BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
HỒ SƠN LÂM
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN VÀ
SINH TRƯỞNG CỦA CÁ ĐỤC Sillago sihama (Forsskal, 1775) Ở
VÙNG BIỂN KHÁNH HÒA
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Nha Trang - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
HỒ SƠN LÂM
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN VÀ
SINH TRƯỞNG CỦA CÁ ĐỤC Sillago sihama (Forsskal, 1775) Ở
VÙNG BIỂN KHÁNH HÒA
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chun ngành: Ni Trồng Thủy Sản
Mã số: 60 62 03 01
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HUỲNH MINH SANG
TS. LÊ ANH TUẤN
Nha Trang - 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này được hoàn thành dựa trên những kết quả nghiên
cứu của tôi và các kết quả này chưa được dùng trong bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.
Tác giả
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo Viện Hải dương học,
Phòng Công nghệ Nuôi trồng, Trạm Thực nghiệm và Phòng Nguồn lợi Thủy sinh đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất về thời gian, giúp đỡ tôi về cơ sở vật chất và trang
thiết bị thí nghiệm để tôi hoàn thành đề tài cao học.
Xin chân thành cảm ơn Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Khoa Sau đại học Trường
Đại học Nha Trang và những thầy cô giảng dạy trong thời gian qua đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi được học tập tốt nhất, cũng như nghiên cứu nâng cao trình độ.
Tôi xin bày tỏ tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã tạo điều
kiện thuận lợi về vật chất, thời gian và luôn động viên khích lệ tinh thần cho tôi trong
suốt quá trình hoàn thành luận văn Thạc sĩ.
Đặc biệt cho tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cán bộ hướng dẫn khoa học
của tôi là TS. Huỳnh Minh Sang và TS. Lê Anh Tuấn đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn Thạc sĩ.
Xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Hồ Sơn Lâm
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vi
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG BÁO CÁO vii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Vị trí phân loại, phân bố và đặc điểm hình thái 3
1.1.1. Vị trí phân loại 3
1.1.2. Phân bố địa lý 3
1.1.3. Đặc điểm về hình thái 4
1.2. Tình hình nghiên cứu cá đục trên thế giới 5
1.2.1. Một số đặc điểm sinh học 5
1.2.1.1. Đặc điểm sinh thái và môi trường sống 5
1.2.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng 6
1.2.1.3. Đặc điểm sinh trưởng 7
1.2.1.4. Đặc điểm sinh sản 8
1.3. Tình hình nuôi cá đục 9
1.4. Vài nét về tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và sinh trưởng một
số loài cá biển ở Khánh Hòa. 10
1.4.1. Đặc điểm sinh trưởng 10
1.4.2. Đặc điểm sinh sản. 11
Chương 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 13
iv
2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 13
2.3. Phương pháp thu mẫu 14
2.4. Phương pháp phân tích mẫu 14
2.4.1. Xác định chiều dài và khối lượng 14
2.4.2. Phân tích tinh sào và buồng trứng 14
2.4.2.3. Xác định kích thước trứng và số lượng trứng giai đoạn IV 15
2.5. Phương pháp xử lý số liệu 15
2.5.1. Sinh học sinh trưởng 15
2.5.1.1. Mối tương quan chiều dài và khối lượng 15
2.5.1.2. Xác định hệ số béo 15
2.5.1.3. Lập phương trình sinh trưởng Von Bertalanffy về chiều dài của cá 16
2.5.2. Sinh học sinh sản 16
2.5.2.1. Tỷ lệ đực cái 16
2.5.2.2. Mùa vụ sinh sản 17
2.5.2.3. Kích thước thành thục lần đầu 17
2.5.2.4. Sức sinh sản 17
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 19
3.1. Đặc điểm sinh trưởng 19
3.1.1. Mối tương quan giữa chiều dài và khối lượng 19
3.1.2. Hệ số béo 21
3.1.3. Phương trình sinh trưởng Von Betalanffy 21
3.2. Đặc điểm sinh sản 23
3.2.1. Tỷ lệ đực cái 23
3.2.2. Các giai đoạn phát triển của tinh sào và buồng trứng. 24
3.2.3. Mùa vụ sinh sản 28
3.2.3.1. Tỷ lệ thành thục theo tháng 28
3.2.3.2. Hệ số thành thục 29
v
3.2.4. Kích thước thành thục lần đầu 31
3.2.5. Sức sinh sản 33
3.3. Thảo luận chung 35
1. Kết luận 38
1.1. Đặc điểm sinh trưởng 38
1.2. Đặc điểm sinh sản 38
2. Đề xuất ý kiến 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
PHỤ LỤC .
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Kích thước của cá đục theo độ tuổi của một số nghiên cứu 22
Bảng 3.2: Kích thước trứng cá đục qua các giai đoạn phát triển (n = 30). 27
Bảng 3.3: Mùa vụ sinh sản của một số loài cá biển tại Việt Nam 31
Bảng 3.4: Sức sinh sản tuyệt đối của cá đục tại một số vùng biến Ấn Độ 33
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Bảng đồ phân bố cá đục trên thế giới . 4
Hình 1.2: Cá đục sillago sihama 5
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 13
Hình 3.1: Mối tương quan giữa chiều dài và khối lượng của cá đục 19
Hình 3.2: Biến thiên hệ số béo Q của cá đục theo thời gian 21
Hình 3.3: Quá trình sinh trưởng của cá đục theo thời gian 23
Hình 3.4: Buồng trứng giai đoạn II 25
Hình 3.5: Tinh sào giai đoạn II 25
Hình 3.6: Buồng trứng giai đoạn III 25
Hình 3.7: Tinh sào giai đoạn III 25
Hình 3.8: Buồng trứng giai đoạn IV 26
Hình 3.9: Tinh sào giai đoạn IV 26
Hình 3.10: Buồng trứng giai đoạn V 26
Hình 3.11: Tinh sào giai đoạn V 26
Hình 3.12: Buồng trứng giai đoạn VI 26
Hình 3.13: Tinh sào giai đoạn VI 26
Hình 3.14: Tỷ lệ các giai đoạn của cá đục qua các tháng nghiên cứu. 28
Hình 3.15: Hệ số thành thục và tỷ lệ thành thục cá đục qua các tháng nghiên cứu. 29
Hình 3.16: Đồ thị tương quan giữa nhóm kích thước và Ln((1-P)/P). 32
Hình 3.17: Mối tương quan giữa sức sinh sản tuyệt đối và kích thước cá đục. 34
Hình 3.18: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến thiên hệ số độ béo theo thời gian 36
vii
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG BÁO CÁO
& cs:
Và cộng sự
&
Và
GĐ:
Giai đoạn
W:
Trọng lượng
L:
Chiều dài
Lt:
Chiều dài tại thời điểm t năm.
