, quái vật, mặt đất và con người” [88, tr 18].
Những giải thích theo lối “tư duy nguyên thuỷ” ấy cho dù hỗn độn và
bất thuần lý đến đâu đi chăng nữa, cũng biểu hiện kiểu nắm bắt thế giới của
người nguyên thuỷ bằng lối tư duy thuần phác, chân thật và nguyên sơ theo
dạng thức sơ khai của loại hình “biểu tượng sơ khai”.
Qua nhận định trên, ta có thể nhận ra sự khác nhau giữa hai hình thức
tư duy. Nếu như hình thức “tư duy khoa học” mang tính nhân quả, tính kinh
nghiệm, chủ yếu tạo nên mối liên hệ đơn nghĩa giữa một số “nguyên nhân”
với một số “kết quả”, thì “tư duy nguyên thuỷ” lại có sự lựa chọn hoàn toàn tự
do về nguyên nhân. Với cách tư duy này, mọi cái có thể sinh thành từ tất cả,
đồng thời cũng có thể có những liên hệ với tất cả, trong mọi chiều không gian
và thời gian. Như vậy, nếu như tư duy khoa học chú trọng đến các “quy tắc”
một cách logic, thì tư duy nguyên thuỷ chỉ đề cập đến sự biến hình đơn giản,

21
mang tính đột biến, ngẫu nhiên của một sự vật cụ thể, cá biệt để trở thành một
sự vật khác mà không theo một quy tắc nào cả.
Nhà dân tộc học người Pháp Lucien Lévy Bruhl trong tác phẩm “Kinh
nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thuỷ” cũng cho rằng, thực
tiễn mà người nguyên thuỷ sống và hoạt động có hai mặt. Một mặt bao gồm
những sự vật hiện tượng có trong thế giới hiện thực có thể trông thấy, nắm bắt
và nhận thức được (thế giới hữu hình). Còn một mặt khác lại không nhìn thấy
và nắm bắt được. Họ quan tâm nhiều ở mặt thứ hai, bởi mặt này luôn bí ẩn, khó

hiểu và khó có thể tiên đoán được các thế lực “siêu nhiên” đó sẽ làm gì, vì nó
thường hay xuất hiện bất thần. Hai thực tiễn này không tạo thành hai lĩnh vực
riêng lẻ, tách rời nhau, mà chúng trộn lẫn vào nhau trong tâm thức của họ.
Theo tác giả, cái thực tiễn không trông thấy là do các “kinh nghiệm thần
bí” đã mang lại cho người nguyên thuỷ. Thực chất, đó là sự phát hiện luôn
mang yếu tố tâm lý, nó mang tính chất “thần khải” của lối tư duy “huyền thoại”
mà không phải bằng tri thức logic. Đó là tình cảm trực tiếp bằng sự cảm nhận
về một thế giới vô hình đầy bí ẩn mà theo họ thì không thể phủ nhận được.
Đối với “tư duy nguyên thuỷ”, không hề có sự xác lập mối “liên hệ
nhân quả” mà chỉ bằng sự cảm nhận mang yếu tố “huyền thoại”. Người
nguyên thuỷ luôn đứng về thế giới vô hình để tìm cách nắm bắt và khám phá
nó. Đứng trước cái thực tiễn vừa được phát hiện như là một “tồn tại” lại vừa
như là một “ẩn dấu” của cái “thế giới bí ẩn” đã khơi gợi trí tò mò trong đầu óc
người nguyên thuỷ, khiến họ phải tìm cách nắm bắt, giải thích nó. Đó là một
trong các lý do dẫn đến sự ra đời và tồn tại của những “biểu tượng sơ khai”.
Lévy – Bruhl có một câu hỏi với cách tư duy nguyên thuỷ như sau:
“Người dân đảo Igorote (ở các hòn đảo Philippine) nói rằng, mọi cá
nhân đều có cuộc sống vô hình cũng như một cuộc sống hữu hình. Như vậy,

22
liệu có nên nói rằng, con vật hay cái cây hữu hình là biểu tượng của con vật
và cái cây vô hình?”. [52,tr215]
Ông tự trả lời: không thể. Bởi theo tư duy của người Igorote, hai sinh
linh “vô hình” và “hữu hình” đó chỉ là một. Tính hai mặt của sự vật ở đây tuy
là có thật nhưng không đối lập với tính đơn nhất, bởi “con vật hữu hình” trước
mắt họ không phải là tượng trưng cho “con vật vô hình” nào cả, mà nó chính
là bản thân con vật đó. Như vậy, cùng là một sinh linh duy nhất, nó vừa tồn
tại ở nơi này, đồng thời lại hiện hữu ở nơi khác. Đó là điều khó chấp nhận đối
với tư duy khoa học, nhưng đối với người Igorote lại là lẽ hiển nhiên và nó
phải là như vậy. Ông cũng giải thích thêm là, hình như đối với họ, chỉ có sự

