CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN CHÍNH TRỊ HỌC
1. Khái niệm hệ thống chính trị, đặc điểm, tính chất và vai trò của các bộ phận cấu thành
hệ thống chính trị. Phân loại và các mô hình hệ thống chính trị, tính chất và các đặc điểm của
các mô hình.
Hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị. Bởi vì nó là tổng hợp
những vấn đề của thực tiễn chính trị, của đời sống chính trị. Hơn nữa những vấn đề đó không phải
được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái
phát sinh, phát triển, có chủ thể, đối tượng, với các mối quan hệ chức năng, theo những vị trí vai trò nhất
định; có "đầu vào" và "đầu ra"; có nội dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất Vì vậy, hiện nay
quan niệm về hệ thống chính trị còn rất khác nhau, phụ thuộc vào khuynh hướng, trường phái chính trị
học khác nhau, nhưng HTCT vẫn là một trong những phạm trù trung tâm của chính trị học hiện đại.
Chúng ta có thể định nghĩa: HTCT là tổ hợp có tính chỉnh thể các thế chế chính trị (các cơ
quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị các tổ chức và các phong trào xã hội) được xây dựng
trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành
theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.
HTCT được cấu thành từ nhiều bộ phận chức năng khác nhau. Có thể coi mỗi bộ phận đó là
một tiểu hệ thống của HTCT. Như vậy, cấu trúc của HTCT được chia thành như sau:
- Tiểu hệ thống thể chế,
- Tiểu hệ thống quan hệ,
- Tiểu hệ thống cơ chế vận hành,
- Tiểu hệ thống các nguyên tắc hoạt động,
Trung tâm của HTCT là nhà nước. Nhà nước tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các tiểu hệ
thống khác. Nhà nước thể hiện bản chất chính trị của hệ thống chính trị và chế độ xã hội. Các đảng
chính trị cũng phải dành lấy quyền lực nhà nước, thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước để thực hiện
các mục tiêu chính trị của mình.
Như trên đã nói, cấu trúc của hệ thống chính trị bao gồm nhiều tiểu hệ thống trong đó có tiểu hệ
thống thể chế. Có thể nói tiểu hệ thống này là cốt lõi của HTCT, trên cơ sở tiểu hệ thống này mà các
tiểu hệ thống khác được xác lập và hoạt động.
Các thể chế chính trị có những chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đảm bảo mối quan hệ, vai trò, chức năng giữa các bộ phận của hệ thống.
- Quy định các quan hệ và hành vi của con người trong các lĩnh vực chính trị nhất định.
- Tổng hợp các vai trò mà con người, cộng đồng người thực hiện trong khuôn khổ các thể chế
đó.
- Hình thành các chuẩn mực, các tiêu chí chính trị.
1
Trong hệ thống chính trị, vị trí, vai trò, chức năng của các thể chế chính trị rất khác nhau.
Những thể chế quan trọng mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu là: Các thể chế nhà nước (đồng thời là
các thể chế chính trị), đảng chính trị, các phong trào xã hội và các tổ chức chính trị xã hội, hệ thống
bầu cử
+ Các đảng phái chính trị
Có nhiều cách quan niệm về Đảng chính trị.
Quan điểm của Lênin cho rằng đảng chính trị là tập hợp những người có tổ chức nhất của một
giai cấp, có ý thức nhất về quyền lợi của giai cấp mình, có quyết tâm chiến đấu vì lợi ích của giai cấp.
Đảng của giai cấp công nhân là đảng tiên phong, chiến đấu vì sứ mệnh của giai cấp vô sản, giải
phóng giai cấp và giải phóng nhân loại.
Trên quan điểm này đã hình thành nhiều Đảng Cộng sản và công nhân trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Ngày nay, trên thế giới có những quan niệm khác nhau về đảng chính trị. Ở Mỹ, ở phương Tây
và các nước có chế độ đại nghị, nhiều ý kiến cho rằng: Đảng chính trị là một nhóm cá nhân, được tổ
chức lại nhằm giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử, để điều hành chính phủ và quyết định chính
sách công cộng. Các đảng như vậy gọi là đảng bầu cử. Mục tiêu là giành ghế trong nghị viện và các vị
trí quyền lực.
Các đảng chính trị khác nhau, các phong trào chính trị - xã hội khác nhau sẽ đóng vai trò khác
nhau trong đời sống chính trị của nước này hay nước khác. Có thể chúng trở thành đảng cầm quyền,
thành lập chính phủ từ đội ngũ đảng viên của mình, giữ vị trí chủ đạo trong các cơ quan lập pháp, có
ảnh hưởng và uy tín lớn ở tất cả các tầng lớp khác nhau của xã hội. Một số đảng khác ở vị trí đối lập,
chiếm giữ ít ghế trong cơ quan lập pháp hoặc có thể không có ghế nào, không có ảnh hưởng đáng kể
đến đời sống chính trị, xã hội đất nước.
+ Các thể chế nhà nước (đồng thời là các thể chế chính trị)
Nhà nước có vị trí độc quyền kiểm soát lãnh thổ, thay mặt toàn xã hội thực hiện chính sách đối
nội và đối ngoại, làm luật, các hoạt động điều tiết cần thiết cho toàn xã hội, thu thuế, các khoản thu
khác, quyền kiểm soát việc chấp hành pháp luật và các chuẩn mực pháp lý khác quyền sử dụng cưỡng
bức thể chất và các hình phạt khác.
+ Cơ quan lập pháp (còn được gọi là Quyền lập pháp, Nghị viện hay Quốc hội và một số tên
gọi khác như ở Nga là Đuma quốc gia và Hội đồng Liên bang, ở Đức là Bundextas và Bundexrat, ở
Trung Quốc là Hội nghị Đại biểu nhân dân toàn quốc
Nhìn chung cơ quan lập pháp có các chức năng cơ bản sau:
(1) Đại diện cho ý chí của nhân dân (cử tri),
(2) Lập pháp,
(3) Quyết định những vấn đề chung:
2
- Thông qua ngân sách, phân bổ ngân sách, chuẩn quyết toán ngân sách và quyết định các thứ
thuế.
- Phê chuẩn hoặc hủy bỏ điều ước quốc tế, tuyên bố tình trạng chiến tranh, hòa bình, tình trạng
khẩn cấp
- Đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập các cơ quan nhà nước.
(4) Giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước, quan chức nhà nước.
Trong chức năng này có các hình thức như: Nghe báo cáo của chính phủ, các thành viên chính
phủ; chất vấn các thành viên chính phủ, bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ, các thành viên chính phủ.
Luận tội người đứng đầu cơ quan hành pháp.