*:
Phép nhân
T:
Tháng
M:
Trung Bình
SD:
Độ lệch chuẩn
m:
Số mẫu
1
MỞ ĐẦU
Hiện nay ở Việt Nam, nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên đã bị khai thác quá mức, đặc
biệt là nguồn lợi thủy sản gần bờ. Những loài thủy sản được khai thác có giá trị kinh tế
cao đang giảm nhanh. Đồng thời, những loài thủy sản có giá trị thấp đã tăng lên nhưng
sản lượng chung đang cạn kiệt dần [12]. Nhiều ngư dân đã chuyển sang khai thác bằng
lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn hoặc từ bỏ nghề [12]. Việc đánh bắt bằng lưới có
kích thước mắt lưới nhỏ là một hình thức khai thác mang tính hủy diệt. Một số ngư dân đã
chuyển sang khai thác xa bờ. Tuy nhiên, khai thác xa bờ cần có vốn đầu tư lớn đồng thời
cũng đang đối diện với nhiều rủi ro [12]. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là việc khai thác quá mức, không có kế hoạch quản lý khai thác bền vững và
thân thiện với môi trường. Nâng cao khả năng quản lý đang là vấn đề cấp bách [12] và để
có biện pháp khai thác bền vững thì cần phải dựa trên các thông tin về sinh học sinh sản
và sinh trưởng của các loài thủy sản.
Một trong những đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao mà sản lượng khai thác
suy giảm đó là cá đục Silago sihama. Trên thị trường mức giá của cá đục dao động từ
80.000 – 220.000 (đồng/kg). Trước đây tại vùng biển Khánh Hòa, cá đục có sản lượng
tương đối cao, đã được một số công ty xuất khẩu thu mua. Nhưng hiện nay, sản lượng cá
đục đã giảm đáng kể, cá đục đánh bắt có kích thước tương đối nhỏ và ngày càng khan
hiếm tại các chợ cá, bến cá. Nhu cầu cá đục đã vượt quá sức cung của thị trường. Sản
lượng cá đục không cung cấp đủ cho nhu cầu của các công ty xuất khẩu cũng như người
dân. Việc khai thác không có quy hoạch loài cá đục ở Khánh Hòa đã làm cho nguồn lợi
loài cá này ngày càng suy giảm. Trong tình hình như thế, việc bảo tồn và quản lý nguồn
lợi loài cá đục trở nên rất cấp thiết. Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản - sinh trưởng
làm định hướng cho việc khai thác bền vững và đưa cá đục thành đối tượng nuôi mới
được coi là biện pháp hữu hiệu nhất trong công tác quản lý thủy sản đối với đối tượng
này. Các thông số sinh sản như kích thước thành thục lần đầu, hệ số thành thục, sức sinh
sản, tỷ lệ giới tính và các thông số sinh trưởng có giá trị lớn trong dự báo thủy sản và xây
dựng các biện pháp quản lý [20]. Các chỉ số sinh học sinh sản và sinh trưởng cũng rất cần
thiết và quan trọng làm cơ sở khoa học để xây dựng qui trình sinh sản nhân tạo.
2
Tuy nhiên, hiện nay các thông tin nghiên cứu về cá đục ở Việt Nam rất ít, đồng
thời chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản và sinh trưởng của
cá đục vùng biển Khánh Hòa được công bố.
Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh
học sinh sản và sinh trưởng của cá đục Sillago sihama (Forsskal, 1775) ở vùng biển
Khánh Hòa”.
Mục tiêu của đề tài:
Xác định các thông số sinh học sinh sản và sinh trưởng của cá đục ở vùng biển
Khánh Hòa làm cơ sở đề xuất biện pháp khai thác hợp lý loài cá này và cung cấp dẫn liệu
cho nghiên cứu sinh sản nhân tạo.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm cơ sở khoa học cho những định hướng khai
thác bền vững loài cá đục ở vùng biển Khánh Hòa.
Thông tin từ kết quả nghiên cứu sẽ làm dẫn liệu khoa học để xây dựng qui trình
sinh sản nhân tạo, tạo con giống để phát triển đối tượng nuôi mới.
Nội dung nghiên cứu:
- Xác định đặc điểm sinh học sinh trưởng
+ Mối tương quan giữa chiều dài và khối lượng.
+ Hệ số béo.
+ Các thông số trong phương trình Von Betalanffy áp dụng cho cá đục.
- Xác định đặc điểm sinh học sinh sản
+ Các giai đoạn phát triển buồng trứng.
+ Tỷ lệ đực cái.
+ Mùa vụ sinh sản: hệ số thành thục, tỷ lệ thành thục theo tháng.
+ Kích thước thành thục lần đầu.