“cảm nhận” hơn là hình dung ra chúng theo nhận thức lý tính. Ở đây có sự
tham dự hết sức thân thiết giữa hai yếu tố với nhau, bởi nếu cái gì tác động
đến cái này thì nó cũng tác động đến cái kia theo cùng một cách thức. Họ cho
như thế là phù hợp, bởi hai thực thể đó có sự “đồng chất” với nhau.
Qua phân tích trên đây, có thể nói rằng, những “biểu tượng sơ khai” đã
ra đời từ thời công xã thị tộc – thửơ cội nguồn của lịch sử loài người. Nó
không dựa trên mối quan hệ, nắm bắt được hoặc xác lập bởi trí óc, giữa “biểu
tượng” và cái mà nó biểu hiện, mà dựa trên sự “tham gia” và thường dẫn đến
sự “đồng chất” giữa các yếu tố. Các biểu tượng ở thời kỳ này được người
nguyên thuỷ cảm nhận theo một cách hết sức đặc biệt – “ma thuật giao cảm
tính” (Magic sympathique) với mọi sự biểu hiện của các đối tượng ở đây đều
có thật, nghĩa là làm cho nó như là “hiện đang có mặt”. Từ cách tư duy
nguyên thuỷ như vậy đã dẫn đến những hành động “cảm ứng ma thuật” tác
động lên các “biểu tượng sơ khai”. Người tiền sử tin rằng, nếu tác động lên
biểu tượng của một người hay một vật cũng có nghĩa là tác động lên chính
bản thân người hay vật đó. Do dựa vào niềm tin vững chắc này, mà đã có

23
nhiều hình thức phù thuỷ - “ma thuật” ra đời và phổ biến rộng rãi trong đời
sống của các thị tộc nguyên thuỷ lúc bấy giờ.
Tóm lại, quan niệm về biểu tượng đối với người nguyên thuỷ có ý
nghĩa khác hẳn đối với chúng ta. Một cách khái quát nhất, theo quan niệm
hiện đại, biểu tượng trước hết bao hàm mối quan hệ nắm bắt được hay xác lập
bởi trí tuệ. Ở người nguyên thuỷ, biểu tượng tham gia thực sự vào một đối
tượng cụ thể. Nó không biểu hiện mối tương quan, ít nhất là ngay từ thưở cội
nguồn, khi nó vừa mới xuất hiện và thường luôn dẫn đến sự “đồng chất”.
Vấn đề chủ yếu chính là, hệ thống các “biểu tượng sơ khai” đã thực
hiện được vai trò của nó là một loại công cụ tinh thần của tư duy, nhằm giúp
cho nhận thức của người nguyên thuỷ ngày một phát triển ở trình độ cao hơn.
Chính quá trình này đã tách con người ra khỏi đời sống động vật để trở thành

NGƯỜI với đầy đủ ý nghĩa của nó - người có năng lực “biểu trưng hoá”, một
năng lực mà bất cứ một loài sinh vật nào cũng không thể có được – “năng lực
bản chất người” – năng lực sáng tạo ra “thế giới biểu tượng”.
1.2. Tính chất và chức năng cơ bản của biểu tượng
1.2.1. Tính chất của biểu tượng
* Tính chất mơ hồ của biểu tượng
Biểu tượng có tính chất mơ hồ bởi mỗi biểu tượng có một hình thức
biểu thị nhưng lại có nhiều nội dung hàm nghĩa. Ngược lại, biểu tượng trở nên
đa nghĩa đối với hình thức biểu thị, lại rất đa dạng trong sự biểu hiện đối với
một nội dung nào đó. Tính chất đa nghĩa và đa dạng trong sự biểu thị của biểu
tượng là một đặc điểm chỉ có ở loại hình “ký hiệu hàm nghĩa”. Sự đa nghĩa và
đa dạng thức biểu hiện đã tạo nên “tính mơ hồ” của biểu tượng.
Nhìn chung, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp mang tính ẩn dụ,
khó nhận ra một cách trực tiếp về một vấn đề nào đó như niềm ham muốn,
lòng say mê hay sự sung đột. Biểu tượng là vật môi giới - mối liên kết thống

×