(5) Những quyền hạn khác như quyết định trưng cầu dân ý, đại xá,
(6) Quyền ủy quyền của nghị viện,
(7) Phục vụ cử tri (đóng vai trò trung gian giữa cử tri và chính quyền).
Quốc hội còn được xem như là một tổ chức để giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội. Ở
nhiều nước, các nhóm lợi ích cũng coi Quốc hội là nơi để họ có thể tác động hoặc bày tỏ nguyện vọng
của họ.
Các chức năng trên đây đều được hiến pháp các nước quy định cụ thể. Trong thực tiễn, để thực
hiện chức năng của mình các quốc hội phải tuân thủ những quy trình và thể thức hoạt động do pháp
luật quy định.
Ví dụ đối với chức năng lập pháp phải thông qua các quá trình sau: a) Giới thiệu dự án luật; b)
Soạn thảo; c) Xem xét và thảo luận ở phiên họp toàn thể; d) Thông qua dự án luật; e) Ban hành luật.
Riêng việc thông qua các đạo luật là một quá trình phối hợp, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau rất
phức tạp giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, mà đằng sau hai cơ quan này là ảnh hưởng
của các lực lượng chính trị - xã hội.
+ Cơ quan hành pháp
- Chức năng:
Hành pháp là một trong 3 nhánh quyền lực của Nhà nước. Nó có chức năng chủ yếu là thực thi
pháp luật và quản lý hành chính nhà nước (lập quy).
- Cơ cấu tổ chức cơ quan hành pháp:
Cơ cấu tổ chức cơ quan hành pháp phụ thuộc vào mô hình nhà nước, cộng hòa tổng thống hay
cộng hòa đại nghị. Đối với các nước cộng hòa tổng thống, đứng đầu thể chế hành pháp là tổng thống
(điển hình là Mỹ). Ở các nước cộng hòa đại nghị (Đức, Italia ) thì đứng đầu hành pháp là thủ tướng. ở
các nước này tổng thống giữ chức năng đại diện cho quốc gia.
Ở Mỹ, Tổng thống Mỹ do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm.
Ở các nước cộng hòa đại nghị, thủ tướng đứng đầu quyền hành pháp, được nghị viện bầu.
Thông thường thủ tướng là người của đảng đa số hoặc một liên minh đa số trong nghị viện.
Ở các nước có mô hình hỗn hợp (Pháp) tổng thống cũng được bầu trực tiếp.
3
Trong chế độ cộng hòa tổng thống Nghị viện không thể bỏ phiếu bất tín nhiệm tổng thống (tổng
thống toàn dân tín nhiệm). Tổng thống cũng không được giải tán nghị viện.
Ở các nước này, Tổng thống là trung tâm quyền lực của nhà nước, quyền hành pháp hoàn toàn
thuộc về Tổng thống. Tổng thống có quyền:
- Quyết định mọi chính sách, đường lối chính trị của chính phủ, định hướng đường lối đối nội,
đối ngoại của quốc gia.
- Có quyền quyết định sử dụng, bãi miễn các thành viên nội các - các bộ trưởng, các quan chức
cao cấp khác của chính phủ.
- Có quyền thay mặt chính phủ ký kết các điều ước các hiệp định với nước ngoài.
- Thống soái các lực lượng vũ trang, quyền chỉ huy quân sự cao nhất.
- Ký ban bố các luật, mệnh lệnh hành chính có hiệu lực pháp lý.
Các thành viên nội các không cố định, có thể thay đổi do Tổng thống. Các thành viên Nội các
không đồng thời là thành viên nghị viện. Nội các là cơ quan giúp việc của Tổng thống, chịu trách
nhiệm trước Tổng thống.
Bộ máy công chức được coi là kết cấu hạ tầng của ngành hành pháp. Bộ máy công chức không
chỉ đóng vai trò quan trọng trong thực thi nhiệm vụ mà là còn là một yếu tố ngăn cản sự lạm quyền của
giới lãnh đạo chính trị. Bộ máy công chức được lựa chọn theo hai cách:
- Sự bổ nhiệm các nhà chính trị (bầu cử).
- Tuyển chọn những người chuyên nghiệp.
Sự lựa chọn này vừa đảm bảo trao cho những người có uy tín với nhân dân, vừa trao cho những
người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cần thiết cho sự quản lý nhà nước.
Như vậy trong hệ thống hành chính của nhiều nước có hai phạm trù công chức cơ bản: a) Quan
chức chính trị; b) Công chức thường xuyên. Quan chức chính trị có thể thay đổi theo sự thay đổi của
Chính phủ. Nó giúp cho việc thích nghi, chuyển hướng chính trị kịp thời của bộ máy, còn công chức
thường xuyên đảm bảo sự ổn định, thực hiện những nhiệm vụ cố định có tính kỹ thuật của bộ máy
hành chính đã được pháp quy hóa. Vấn đề là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa 2 phạm trù công
chức này.
+ Cơ quan tư pháp
Cơ quan tư pháp hay là ngành tư pháp là một trong ba thể chế quyền lực quan trọng của nhà
nước.
Cơ quan tư pháp có các chức năng sau:
(1) Bảo vệ hiến pháp và pháp luật thông qua các hoạt động xét xử mọi hành vi vi phạm hiến
pháp và pháp luật.
(2) Giải thích hiến pháp, pháp luật.
(3) Phối hợp hoạt động với các ngành khác (trong đó cả giám sát, kiềm chế ).
Thẩm quyền: Xét xử và định hướng xét xử.
4
Khi bảo vệ hiến pháp và pháp luật, ngành tư pháp cũng chỉ dựa vào pháp luật, không được vượt
ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Tư pháp xét xử phải công minh. Đây là một đòi hòi rất cao, khi trong xã
hội có nhiều nhóm lợi ích khác nhau, có thế lực khác nhau, hiểu, thực thi pháp luật khác nhau, thậm
chí vi phạm cũng bằng các cách khác nhau. Nhất là khi các cơ quan nhà nước như quốc hội, chính phủ,
tổng thống v.v vi phạm pháp luật thì việc xét xử cực kỳ khó khăn.
Ở nhiều nước, việc giải thích pháp luật không được ghi thành một chức năng chính thức.
Nhưng qua thực tế xét xử, ngành tư pháp khách quan đã đảm nhiệm chức năng này. Bởi vì để xét xử
được, tư pháp phải hiểu, những điều luật rất chung, giải thích luật, áp dụng luật như thế nào Hành vi
giải thích tư pháp này còn có một chức năng phái sinh nữa là giáo dục pháp luật. Ở một số nước, ngành
tư pháp còn bao gồm cả kiểm sát việc thực hiện pháp luật của nhà nước và công dân. Ở những nước
đó, về tổ chức, ngành tư pháp ngoài hệ thống tòa án, còn có cả viện kiểm sát.