+ Sức sinh sản.
3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vị trí phân loại, phân bố và đặc điểm hình thái
1.1.1. Vị trí phân loại
Theo Shamsan (2008) [74], cá đục có vị trí phân loại như sau:
Ngành có Dây sống: Chordata
Lớp cá xương: Osteichthyes
Bộ cá vược: Perciformes
Họ cá đục: Sillaginidae
Giống: Sillago
Loài: Sillago sihama (Forsskal, 1775)
Tên tiếng Anh: Silver sillago, Sand whiting.
Tên Việt Nam: Cá đục biển
Tên địa phương: Cá đục, cá đục bạc, cá đục trắng
Các đồng danh (Synonym):
- Atherina sihama Forsskal, 1775
- Pltycephalus sihama Bloch and Schneide, 1801
- Sillago acuta, Cuvier, 1817
- Silago sihama, Ruppell, 1827
- Sillago erythraea, Cuvier, 1829
- Sillago malabarica, Cantor, 1849
- Silago sihama, Day, 1889
Kết quả nghiên cứu ở Ấn Độ của McKay (1976) [57], Dutt và Sujatha (1980) [31],
cho thấy họ Sillaginidae gồm 8 loài: Silago sihama, S. vincenti, S. parvisquamis, S.
macrolepis, S. argentifasciata, S. maculata, S. chandropus và S. panijus.
1.1.2. Phân bố địa lý
Họ Sillaginidae phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, tuy nhiên vẫn có một số loài
phân bố ở vùng ôn đới của miền Nam nước Úc và Đông Bắc Á [36]. Họ Sillaginidae phân
bố ở phía Tây của khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, từ biển Đỏ, bờ biển châu Phi,
Madagascar qua Ấn Độ đến bờ biển của Trung Quốc, Nhật Bản, Phi-líp-pin, quần đảo Ấn
độ-Úc và Úc đến đảo Bougainville [28, 58, 81].
4
Hình 1.1: Bảng đồ phân bố cá đục trên thế giới [83].
(Ghi chú: Màu vàng, hồng, đỏ là sự phân bố của cá đục theo mật độ tăng dần)
Cá đục đã được ghi nhận phân bố ở vùng Địa Trung Hải, bờ biển Labenon [61] và
Thổ Nhĩ Kỳ [34]. Cá đục được tìm thấy ở vùng biển của châu Phi [62], vùng biển của
Trung Quốc [45], Nhật Bản [49] và Phi-líp-pin [48]. Tại Ấn Độ dọc theo bờ biển phía Tây
và bờ biển phía Đông [20].
Họ Sillaginidae sống ở vùng nông có đáy cát ở bờ biển, con lạch, vịnh và cửa sông.
Chúng ít xuất hiện ở các quần đảo ngoài đại dương và môi trường rạn san hô, mặc dù ít
nhất hai loài được tìm thấy ở rạn san hô trong đó có cá đục [82].
1.1.3. Đặc điểm về hình thái
Cá đục Silago sihama có cơ thể thon dài, mõm nhọn, phía trên của đầu hơi lồi,
miệng nhỏ. Vây lưng đầu tiên cao hơn so với vây lưng thứ hai. Vây lưng thứ nhất có 11
gai; vây lưng thứ hai có 1 gai và 20 - 23 tia mềm. Đường bên có 50 đến 84 vảy; có 5 đến
6 hàng vảy ở trên đường bên và 9 đến 10 hàng vảy dưới đường bên. Lưng có màu nâu
nhạt, hai bên sườn bụng nhạt hơn, bụng màu trắng bạc và không có vệt đen. Cả hai vây
lưng và đuôi có màu sẫm, các vây khác nhạt màu hơn [74].
5
Hình 1.2: Cá đục sillago sihama [84].
1.2. Tình hình nghiên cứu cá đục trên thế giới
1.2.1. Một số đặc điểm sinh học
1.2.1.1. Đặc điểm sinh thái và môi trường sống
Một số nghiên cứu nhằm xác định đặc điểm sinh học sinh thái và môi trường của
cá đục đã được thực hiện. Cá đục là loài sống gần bờ thường xuyên thâm nhập vào các
cửa sông. Cá đục cũng đã được ghi nhận xuất hiện ở khu vực nước ngọt [35, 55]. Chúng
phân bố dọc theo bãi biển, bãi cát, suối rừng ngập mặn và cửa sông, nhưng rất hiếm khi bị
bắt bởi tàu đánh cá. Điều này là do tập tính sinh học của cá đục, vì chúng có thể chôn
mình trong cát khi gặp nguy hiểm [56] và thường tránh vây lưới bằng cách này [43].
Chúng phân bố ở độ sâu từ 0 đến 20 (m), hiếm khi bắt gặp ở độ sâu 60 (m) [74]. Cá đục
thuộc loài cá nhiệt đới, chúng thường phân bố trong vùng có nhiệt độ từ 26
o
C đến 29
o
C
[23]. Ấu trùng của Stolephorus spp. và Sillago sihama được thu thập trong cuộc khảo sát
thực hiện ở các vùng nước ven biển ngoài khơi phía Tây Bắc của Đài Loan bởi Chan & cs
(1985) [27]. Các nghiên cứu về trứng và cá bột của cá đục từ vùng Mandapam, Ấn Độ
được thực hiện bởi Bensam (1990) [21]. Kết quả nghiên cứu cho thấy trứng cá đục là
trứng nổi, có một giọt dầu với đường kính giọt dầu dao động trong phạm vi 0,150 - 0,167
(mm). Ấu trùng mới nở có chiều dài 1,54 (mm) sau 24h kích thước cá bột đạt 2,42 (mm),
sau 48h cá bột có kích thước 2,56 (mm). Thành phần loài thay đổi theo mùa của các loài
cá khác nhau trong đó có cá đục tại đảo Manpeng, Đài Loan cũng đã được công bố [53].
Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá vai trò sinh thái của các hệ sinh thái rừng ngập
mặn trong nghề khai thác thuộc vùng lạch Gazan, Kenya. Kết quả đã ghi nhận, cá đục là
6
một trong các loài cá phổ biến nhất ở khu vực này [64]. Từ kết quả của các nghiên cứu
trên cho thấy cá đục thường phân bố trong vùng nước có nhiệt độ dao động từ 26
o
C đến
29
o
C, dọc theo bãi biển, bãi cát, suối rừng ngập mặn, cửa sông và nơi có độ sâu từ 0 đến
20 (m).
1.2.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng
Thức ăn chủ yếu của cá đục tại vịnh Manaar, Ấn Độ chủ yếu của cá đục là giun
nhiều tơ (Marphysa, Perinereis, Nereis), tôm (Penaeus), một số loài giáp xác (Ocypoda,
Alpheusand Gonodactylus) và amphipods [24,25]. Cá đục nhỏ thường ăn tảo sợi. Theo
nghiên cứu được tiến hành tại vùng vịnh Sillaginid Palk và vịnh Mannar, Ấn Độ thì các
mẫu ruột cá đục thường chứa các loại giun nhiều tơ và giáp xác nhỏ [43]. Nghiên cứu của
Shamsan (2008) [74], chỉ ra rằng giáp xác là nguồn thức ăn quan trọng nhất so với các
loại thức ăn khác trong dạ dày của cá đục vùng Zuari Estuary, Ấn Độ. Nghiên cứu này
phù hợp với nghiên cứu của Gowda & cs (1988), tại vùng Mangalore, Ấn Độ. Kết quả
nghiên cứu đó cho thấy copepoda là thức ăn chủ yếu của cá đục trong mùa xuân, cua là
thức ăn chủ yếu trong mùa hè. Sự khác biệt đó có lẽ là do sự phong phú của nhóm chân
chèo và cua trong giai đoạn này [33]. Điều này cho thấy, nguồn thức ăn tự nhiên của cá
chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi sinh học theo thời gian, làm thay đổi cấu trúc của
chuỗi thức ăn trong năm. Và như là một hệ quả tất yếu thường thì chế độ ăn của cá thay
đổi theo mùa [46]. Taghavi Motlagh & cs (2012) [77], đã tiến hành nghiên cứu về thành
phần thức ăn trong dạ dày của cá đục ở vùng phía Bắc vịnh Ba Tư. Kết quả nghiên cứu
này cho thấy cá đục ăn các loài tảo (tảo khuê, tảo lam) và trùng hai roi là nguồn thức ăn
chính có nguồn gốc thực vật. Trong đó tảo khuê là thức ăn thích hợp nhất có nguồn gốc
thực vật, nó chiếm đến 59,5% trong tổng số 60,8% tổng số thức ăn có nguồn gốc thực vật.
Các loài giáp xác bao gồm cua, ấu trùng cua, tôm, nhóm chân chèo, trứng và ấu trùng các
loại là những thành phần thức ăn được tìm thấy trong dạ dày của cá đục có nguồn gốc
động vật. Sở dĩ nguồn thức ăn chính của cá đục ở mỗi khu vực có sự sai khác là do cá đục
thuộc loài ăn tạp đồng thời điều kiện tự nhiên của mỗi vùng khác nhau điều này kéo theo
lượng thức ăn chính của cá đục ở mỗi khu vực nghiên cứu có sự sai khác.
Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn thức ăn của cá đục là sinh vật phù du,
sinh vật đáy và một số loài giáp xác. Thức ăn chủ yếu của cá đục là các loài giáp xác bao
7
gồm cua, ấu trùng cua, tôm, nhóm chân chèo, trứng, ấu trùng các loại; giun nhiều tơ
(Marphysa, Perinereis, Nereis); tảo khuê, tảo lam và trùng hai roi.
1.2.1.3. Đặc điểm sinh trưởng
Tại Ấn Độ đặc điểm sinh trưởng của cá đục đã được nghiên cứu tương đối nhiều.
Theo nghiên cứu của Radhakrishnan (1954) [69], tại vùng Mandapam thì cá đục có tốc độ
trưởng nhanh, cá đục đạt chiều dài từ 130 đến 140 (mm) khi đạt 1 năm tuổi, từ 160 đến
200 (mm) sau 2 năm, từ 200 đến 240 (mm) sau 3 năm và từ 240 đến 280 (mm) khi 4 tuổi.
Radhakrishnan (1957), đã tiến hành nghiên cứu về mối tương quan giữa chiều dài và khối
lượng của cá đục thuộc khu vực Mandapam. Theo kết quả nghiên cứu trên, mối quan hệ
này được biểu diễn dưới dạng W = 0,01504 * L
2,8862
[70]. Jayasankar (1991), đã tiến hành
nghiên cứu về mối tương quan giữa chiều dài và khối lượng của cá đục ở vùng vịnh
Sillaginid Palk và vịnh Mannar[43]. Theo kết quả nghiên cứu Jayasankar (1991), phương
trình tương quan giữa chiều dài và khối lượng có dạng:
Cá đực: log W= - 5,1774 + 3,0305 * log L, R
1
= 0,96.
Cá cái: log W = - 5,4248 + 3,1445 * log L, R
2
= 0,98.