+ Các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội
Các phong trào và tổ chức chính trị - xã hội khác với các đảng chính trị ở mục tiêu định hướng,
hình thức tổ chức và phương thức hoạt động.
Trong xã hội hiện đại vai trò của các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội rất lớn và
không ngừng tăng lên, có nhiều phong trào và tổ chức có vai trò và chức năng quan trọng trong HTCT.
Đây là một bộ phận quan trọng của xã hội công dân, đang tích cực cùng nhà nước và HTCT hiện thực
hóa các lợi ích và nhân cách cá nhân cũng như của cộng đồng, cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước và
xã hội. ở nhiều nước các phong trào xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ và quan trọng trong việc hoạch
định chính sách của nhà nước và khuynh hướng chính trị của các đảng. Bởi vì đây là một tiểu hệ thống
có khả năng hiện thực hóa và xã hội hóa các mục tiêu chính trị của HTCT.
Các nguyên tắc và cơ chế vận hành của HTCT
Mỗi HTCT có những nguyên tắc và cơ chế vận hành riêng. Dựa trên những nguyên tắc này mà
các quan hệ, hành vi chính trị được định hướng và tạo thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống. Cũng
cần nói thêm rằng giữa "nguyên tắc" và "cơ chế" không có những bức trường thành ngăn cách. Nói
cách khác giới hạn giữa các khái niệm đó chỉ là tương đối.
Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới phổ biến một số nguyên tắc sau:
+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Nguyên tắc này khẳng định tính khách quan quyền lực của nhân dân với tư cách là chủ thể của
quá trình lao động sản xuất xã hội, là những người sáng tạo ra các giá trị xã hội (nguồn gốc của quyền
lực), ủy một phần quyền của mình thông qua những người đại diện để tổ chức và thực thi quyền lực
chính trị quyền lực nhà nước. Từ nguyên tắc này, phát sinh một loạt các nguyên tắc sinh hoạt và ứng
xử chính trị khác liên quan đến việc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn
5
Nguyên tắc này xác định ai là người có thể được ủy quyền và ủy quyền trong bao lâu. Để đảm
bảo nguyên tắc này phải xây dựng thể chế bầu cử bao gồm lựa chọn các ứng viên, thể thức bầu cử và
thủ tục truất quyền khi cần thiết.
Do trong xã hội có các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm và từng con người khác nhau với
những định hướng giá trị chính trị khác nhau nên ý kiến về các vấn đề đều có thể khác nhau.
+ Nguyên tắc tập trung (thống nhất) - phân quyền
Đây là hai mặt của một vấn đề trong đời sống chính trị. Không có tập trung (thống nhất)
quyền lực đủ mức thì sẽ không có quyền lực chính trị hoặc quyền lực nhà nước và sẽ không có quyền
lực để phân chia (hoặc phân công); không có thống nhất thì không còn quyền lực nhà nước (tức là chỉ
còn quyền lực tập đoàn hoặc quyền lực cát cứ).
Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện:
(1) Xã hội công dân thống nhất, trên đó xây dựng nhà nước;
(2) Lãnh thổ quốc gia dân tộc thống nhất;
(3) Ý chí nhân dân được tổng hợp lại thành những văn bản (khế ước) có tính pháp lý hợp pháp
(hiến pháp và pháp luật ) từ đây xây dựng những thể chế quyền lực thống nhất (cơ quan đại biểu cao
nhất, cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan xét xử cao nhất ).
Tuy nhiên, những nguyên tắc này dù có tính hiến định hoặc pháp định nhưng về thực chất
chúng được áp dụng trong thực tiễn là rất khác nhau. Ở nhiều nước, những nguyên tắc này vẫn là
những mục tiêu cần vươn tới.
(4) Thống nhất bởi đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền chi phối hệ thống chính trị bằng các
phương thức chính trị như ảnh hưởng cương lĩnh, đường lối, nêu gương, tổ chức, vận động giáo dục
Trên cơ sở những thống nhất trên đây, mà biểu hiện ra là tính đồng thuận, tính thỏa hiệp xã hội,
sẽ thực hiện sự phân quyền. Sự phân quyền mà sắc thái và các cấp độ của nó được các tác giả mô tả và
nhấn mạnh rất khác nhau như “phân lập” "phân chia" "phân công" "phân quyền" "phân cấp" "tản
quyền" v.v đều muốn nói đến giao cho các chủ thể khác nhau theo chiều ngang (Trung ương - Trung
ương) hay theo chiều dọc (Trung ương - địa phương) những nhiệm vụ có tính chức năng của nhà nước
(chức năng chính trị hoặc xã hội).
Vì vậy phân quyền là một biểu hiện tất yếu của quá trình thực thi quyền lực nhà nước trong tính
phức tạp, đa dạng, trong trạng thái vận động của nó. Không có sự phân quyền, trong điều kiện xã hội
hiện đại, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước sẽ không được thực thi.
Cơ chế vận hành của HTCT
Cơ chế tổng hợp các phương thức vận hành của HTCT. Cơ chế vừa phản ánh bản chất chế độ
chính trị vừa chi phối các hoạt động của hệ thống. Có 3 cơ chế cơ bản sau:
(1) Cơ chế mệnh lệnh cưỡng bức.
(2) Cơ chế thể chế.
(3) Cơ chế tư vấn.
6
(4) Cơ chế kiểm soát quyền lực.
Bốn cơ chế này có thể được vận hành đồng thời, có thể riêng biệt tùy theo các quan hệ giữa chủ
thể chính trị và đối tượng chịu tác động của quyền lực chính trị. Các cơ chế thể hiện được trình độ thuần
thục của hệ thống và sự trưởng thành về văn hóa chính trị.
Phân loại HTCT
Có nhiều tiêu chí được sử dụng để phân loại các HTCT như: XHCN-TBCN (tiêu chí về hệ tư
tưởng chủ đạo); hệ thống một đảng - hai đảng - nhiều đảng (tiêu chí về số lượng đảng), hệ thống độc
tài - dân chủ (tiêu chí về tính chất tham gia của nhân dân), quân sự - dân sự, hay thậm chí cả tính chất
của nền văn hóa (Đông - Tây) hay nền kinh tế (phát triển - đang phát triển), v.v
Bên cạnh khái niệm hệ thống, chúng ta còn có khái niệm "chế độ", "chính thể": chế độ/chính
thể quân chủ - cộng hòa/dân chủ. Tuy nhiên, việc chỉ lấy các tiêu chí hình thức, ví dụ như "người đứng
đầu quốc gia" để đặt tên "Chế độ/chính thể quân chủ", có thể gây nhầm lẫn, vì các chế độ quân chủ lập
hiến (như Anh, Nhật, Hà lan, v.v.) có thể lại dân chủ hơn nhiều chế độ cộng hòa/dân chủ khác.
Trong thực tế hoạt động chính trị, mối quan hệ căn bản nhất là mối quan hệ quyền lực, tức
quyền lực thực sự thuộc về ai và thể chế nào. Do vậy, việc phân công, phân quyền và phân cấp là các
vấn đề trung tâm của nghiên cứu về hệ thống chính trị. Trong đa số các HTCT trên thế giới, cách thức
phân quyền như vậy có quan hệ chặt chẽ với nguồn gốc quyền lực. Do vậy, mặc dù dùng tiêu chí phân
quyèn là tiêu chí chính để phân loại, các mô hình này cũng cho thấy cách thức ủy quyền (cả về phạm vi
và cấp độ) cũng sẽ quy định một cách cơ bản cách thức hoạt động của cả hệ thống.
Vì cách thức phân quyền quy định cách thức thực thi quyền lực trong thực tế và các mối quan
hệ quyền lực cơ bản của hệ thống, các nhà khoa học thường dùng nó làm tiêu chí cho sự phân loại các
mô hình hệ thống chính trị với mục tiêu để hiểu được cách thức hoạt động của các HTCT và các khả
năng biến đổi, thích ứng của chúng. Như vậy, với mục tiêu mang tính thực tiễn của chương trình
CCLL, tiêu chí này là thích hợp nhất. Theo tiêu chí đó, trên thế giới có thể thấy có 3 mô hình hệ thống
chính trị chủ yếu: hệ thống nghị viện; hệ thống tổng thống, và hệ thống hỗn hợp.
Hiển nhiên, khi khái quát như vậy, chúng ta tập trung chính vào cách thức hoạt động của nhà
nước, với hai đặc tính quan trọng về năng lực cưỡng chế làm nhà nước khác mọi tổ chức xã hội khác:
độc quyền về tổ chức lực lượng vũ trang và độc quyền về thu thuế. Đây là hai đặc tính chỉ nhà nước có
mà không tổ chức nào trong xã hội có, và chúng cũng làm nên sự độc nhất về tính chất của quyền lực nhà
nước so với các loại quyền lực khác trong xã hội.
Cần thấy rằng, việc lấy cách thức tổ chức nhà nước (tức cách thức phân quyền) làm tiêu chí
như vậy, không có nghĩa rằng HTCT chỉ bao gồm nhà nước, cũng như khi lấy tiêu chí số lượng đảng
chính trị làm tiêu chí, không có nghĩa rằng HTCT (một đảng hay đa đảng) chỉ bao gồm các đảng chính
trị, cũng không hàm ý rằng đảng chính trị là tổ chức quan trọng nhất của HTCT. Nói cách khác, hệ
thống tổng thống (hay nghị viện) có thể sẽ là hệ thống 1 đảng, hai đảng hay nhiều đảng (khi lấy tiêu
chí đảng phái), và có thể là đơn viện hay lưỡng viện (khi lấy tiêu chí nghị viện).
7
2. Hệ thống chính trị nước ta: đặc điểm, cấu trúc, chức năng, nguyên tắc hoạt động chính.
Phân tích khái quát thực trạng hoạt động của HTCT: các ưu khuyết điểm và các yêu cầu trong giai
đoạn hiện nay.
2.1. Đặc điểm của HTCT nước ta
Có thể nói HTCT nước ta về cơ bản được tổ chức gần giống như HTCT nhiều nước. Trước hết
tiểu hệ thống thể chế của nó (cốt lõi vật chất của HTCT) bao gồm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị, xã
hội Các bộ phận này được kết nối với nhau theo những quan hệ, những cơ chế và nguyên tắc vận
hành nhất định, trong một môi trường văn hóa chính trị đặc thù.
Chính vì vậy HTCT nước ta có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, HTCT nước ta do duy nhất một Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đặc điểm này
vừa mang tính phổ biến đối với HTCT các nước XHCN, vừa mang tính đặc thù. Tính đặc thù đó được
quy định bởi vai trò, vị trí, khả năng lãnh đạo, uy tín lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi
thành lập đến nay trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, chống ách thực dân, thống
nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đổi mới xã hội
Thứ hai, HTCT nước ta là HTCT XHCN được xây dựng theo mô hình Xô viết, mặc dù đang
trong quá trình đổi mới, hoàn thiện nhưng ảnh hưởng của chế độ tập trung quan liêu, bao cấp trong mô
hình ấy đang còn khá nặng nề cả trong cách nghĩ cách làm của đảng viên và nhân dân, cũng như trong
tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Những khuyết tật của mô hình Xô viết lại được củng cố thêm
bởi tổ chức chiến đấu, chiến tranh, kháng chiến Tuy chiến tranh đã kết thúc từ hơn ba chục năm qua,
nhưng những thói quen xử lý công việc, quản lý xã hội, ứng xử theo thời chiến vẫn còn ảnh hưởng khá
nặng trong các thế hệ cán bộ, đặc biệt là thế hệ trưởng thành trong chiến tranh.
Thứ ba, nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng của nhà nước ta còn rất non trẻ (mới
hơn 60 năm) lại hầu như không được kế thừa gì từ quá khứ (chế độ thực dân phong kiến) bị ảnh hưởng
nặng của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhưng phải thực hiện một loạt nhiệm vụ lịch sử mới mẻ
và to lớn, đó là: Đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu đi lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN, thực hiện công nghiệp hóa, đồng thời với hiện đại hóa đất nước, xây dựng một
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, hội
nhập quốc tế Tất cả những nhiệm vụ đó đều nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Những đặc điểm này vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối quan hệ vừa cho thấy
những khó khăn, thách thức mà chúng ta phải giải quyết vừa đặt ra những yêu cầu đổi mới và hoàn
thiện HTCT nước ta. Những yêu cầu đó khác nhiều so với các HTCT khác.
8
2.2. Cấu trúc của HTCT nước ta
Hệ thống chính trị nước ta về tổ chức bộ máy (tiểu hệ thống thể chế) bao gồm Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân (các tổ chức chính trị - xã hội) như:
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.
Trong HTCT nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ
thống chính trị.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống
tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân) và chính quyền các địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Quốc hội nước ta có chức năng: Lập pháp; quyết định những vấn đề xã hội, quốc phòng an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội
và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội
quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm
trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; phải báo cáo công tác trước Quốc hội,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nhân dân các địa phương bầu ra Hội đồng nhân dân cấp mình. Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương.
Hội đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi). Điều 123).