Mio (1965), đã nghiên cứu về tuổi và tốc độ tăng trưởng của S. sihama vùng biển
Nhật Bản [59]. Reddy và Neelakantan (1992) đã xác định mối tương quan giữa chiều dài
và độ tuổi của cá đục ở vùng biển Karwar [72]. Thông tin về mối tương quan chiều dài -
khối lượng và các yếu tố môi trường của cá đục đã được nghiên cứu bởi Gowda & cs
(1988) [43], Jayasankar (1991) [33] và Reddy (1991) [71]. Gần đây, Annappaswamy & cs
(2004), đã nghiên cứu về mối tương quan chiều dài - khối lượng của S. sihama ở vùng
cửa sông Mulki, Mangalore [17]. Năm 2008, Shamsan đã tiến hành nghiên cứu các thông
số của phương trình Von Betalanffy áp dụng cho cá đục vùng Zuari Estuary, Ấn Độ. Theo
kết quả nghiên cứu của Shamsan (2008) [74], phương trình sinh trưởng về chiều dài Von
Bertalanffy của cá đục có dạng:
L
t
= 388 * [1- e
-0,1526 * (t- (-1,6))
] [74].
Theo các thông tin thu thập, đặc điểm sinh trưởng của cá đục đã được nghiên cứu
tương đối nhiều ở Ấn Độ về mối tương quan chiều dài – khối lượng cũng như các thông
số sinh trưởng của phương trình Von Betalanffy. Tuy nhiên, thông tin này còn rất hạn chế
tại một số khu vực ở Châu Úc và phía Đông Châu Á trong đó có Việt Nam. Vì vậy, tiến
8
hành nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh trưởng cá đục vùng biển Khánh Hòa là rất cần
thiết.
1.2.1.4. Đặc điểm sinh sản
Hiện nay, cá đục đã được nghiên cứu tương đối nhiều ở Ấn độ về sinh học, nguồn
lợi và sinh sản nhân tạo. Palekar và Bal (1961), Gowda & cs (1988), đã nghiên cứu một
số đặc điểm về sinh học sinh sản của loài cá này [33, 65]. Kumai & Nakamura (1978), đã
nghiên cứu cho sinh sản S. sihama trong phòng thí nghiệm, nghiên cứu này chỉ ra rằng
khả năng sinh sản có thể xảy ra ở tần số gần như bằng nhau không phân biệt kích thước
của cá đẻ trứng. Tuy nhiên, tổng số lượng trứng trong thời kỳ sinh sản phụ thuộc chủ yếu
vào kích thước hay tuổi [51]. Palekar và Bal (1961), tiến hành nghiên cứu về sự thành
thục, mùa vụ sinh sản, sức sinh sản và tuổi thành thục lần đầu của cá đục ở vùng Karwar,
Ấn Độ [65]. Gowda & cs (1988), đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sinh sản của S.
sihama ở Ấn Độ, kết quả cho thấy cá đục có sức sinh sản tốt nhất khi chiều dài đạt 150
mm đối với cá đực và 250 (mm) đối với cá cái. Khả năng sinh sản của S. sihama liên quan
đến tổng chiều dài, khối lượng cơ thể và khối lượng của buồng trứng đã được ghi nhận
bởi Reddy (1991) thực hiện tại vùng Karwar [71]. Jayasankar (1991), đã có báo cáo về
quá trình thành thục sinh dục và đẻ trứng của cá đục bạc tại 2 vịnh Sillaginid Palk và vịnh
Mannar [43]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả Gowda & cs (1988), Jayasankar (1991),
Jayasankar & Alagarswami (1993), tại Ấn Độ chỉ ra rằng cá đục là loài cá đẻ nhiều lần
trong năm [33, 43, 44]. Điều này đã được kiểm chứng bởi nghiên cứu của Shamsan
(2008), kết quả nghiên cứu cho thấy cá đục là loài đẻ quanh năm trong đó nó có mùa sinh
sản kéo dài [74].
Không có sự tương đồng về kích thước thành thục lần đầu của cá đục trong các
nghiên cứu trước đây được thực hiện tại các khu vực khác nhau của Ấn Độ. Kết quả
nghiên cứu tại vịnh Manaar của Chacko (1950), trên cá đục cho thấy kích thước thành
thục lần đầu là 235 (mm) ở con cái và 224 (mm) ở con đực [26], kết quả nghiên cứu này
lớn hơn nhiều so với nghiên cứu của Radhakrishnan (1957) [70]. Theo nghiên cứu của
Radhakrishnan (1957), thực hiện tại vùng Mandapam thì cá đục thành thục lần đầu khi đạt
kích thước 130 (mm). Thông tin về kích thước thành thục lần đầu của cá đục còn được
ghi nhận bởi các nghiên cứu của James & cs (1976), đối với cá đục vùng phía Nam khu
9
vực Kanara [39]; Krishnamurthy và Kaliyamurthy (1978), đối với cá đục vùng Pulicat
[50]; Jayasankar (1991), thực hiện nghiên cứu tại vịnh Sillaginid Palk và Mannar [43] và
Shamsan (2009), đối với cá đục vùng Zuari Estuary [75].
Tuổi thành thục lần đầu của cá đục có sự sai khác giữa các nghiên cứu trước đây.
Theo kết quả nghiên cứu thực hiện tại vùng Mandapam của Radhakrishnan (1957), thì
tuổi thành thục lần đầu của cá đục là 1
+
[70], trong khi kết quả nghiên cứu của Shamsan
(2008) [74], thực hiện tại vùng Zuari Estuary cho rằng tuổi thành thục của cá đục là 2
+
.
Hệ số thành thục, mùa vụ sinh sản, kích thước thành thục lần đầu và một số chỉ tiêu khác
của cá đục đã được nghiên cứu bởi Shamsan (200) [75].