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân
Chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là bảo vệ Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước ta. Để thực hiện nhiệm vụ đó, các cơ quan này phải thực hiện một số nhiệm vụ
như điều tra, tố tụng, xét xử, thi hành án
9
Hệ thống tòa án ở nước ta bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương,
các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định. Đó là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quy định thành lập tòa án đặc biệt. Tòa án xét xử
công khai. Các thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự, thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Tổ chức hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước ta tương ứng với mô hình nhà nước
Cộng hòa đại nghị. Nhưng bản chất của nó là mô hình nhà nước XHCN kiểu Xô viết.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất). Các cơ quan khác như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và
Viện Kiểm sát đều được Quốc hội cử ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước
Quốc hội. Chính phủ, còn là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Mặc dù quyền lực Nhà nước là tập trung, thống nhất không thể phân chia, nhưng có phân công,
phân nhiệm rõ ràng cho các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số thành viên của Mặt trận là một bộ phận của HTCT, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội,
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Điều 1).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tham gia công tác bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng chủ trương, chính
sách pháp luật, vận động nhân dân thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
thực hiện giám sát, phản biện hoạt động các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức,
đảng viên, giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các quan hệ chính trị: Trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ chính trị được xác lập do
một cơ chế chủ đạo (và cũng là quan hệ chủ đạo). Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản
lý.
Trong các mối quan hệ này, sự lãnh đạo của Đảng được xác định bằng các phương thức chủ
yếu sau:
- Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, thông qua các nghị quyết của các tổ chức
Đảng từ Nghị quyết Đại hội Đảng đến nghị quyết chi bộ cơ sở. Đường lối cương lĩnh của Đảng được thể
chế hóa cụ thể hóa trong Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước
10
- Lãnh đạo bằng giáo dục, tuyên truyền vận động nêu gương.
- Lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ.
- Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra.
Nhân dân làm chủ, trước hết được xác định ở địa vị chủ thể quyền lực Nhà nước. Chỉ nhân dân mới
có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước. Nhưng nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám
sát đại biểu đó trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
Nhân dân còn làm chủ bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp (thông qua các đại biểu, các cơ
quan dân cử và các đoàn thể của dân). Ngày nay quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta không chỉ
được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống truyền thông, các phương tiện thông tin
đại chúng, các cuộc vận động, thông qua thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, thông qua vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống quy phạm pháp luật, bằng hệ thống các cơ
quan quản lý Nhà nước từ các bộ đến các cơ sở, trong đó không loại trừ các biện pháp cưỡng chế để
đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Nhà nước thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội, quản lý theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô. Nhà nước thực
hiện sự quản lý bằng cả chính sách, các công cụ đòn bẩy khác Mục tiêu của quản lý Nhà nước là phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân
dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh mẽ lực lượng sản xuất của đất nước.
Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ phối hợp hành động, được
thực hiện theo Quy chế phối hợp công tác do ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cơ quan hữu quan ở
từng cấp ban ngành.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo Mặt trận vừa là thành viên của Mặt trận. Vì vậy
quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân chủ, phối
hợp và thống nhất hành động.
Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong khi tuân theo điều lệ của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam; đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
2.3. Các nguyên tắc và cơ chế vận hành
HTCT nước ta hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của HTCT XHCN vừa tuân thủ
những nguyên tắc có tính đặc thù khác.
(1) Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) ghi: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện chủ quyền ấy bằng cách bầu ra các
cơ quan quyền lực như Quốc hội, Hội đồng nhân dân Những cơ quan này thay mặt nhân dân thực thi
11
quyền lực nhà nước. Ở nước ta các đại biểu của dân được ủy quyền theo nguyên tắc tự do và một thời
hạn nhất định (nhiệm kỳ).
(2) Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.
(3) Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc hoạt động chủ yếu của HTCT, trong đó có Đảng
và Nhà nước. Riêng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một bộ phận của HTCT, MTTQ vừa
phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ vừa thực hiện nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ,
thống nhất và phối hợp hành động.
(4) Nguyên tắc Quyền lực Nhà nước thống nhất có phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp, nâng cao
tính chủ động của chính quyền địa phương, cơ sở
(5) Lãnh đạo tập thể cá nhân phụ trách.
2.4. Khái quát thực trạng hoạt động của HTCT nước ta
HTCT nước ta đã tỏ rõ tính ưu việt của nó trong suốt hai cuộc kháng chiến, đã tập trung nguồn
lực cao độ của đất nước phục vụ cho tiền tuyến với tinh thần tất cả để chiến thắng. HTCT đã động viên
sự hi sinh vô bờ bến của nhân dân cho thắng lợi của cách mạng, tạo được những điều kiện cần thiết để
kết hợp được sức mạnh của dân tộc và thời đại, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc trên cả nước, thống nhất tổ quốc đưa cả nước cùng đi lên CNXH.
Sau chiến tranh, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhiều thiếu sót, yếu kém của
HTCT, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng lâu dài. Nhưng chúng ta đã đứng vững được, vượt qua
khủng hoảng đưa đất nước phát triển lên những bước mới, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Như Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc đã đánh giá:
- Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% năm từ năm
1996; nông nghiệp phát triển liên tục; công nghiệp tăng bình quân 13,5% hàng năm, hệ thống kết cấu hạ
tầng của nền kinh tế phát triển, các chỉ tiêu chủ yếu của phát triển kinh tế đều đạt hoặc vượt kế hoạch đã đề ra.
- Văn hóa xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị
- xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội
nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động, tích cực và đạt kết quả tốt.
Nguyên nhân của những thành tựu đó là "do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, và đường
lối lãnh đạo đúng đắn, Nhà nước có cố gắng lớn trong việc điều hành, quản lý; toàn dân và toàn quân
phát huy lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động sáng tạo, tiếp tục thực
hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"
(1)
.
Bên cạnh những thành tựu mà nguyên nhân gắn liền với hoạt động của HTCT, thì HTCT nước
ta cũng bộc lộ một số yếu kém. Những yếu kém đã đều có thể nhìn thấy trong tất cả các vấn đề của
HTCT từ tổ chức bộ máy chức năng của HTCT đến quan hệ, cơ chế, nguyên tắc vận hành v.v
(1)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX(2001), Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 72-73.
12
Trước hết nói về Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Cơ chế này bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Vấn đề là làm sao để cụ thể hóa nó, phân định
chức năng, nhiệm vụ phương thức hoạt động của các chủ thể trong HTCT. Đây vẫn là một bài toán
chưa có đáp số cuối cùng. Vẫn còn tình trạng Đảng bao biện làm thay, cơ quan nhà nước thụ động chờ
chủ trương, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng; công tác Đảng lẫn lộn với công tác nhà nước, bộ máy chồng
chéo, trùng lắp hiệu quả hoạt động vì thế còn thấp.
Chính cơ chế này quy định quan hệ của các chủ thể quyền lực theo chiều ngang (cùng cấp) và
theo chiều dọc (cấp trên cấp dưới). Nhưng do cơ chế hoạt động chưa tốt, các mối quan hệ trên đây
cũng chưa rõ ràng và chưa phát huy được tính năng động sáng tạo của các chủ thể quyền lực trong hệ
thống. Đặc biệt là chưa phát huy được các cơ quan Nhà nước cấp dưới và các đoàn thể nhân dân.
Chúng ta còn vận dụng chưa tốt các phương thức (hay còn gọi là cơ chế) thực thi quyền lực
chính trị (hành chính mệnh lệnh, thể chế, tư vấn và kiểm soát quyền lực). Thông thường nhiều nơi
thường chú ý vận dụng một loại cơ chế mà ít phối hợp các cơ chế. Vì thế mà nhiều nơi bắt người xét
xử trái pháp luật, để xảy ra oan sai. Nhưng nhiều nơi thì thiếu kiên quyết, chỉ sử dụng vận động tuyên
truyền, làm cho các vụ thi hành án dây dưa không hiệu quả. Nhiều nơi đã có quyết định của Nhà nước
quy hoạch, đền bù giải phóng mặt bằng mà dân không chấp hành, xung đột kéo dài năm này qua năm
khác mà vẫn không xử lý dứt điểm.
Chúng ta còn chưa thực hiện đúng các nguyên tắc hoạt động của HTCT
Nguyên tắc chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trên thực tế, dân có chủ quyền nhưng lại
không sử dụng được đầy đủ quyền lực Nhà nước vì lợi ích của mình. Người có quyền thật sự lớn hơn
lại là người được trao quyền, được ủy quyền. Điều này xảy ra vì chúng ta chưa có cơ chế thích đáng để
giám sát quyền lực nói chung, cơ chế cho dân giám sát nói riêng. Vì vậy mặc dù được nhân dân ủy quyền
nhưng nhiều cơ quan công quyền cá nhân "có chức có quyền" lại lạm quyền, lộng quyền, sử dụng quyền
lực để ức hiếp quần chúng.
Chưa vận dụng đúng đắn Nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhân dân, cơ sở có khuynh hướng
nhấn mạnh "dân chủ", cán bộ có chức có quyền, cấp trên muốn nhấn mạnh "tập trung". Nhiều nơi
nguyên tắc này được sử dụng tùy tiện, tùy thuộc vào "kỹ xảo" của người lãnh đạo.
Còn quan niệm giản đơn về quyền lực thống nhất có phân công, phân nhiệm rành mạch, cụ thể.
Chúng ta cần nhấn mạnh tính thống nhất của quyền lực Nhà nước, nhưng lại quá chú ý tìm sự
thống nhất đó ở một tổ chức duy nhất là Quốc hội, biến Quốc hội từ cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất cơ quan nghị sự (họp, quyết định) thành cơ quan điều hành nhà nước cao nhất. Muốn tạo được
thống nhất, củng cố sự thống nhất, ở nước ta cần hiểu rằng sự thống nhất thể hiện bởi nhiều yếu tố,
trước hết thể hiện ở sự lãnh đạo thống nhất của Đảng về đường lối, chính trị và tổ chức và công tác
kiểm tra. Hai là sự đồng thuận trong nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của nhân dân, sự thống
nhất đó được biểu hiện bằng Hiến pháp, pháp luật và một nếp sống mới, sống làm việc theo pháp luật.
Ba là sự thống nhất được biểu hiện bằng chủ quyền nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc
13
lập, toàn vẹn lãnh thổ, được một cơ quan đại diện cho chủ quyền nhà nước thống nhất đại diện về mặt đối
nội và đối ngoại
Trên cơ sở thống nhất đó, các cơ quan quyền lực nhà nước, các chủ thể quyền lực khác cần phải
độc lập, sáng tạo trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Càng độc lập sáng tạo trong
việc thực thi quyền lực nhà nước bao nhiêu, hoạt động của Nhà nước càng hiệu quả bấy nhiêu. Đây
cũng chính là đòi hỏi của việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Ba cơ quan nhà nước cao nhất (Quốc
hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất, Tòa án tối cao -
cơ quan xét xử cao nhất) trên những yếu tố thống nhất như đã nêu, cần hoạt động với tư cách là các
chủ thể độc lập, thực hiện chức năng nhiệm vụ khác nhau và vì vậy có những yêu cầu khác nhau về tri
thức, phẩm chất, năng lực và hành vi đối với các thành viên của các cơ quan đó.
Cần phải khẳng định rằng những yếu kém của HTCT trước hết là xuất phát từ những yếu kém
của Đảng cầm quyền, hạt nhân lãnh đạo của HTCT. Những yếu kém là do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính.
Những yếu kém của Đảng, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X chỉ rõ.
(1) Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật kỷ
cương chưa nghiêm.
(2) Một số quan điểm chủ trương chưa rõ; chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông
suốt ở các cấp các ngành.
(3) Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
(4) Công tác tư tưởng lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập.
Các cơ quan nhà nước cũng còn nhiều yếu kém, bất cập.
Quốc hội nước ta là Quốc hội một viện hoạt động qua nhiều thời kỳ khác nhau và đã có những
bước phát triển ngày càng xứng đáng hơn với chức năng nhiệm vụ của mình.
Cho đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua được 4 bản Hiến pháp, khoảng 300 đạo luật (kể cả
pháp lệnh) tốc độ làm luật ngày càng cao, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Trách nhiệm trình các dự án luật vẫn chủ yếu
thuộc về chính phủ, hệ thống luật còn chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn,
chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp, phải điều chỉnh nhiều lần và phải có
hướng dẫn của Chính phủ mới thực thi được, mặt khác các văn bản hướng dẫn lại rất chậm.
Do Quốc hội không chuyên trách nên đại biểu kiêm nhiệm nhiều. Tiêu chuẩn đại biểu chưa thật
rõ, chưa đạt đến chuẩn mực nghị viên (nghị sĩ) còn gặp khó khăn giữa tiêu chuẩn và cơ cấu. Do kiêm
nhiệm, các đại biểu không có thời gian tiếp xúc với cử tri và thực hiện chức năng giám sát điều kiện
cho hoạt động của đại biểu còn khó khăn.
Hoạt động của Quốc hội có nhiều thời kỳ rất hình thức, hiện nay đã bắt đầu đi vào thực chất
hơn, các hoạt động chất vấn, tranh luận dân chủ hơn. Nhân dân có thể theo dõi các phiên họp qua
phương tiện thông tin đại chúng.