Các kết quả nghiên cứu về sức sinh sản tuyệt đối của cá đục có sự khác biệt giữa
các tác giả: Palekar và Bal (1961), thực hiện nghiên cứu tại vùng Karwar, Ấn Độ cho rằng
sức sinh sản tuyệt đối của cá đục dao động trong phạm vi 16.682 – 166.130 (trứng/cá cái)
[65], kết quả nghiên cứu của Jayasankar (1991) thì chỉ số này dao động trong phạm vi
6.956 – 48.373 (trứng/cá cái) đối với cá đục vịnh Sillaginid Palk và Mannar [43], còn kết
quả nghiên cứu được thực hiện tại vùng Mangalore, Ấn Độ của Gowda (1988) thì sức
sinh sản tuyệt đối của cá đục dao động trong khoảng 31.678 - 288.000 (trứng/cá cái) [33].
Thông tin về đặc điểm sinh học sinh sản của cá đục được nghiên cứu tương đối
nhiều ở Ấn Độ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về các đặc
điểm sinh học sinh sản cá đục vùng biển Khánh Hòa được công bố.
1.3. Tình hình nuôi cá đục
Theo các thông tin sinh học nghiên cứu bởi Bal và Rao (1984), cá đục có khả năng
thích nghi được trong phạm vi rất rộng về độ mặn [20]. Vì thế, cá đục là đối tượng nuôi
phù hợp trong cả nước mặn, nước lợ và nước ngọt [74]. Trong thời gian qua, cá đục đã
được xem xét nuôi trong cả hai hệ thống nước mặn [29, 39, 40, 42, 74] và nước ngọt [18].
James & cs (1976), đã tiến hành thử nghiệm nuôi và cho sinh sản S. sihama trong vùng
nước lợ ở miền Nam Kanara, Ấn Độ [39].
Lợi thế của việc nuôi cá đục là có thể tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên đồng
thời có thể nuôi ghép với một số đối tượng khác. Chúng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn
khác nhau và có thể được cung cấp trực tiếp từ môi trường [74]. Cá đục không thuộc loài
cá dữ nên nó có thể được nuôi ghép với các loài cá khác. Một số thí nghiệm đã được thực
10
hiện để nuôi ghép đối tượng này. Tại Mangalore, Ấn Độ, cá đục được nuôi với cá măng
(Chanos Chanos), cá đối (Liza macrolepis), và tôm he Ấn Độ. Kết quả thu được tăng
trưởng trung bình hàng tháng là 10,6; 57,4; 28,2 (mm) tương ứng được ghi nhận. Tại
Tuticorin, Ấn Độ cá măng (Chanos Chanos), cá đối (Valamugil seheli) và cá đục đã được
nuôi ghép và có tăng trưởng trung bình hàng tháng được ghi nhận là 22,7; 26,9 và 16,8
(mm) tương ứng [74]. Cá dìa, cá mú và cá đục được nuôi ghép trong cùng một lồng nuôi
[41]. Kết quả nghiên cứu này cho thấy tăng trưởng trung bình hàng tháng của cá đục là 10
(mm). Các kết quả của những thí nghiệm trên đáng khích lệ.
Do sự phong phú tự nhiên của cá đục và nhu cầu của thị trường địa phương, cũng
như xuất khẩu, nghề nuôi cá đục nên được nghiên cứu với một quy mô lớn ở vùng biển
Khánh Hòa. Điều này sẽ làm tăng năng suất và tạo ra các cơ hội việc làm cho cộng đồng
ngư dân. Vậy nghiên cứu về đặc điểm sinh học và sinh trưởng của cá đục làm cơ sở cho
các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để chuyển đổi cá đục thành đối tượng nuôi mới.
1.4. Vài nét về tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và sinh trưởng
một số loài cá biển ở Khánh Hòa.
1.4.1. Đặc điểm sinh trưởng
Một số đặc điểm sinh trưởng của một số loài cá biển đã được tiến hành nghiên cứu
tại Viện Hải dương học. Đặc điểm về sinh trưởng của cá khoang cổ tím (Amphiprion
perideration) vùng biển Khánh Hòa đã được nghiên cứu bởi Hà Lê Thị Lộc và Nguyễn
Thị Quỳnh Ngọc (2007) [6]. Theo đó mối tương quan giữa chiều dài và khối lượng của cá
khoang cổ tím có dạng: W = 10
-5
*L
3,1672
(R
2
= 0,9805), cá có độ tuổi 1
+
, 2
+
, 3
+
, 4
+
và 5
+
có chiều dài tương ứng là 69,34; 103,3; 119,3; 126,8 và 130,3 (mm). Võ Văn Quang & cs
(2007) [11], đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng của cá lầm tròn nhẳng
Spratelloides gracilis ở vùng biển Khánh Hòa. Theo đó, mối tương quan giữa chiều dài -
khối lượng và phương trình sinh trưởng Von Betalanffy của cá lầm tròn nhẳng lần lượt có
dạng:
L = 48*10
-4
*W
3,27
Lt = 94,5*[1-e
-4,2*(t-to)
]
Thông tin từ nghiên cứu của Phạm Quốc Hùng (2010), cá chẽm mõm nhọn sinh
trưởng tương đối chậm. Trong cùng thời gian và điệu kiện môi trường sống thì con cái
11
sinh trưởng nhanh hơn con đực. Chiều dài trung bình của con cái ở độ tuổi 2
+
và 4
+
lần
lượt là 243 và 269 (mm) trong khi con đực chỉ là 223 và 247 (mm) tương ứng [1].
1.4.2. Đặc điểm sinh sản.