14
Chính phủ nước ta là một Chính phủ thực hiện sự quản lý nhà nước trong một điều kiện hầu
như không kế thừa được gì từ bộ máy hành chính cũ (thực dân - phong kiến). Hơn nữa lại trải qua hơn
30 năm điều hành chiến tranh, một thời gian dài theo cơ chế quan liêu, bao cấp, động viên tinh thần
Mặc dù những phương pháp đó trong thời chiến đã tỏ ra hiệu quả, thì trong thời bình, xây dựng và phát
triển kinh tế, các biện pháp đó đã gây khó khăn, cản trở cho việc thực thi pháp luật và quản lý hành
chính nhà nước, cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một yếu kém của cơ quan hành pháp nước ta là bộ máy công chức. Trong một thời gian dài
chúng ta chưa có quan niệm đúng đắn về hệ thống công chức nhà nước, coi tất cả các công tác có liên
quan đến nhà nước đến đoàn thể "là công tác cách mạng" và tất cả những ai làm nhiệm vụ đều là cán
bộ cách mạng, cán bộ nhà nước. Khái niệm "cán bộ" chưa phân định được nghề nghiệp, vị trí hành
chính, quản lý, chưa phân biệt được đội ngũ các nhà chính trị do dân bầu, đội ngũ chuyên gia tuyển
dụng và đội ngũ công chức thường xuyên Vì thế việc xếp lương, nâng bậc, đãi ngộ, sử dụng cán bộ
còn chưa công bằng. Cơ chế sử dụng cán bộ không khuyến khích được tài năng, sự mẫn cán hay tận
tụy, đánh giá cán bộ còn nhiều lệch lạc thiếu những căn cứ khoa học.
Hiện nay, nhận thức về công chức đã có thay đổi theo hướng tích cực. Nhưng nhìn chung còn
chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền hành chính hiện đại trong nhà nước pháp quyền.
Các nguyên tắc hoạt động tư pháp của nước ta là rất tiến bộ và dân chủ. Nhưng trong thực tiễn,
hệ thống tư pháp nước ta còn biểu hiện nhiều non kém, bất cập.
Hiện nay, các tòa án nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp giữa thẩm quyền xét xử và
tổ chức hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. Cách tổ chức này làm cho hệ thống tòa án cũng mang
nặng tính hành chính, bình quân, trong lúc các hành vi vi phạm pháp luật lại không bình quân trong các
địa phương, địa bàn cả nước.
Năng lực xét xử còn yếu, xét xử sai luật, bắt sai, xử sai còn khá nhiều, giải quyết oan sai chưa
tốt, còn tồn đọng quá nhiều án, đặc biệt là án dân sự, phân biệt tội danh chưa rõ, còn tình trạng hình sự
hóa các vụ án, giải quyết tạm giam, tạm giữ còn nhiều sai phạm, còn quá nhiều đơn thư khiếu nại tư
pháp, không xử lý kịp. Công tác thi hành án còn kém, còn thiếu cán bộ chuyên môn. Hoạt động tư
pháp còn thiếu độc lập, khép kín, chậm đổi mới
Thẩm quyền xét xử còn trùng lắp giữa tòa án cấp tỉnh và cấp Trung ương. Các tòa chuyên môn
chưa thích nghi với điều kiện kinh tế thị trường với tốc độ và trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ năng lực. Các tổ chức hỗ trợ xét xử
còn mang nặng tính nhà nước, ít năng động, chưa có khả năng xã hội hóa.
Sự yếu kém của ngành tư pháp là một cản trở lớn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân do dân vì dân ở nước ta. Bởi vì dù luật có đầy đủ và tốt đến mấy, dù hoạt động của
Chính phủ có tích cực, hiệu quả đến đâu, nhưng tư pháp không công minh, không bảo vệ pháp luật,
dung túng và khuyến khích vi phạm pháp luật, hoặc không trừng trị đúng người, đúng tội, thì pháp luật cũng
mất tác dụng và cũng không phát huy được nhà nước pháp quyền.
15
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng chưa ngang tầm với chức năng
vai trò và tiềm năng của nó. Còn biểu hiện thụ động, chờ đợi sự "giao việc" của Đảng và chính quyền. Tổ
chức và hoạt động còn nặng về hành chính, phong trào hình thức, xa dân. Còn lúng túng trong việc tìm ra
những hình thức và nội dung hoạt động cho phù hợp với thời kỳ mới. Vì thế nhiều đoàn thể nhân dân
chưa tập hợp được đông đảo hội viên, chưa tự chủ được về tài chính. Tất cả những biểu hiện trên dẫn đến
là chức năng vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhiều lúc, nhiều nơi bị suy yếu, chưa
thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Nhìn tổng thể "Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy hành chính nhà nước có
quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu quả
thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều
mối quan hệ còn bất hợp lý. Tổ chức cơ sở Đảng ở nhiều nơi quá yếu, kém sức chiến đấu. Việc tuyển
chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ còn nhiều thiếu sót, có khi dựa vào một số quan
niệm cũ, định kiến và theo cảm tính; cách làm thiếu quy hoạch, không sâu sát, không theo đúng quy
trình, chưa dân chủ lắng nghe ý kiến của nhân dân và tập thể"
(1)
.
3. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo các giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
HTCT nước ta trong điều kiện hiện nay nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao
năng lực hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy dân chủ.
3.1. Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo
Một là, đổi mới HTCT vừa để phát huy những mặt mạnh vừa để khắc phục mạnh mẽ, có hiệu
quả những hạn chế, yếu kém của HTCT nước ta đã bộc lộ trong quá trình đổi mới;
Hai là, xác định rõ hơn vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của từng tố chức, của mỗi
người đứng đầu tổ chức thành viên cũng như của toàn bộ hệ thống trong việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ.
Ba là, xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của từng tổ chức thành viên và của toàn bộ hệ
thống phù hợp với yêu cầu phát triển KTTT định hướng XHCN, mở cửa, hội nhập trong bối cảnh toàn
cầu hoá
Bốn là, đổi mới HTCT nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của mỗi tổ chức và của toàn bộ hệ
thống, của nền dân chủ XHCN trong đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh chống chiến lược “Diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
3.2. Giải pháp cơ bản để đổi mới và hoàn thiện HTCT nước ta.
Để thực hiện mục tiêu trên, những năm tới cần thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Một là, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
tạo điều kiện, môi trường thể chế kinh tế bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện môi trường thể chế
chính trị- xã hội,
(1)
Sđd, tr. 79.