Năm 1995, Võ Ngọc Thám đã tiến hành điều tra một số đặc điểm sinh học sinh sản
của cá Chẽm Lates calcarifer ở đầm Nha Phu, Khánh Hòa. Theo thông tin điều tra, cá
chẽm có sức sinh sản tuyệt đối là 2.857.400 (trứng/cá cái) và sức sinh sản tương đối là
438.288 (trứng/kg cá cái) [14]. Một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá chẽm mõm nhọn
đã được nghiên cứu bởi Phạm Quốc Hùng (2010) [1]. Kết quả nghiên cứu cho thấy cá
chẽm mõm nhọn thuộc loài cá đẻ nhiều lần trong năm, chúng có mùa sinh sản chính kéo
dài từ tháng 3 đến tháng 10. Trong mùa sinh sản, tinh sào và buồng trứng có sự tồn tại
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Chỉ số GSI có sự biến động giữa các giai đoạn phát
triển của buồng trứng cũng như trong chu kỳ sinh sản. Đồng thời theo thông tin của tác
giả, sức sinh sản tuyệt đối của cá chẽm mõm nhọn dao động từ 140.000 đến 327.600
(trứng/cá cái) và sức sinh sản tương đối của chúng dao động từ 636 đến 819 (trứng/g cá
cái). GSI của cá đực và cá cái lần lượt dao động từ 1 đến 4,3 % và 0,6 đến 6,3 % [1].
Hà Lê Thị Lộc & cs (2005), đã tiến hành nghiên cứu cơ sở sinh thái, sinh học phục
vụ cho sinh sản nhân tạo cá khoang cổ (Amphiprion sp) vùng biển Khánh Hòa [4], nghiên
cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá khoang cổ đỏ Amphiprion frenatus [5]. Từ đó đã tiến
hành các nghiên cứu tiếp theo và đã cho sinh sản nhân tạo thành công loài cá khoang cổ
đỏ và cá khoang cổ nemo, chủ động sản xuất được cá cảnh thương phẩm, cung cấp cho thị
trường cá cảnh trong nước và xuất khẩu sang các nước châu Âu. Ngoài ra, sản phẩm cũng
đã được thả phục hồi tại khu vực bảo tồn nguồn lợi tự nhiên đảo Hòn Mun, tỉnh Khánh
Hòa. Võ Văn Quang & cs (2007), đã tiến hành nghiên cứu về đặc điểm sinh học loài cá
lầm tròn nhẳng Spratelloides gracilis ở vùng biển Nha Trang - Khánh Hòa [10]. Kết quả
đã nghiên cứu được tỷ lệ đực cái trong tự nhiên là 1:1, với mùa sinh sản tương đối dài mà
đỉnh cao là tháng 3 và tháng 4, kích thước thành thục lần đầu của con cái là 52 (mm).
Nguyễn Địch Thanh (2011) [13], đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm sinh
học sinh sản của cá hồng bạc tại vùng biển Khánh Hòa. Kết quả nghiên cứu này cho thấy,
cá hồng bạc bắt đầu tham gia sinh sản khi đạt độ tuổi 3
+
, khi đó chiều dài trung bình và
khối lượng của cá đực và cá cái lần lượt là: 47,89 ± 3,79 (cm); 2,19 ± 0,38 (kg/con) và
12
51,13 ± 4,29 (cm); 2,50 ± 0,28 (kg/con). Cá hồng bạc có sức sinh sản tương đối là 165,98
± 603,72 (trứng/gam), sức sinh sản tuyệt đối dao động trong khoảng 583.209 - 4.857.650
(trứng/cá cái). Mùa vụ sinh sản của loài cá này tại vùng biển Khánh Hòa bắt đầu từ tháng
4 đến tháng 9, trong đó thời gian cá đẻ tập trung là từ tháng 6 đến tháng 9. Kết quả nghiên
cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của loài cá này đã làm cơ sở dữ liệu cho tác giả
tiến hành thử nghiệm thành công trong sinh sản nhân tạo loài cá hồng bạc ngay sau đó.
Điều này cho thấy vai trò quan trọng của việc nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của
một loài cá là hết sức cần thiết để làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo, đặc biệt là
cơ sở bước đầu để tiến hành sinh sản nhân tạo.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào về đặc điểm sinh học sinh sản và
sinh trưởng của cá đục silago sihama ở vùng biển Khánh Hòa. Vì vậy, việc nghiên cứu
các đặc điểm sinh học sinh sản và sinh trưởng của cá đục là cần thiết nhằm cung cấp dẫn
liệu cho các nghiên cứu tiếp theo để xây dựng quy trình sinh sản nhân tạo và đề xuất các
giải pháp khai thác hợp lý loài cá này.
13
Chương 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cá đục Silago sihama (Forsskal, 1775).
Thời gian: Từ tháng 06/2012 - 05/2013.
Địa điểm nghiên cứu: Viện Hải dương học.
Địa điểm thu mẫu: Đầm Nha Phu thuộc tỉnh Khánh Hòa.
2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và sinh trưởng
của cá đục Silago sihama (Forsskal, 1775)
ở vùng biển Khánh Hòa
Đặc điểm sinh sản
Đặc điểm sinh trưởng
-Tỷ
lệ
đực
cái
-Các
giai
đoạn
phát
triển
của
tinh
sào và
buồng
trứng
-Mùa vụ
sinh sản:
hệ số
thành
thục, tỷ
lệ thành
thục theo
tháng
- Sức
sinh
sản
-Kích
thước
thành
thục
lần
đầu
- Mối
tương
quan
chiều
dài và
khối
lượng
-Hệ
số béo
-Các thông
số trong
phương
trình Von
Betalanffy
áp dụng
cho cá đục
Kết luận
và đề xuất ý kiến
14
2.3. Phương pháp thu mẫu
Tiến hành thu mẫu cá đục từ đầm Nha Phu, Khánh Hòa. Mẫu được thu trực tiếp từ
các thúng dùng để vận chuyển cá từ ghe vào. Định kỳ thu mẫu 1 lần/tháng, thu trong 12
tháng liên tiếp, mỗi lần thu từ 30 mẫu trở lên. Mẫu được đưa về phòng thí nghiệm để phân
tích. Tổng số mẫu thu được sau 12 tháng là 400.
2.4. Phương pháp phân tích mẫu
2.4.1. Xác định chiều dài và khối lượng
Chiều dài cá được xác định bằng thước mica 50 (cm) Deli - 6250 có độ chính xác
đến 0,1 (mm). Chiều dài toàn thân của cá được đo từ mút mõm đến hết vây đuôi dài nhất.
Khối lượng cá, cá đã bỏ nội quan và tinh sào và buồng trứng được xác định bằng
cân điện tử TE412 của Canada có độ chính xác đến 0,01 (g).
2.4.2. Phân tích tinh sào và buồng trứng
2.4.2.1. Phương pháp xác định và mô tả các giai đoạn của tinh sào và buồng
trứng
Các giai đoạn phát triển của tinh sào và buồng trứng cá đục được xác định dựa vào
hình thái bên ngoài, theo thang 6 bậc theo phương pháp của Nikolsky (1963) [9, 63].
Tổ chức học của tinh sào và buồng trứng được mô tả theo phương pháp của Xakun
và Buskaia (1968) [16].
2.4.2.2. Phương pháp làm tiêu bản trên tổ chức mô học tinh sào và buồng trứng
Tiêu bản mô học tinh sào và buồng trứng được tiến hành theo phương pháp của
Patki & cs (1989) [66], gồm các bước chính sau:
- Cố định mẫu tinh sào và buồng trứng
- Chuẩn bị mẫu
- Đúc parafin
- Cắt lát mẫu
- Nhuộm Hematoxylin và Eosin
- Làm trong mẫu
15
Mỗi giai đoạn của tinh sào và buồng trứng được làm 3 tiêu bản, tổng số tiêu bản là
33. Các tiêu bản được quan sát dưới kính hiển vi Olympus CX 31 và được chụp bằng máy
ảnh Canon Powershot A2200.
2.4.2.3. Xác định kích thước trứng và số lượng trứng giai đoạn IV
Kích thước trứng qua các giai đoạn được đo bằng kính hiển vi Olympus BX41.
Mỗi giai đoạn đo 30 trứng. Giai đoạn I, II được quan sát dưới vật kính x10 và thị kính
x10. Giai đoạn III, IV và V được đo quan sát dưới vật kính x4 và thị kính x10.
Số lượng trứng của 30 buồng trứng giai đoạn IV được xác định bằng kính hiển vi
Olympus CX31, dưới vật kính x4 và thị kính x10. Xác định số lượng trứng của buồng
trứng bằng cách lấy 3 mẫu ở 3 phần khác nhau (đầu, giữa, cuối) của buồng trứng với khối
lượng ≤ 0,4 g/mẫu. Tách trứng ở 3 mẫu sau đó hòa chung 3 mẫu vào 10ml nước, khuấy
đều mẫu, khi trứng đang đảo đều thì dùng ống hút, hút lấy 1ml bỏ vào buồng đếm. Đếm 3
lần mỗi mẫu rồi ta lấy giá trị trung bình của mỗi lần đếm. Kết quả này dùng để tính sức
sinh sản tuyệt đối và tương đối. Đếm tất cả 30 buồng trứng.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
2.5.1. Sinh học sinh trưởng
2.5.1.1. Mối tương quan chiều dài và khối lượng
Dựa vào số đo về chiều dài và khối lượng để xác định tương quan chiều dài – khối
lượng của cá đục theo phương trình của Beverton – Holt (1957) [22]:
W = a * L
b
Trong đó:
W: Khối lượng toàn thân (g).
L: Chiều dài của cá đo từ mút mõm đến hết vây tia đuôi dài nhất (mm).
a; b: Là các hệ số cần xác định, tính theo phương pháp tính toán hồi quy
thực nghiệm.
2.5.1.2. Xác định hệ số béo
Dựa vào số đo chiều dài và khối lượng để xác định hệ số béo của cá đục theo
phương pháp của Fulton (1902) [7]:
16
Trong đó:
Q: Hệ số béo.
W: Khối lượng toàn thân (g).
L: Chiều dài của cá đo từ mút mõm đến hết vây tia đuôi dài nhất (mm).
2.5.1.3. Lập phương trình sinh trưởng Von Bertalanffy [47] về chiều dài của cá
L
t
= L
∞
* [1 – e
-k*(t-to)
]
Trong đó:
to: Thời gian lý thuyết ở chiều dài cá bằng 0.
t: Thời gian (năm).
L
∞
: Chiều dài cực đại của cá.
b: Hệ số tương quan theo phương trình của Berton –Holt.
k: Hệ số đường cong của phương trình.
Các giá trị L
∞
, k và to của phương trình được xác định trên cơ sở xử lý số
liệu thu được qua các phương trình tính toán thực nghiệm.
Các thông số của phương trình sinh trưởng Von Bertalanffy được tính toán bằng
phương pháp ELEFAN I, dựa trên tần số xuất hiện chiều dài.
2.5.2. Sinh học sinh sản
2.5.2.1. Tỷ lệ đực cái
Thống kê số lượng cá thể đực và cá thể cái thu thập được trong mỗi tháng. Tất cả
các mẫu đều giải phẫu để thu tinh sào và buồng trứng nhằm xác định giới tính của cá đục.
Xác định tỷ lệ đực cái theo công thức sau:
Tỷ lệ cá thể đực = (a/c) * 100(%)
Tỷ lệ cá thể cái = (b/c) * 100(%)
Tỷ lệ đực cái = 1:(b/a)
Trong đó:
a: Số cá thể đực thu được.
b: Số cá thể cái thu được.