16
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Một khi
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được thiết lập và hoàn thiện sẽ tạo điều kiện để xây dựng
hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa và thể chế xã hội công bằng, văn minh từ đó tạo
điều kiện cho việc hình thành môi trường thể chế kinh tế, chính trị và xã hội thống nhất hài hoà::
KTTT định hướng XHCN, Đảng Cộng sản cầm quyền khoa học, dân chủ và theo pháp luật và vì hạnh
phúc của nhân dân; Nhà nước pháp quyền XHCN và xã hội dân sự định hướng XHCN, sẽ tạo tiền đề,
điều kiện tiên quyết và là nội dung chủ yếu của việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị Việt Nam để
thúc đẩy phát triển Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Hai là , đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống luật pháp và những qui định làm cơ sở pháp lý cho
việc đổi mới, kiện toàn HTCT, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN.
Trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền, việc đổi mới, kiện toàn HTCT, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân
chủ XHCN nhất thiết phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trước hết, cần tiến
hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 hoặc xây dựng Hiến pháp mới trên cơ sở kế
thừa Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ qúa độ lên CNXH (đã bổ sung và phát triển); xác lập về mặt Hiến pháp cho nền KTTT định
hướng XHCN hội nhập quốc tế; hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tâm là Luật Nhà nước bảo
đảm việc tổ chức bộ máy nhà nước theo đúng các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong
thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; thể chế hoá địa vị và vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo một cơ sở pháp lý ở tầm Hiến pháp và pháp luật để Đảng
thực hiện có hiệu quả vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo xã hội, lãnh đạo HTCT; đồng thời, để
Đảng được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật và lãnh đạo theo pháp
luật, dân chủ và khoa học; xác lập một khuôn khổ hiến định cho sự hình thành, phát triển và phát
huy vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội.
Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức và phong cách lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu và năng lực cầm quyền của Đảng.
Là đảng duy nhất cầm quyền trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN hội nhập
quốc tế, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và năng lực cầm quyền đòi hỏi Đảng phải tự đổi
mới cả về tổ chức, phương thức và phong cách lãnh đạo.
Trọng tâm trong công tác đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời gian tới cần tập
trung vào một số khâu trong tâm:
Thứ nhất, đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ cán bộ
17
Công tác tổ chức của Đảng, thời gian qua, đã được quan tâm, từng bước sắp xếp tổ chức, bộ
máy, biên chế cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội; điều chỉnh, bổ sung
và quy định cụ thể hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi
tổ chức. Tăng cường tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công
tác tổ chức của Đảng cần có ặ đổi mới mạnh mẽ tập trung khắc phục tình trạng song trùng hai nhánh
quyền lực, hai bộ máy, hai loại cán bộ, hai cơ chế hoạt động khác nhau là Đảng và Nhà nước. Chức
năng lãnh đạo, quyền lực chính trị chưa rõ, càng xuống dưới càng lẫn lộn chức năng, Đảng làm
thay chính quyền. Một số tổ chức cơ sở đảng về thực chất không rõ đối tượng lãnh đạo, phạm vi,
công cụ và phương thức lãnh đạo. Giải pháp có tính đột phá, trước mắt cần rà soát về phương diện
tổ chức các tổ chức Đảng và các tổ chức Nhà nước, sớm hợp nhất những tổ chức có cùng chức
năng, nhiệm vụ, chẳng hạn có thể sáp nhập Ban tổ chức Trung ương với Bộ Nội vụ. Về công tác
cán bộ, cần tiếp tục cụ thể hóa và xác định một số giải pháp thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa
VIII về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước". Triển khai tương đối đồng bộ các
khâu trong công tác cán bộ: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và
thực hiện chính sách cán bộ. Thời gian tới, để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức trong sáng và có lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; có tinh thần đoàn kết, hợp
tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân
dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, cần thiết phải đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tất cả các
khâu của công tác cán bộ, từ việc xây dựng và thực hiện tốt chiến lược và qui hoạch cán bộ; đổi mới
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển dụng; đổi mới chế độ chính sách sử
dụng, trong dụng và tận dụng nhân tài
1
; tăng cường công tác quản lý, kiểm sát, kiểm tra, giám sát cán
bộ. Giải pháp có tính đột phá trong công tác cán bộ là: mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công
khai, minh bạch trong công tác cán bộ; xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân
tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Ðảng hay ngoài
Ðảng; có cơ chế, chính sách đạc biệt đối với những người đứng đầu các tổ chức
2
.
Công tác cán bộ mà khâu quyết định nhất là xây dựng cho được đội ngũ cán bộ chủ chốt của
Đảng thực sự có đức, có tài, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Người đứng đầu và những người lãnh đạo chủ chốt có trong sạch, vững mạnh, có “tâm”, có “tầm”, có
ý chí và bản lĩnh mới có thể lãnh đạo xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Theo tinh
thần Đại hội VI, đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm
1
Xem quan niệm về công tác cán bộ của Hàn Quốc qua vụ bê bối về công tác tuyển dụng cán bộ ở Bộ Ngoại giao Hàn Quốc: Nền
kinh tế thị trường ở Hàn Quốc chỉ chấp nhận chế độ trọng dụng nhân tài và cạnh tranh- Báo Thanh niên ngày 8/9/2010
2
Chẳng hạn có chính sách đãi ngộ lương, nhà cửa cao và minh bạch, song cũng kèm theo một cơ chế kiểm soát, kỷ luật nghiêm minh
trước những hành vi lợi dụng chức, quyền để vụ lợi
18
chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Hồ Chí Minh đa dạy: Cán bộ là gốc của
cách mạng, công tác cán bộ luôn là gốc của công tác xây dựng Đảng; muôn việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hoặc xấu mà nên.
Thứ hai, thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới, trọng
tâm là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng ta được xây dựng, tổ chức, hoạt động và sinh hoạt theo những nguyên tắc xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản: Nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê
bình và phê bình; kỷ luật nghiêm và tự giác; nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng. Thực hiện
đúng đắn và nghiêm chỉnh những nguyên tắc này là sự thể hiện bản chất giai cấp công nhân, bản chất
dân chủ của Đảng cách mạng.
Với Đảng cách mạng, một khi có kỷ luật nghiêm minh và tự giác thì tổ chức đảng mới được
củng cố, kiện toàn; mặt khác, dân chủ càng cao, tự giác càng đầy đủ, thì kỷ luật càng nghiêm, đoàn kết,
thống nhất càng chặt chẽ, sức chiến đấu càng cao. Dân chủ trong Đảng càng được mở rộng thì lòng
nhiệt thành cách mạng, tính chủ động sáng tạo của cán bộ, đảng viên càng được khơi dậy và phát huy;
sự tìm tòi những sáng kiến mới, những giải pháp hay, những cách làm sáng tạo càng có điều kiện bộc
lộ; tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong, nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên càng được đề cao. Nhờ
vậy, những vấn đề nảy sinh được phát hiện và giải quyết kịp thời, những khó khăn được tháo gỡ, sự
thống nhất về tư tưởng và hành động được củng cố, tăng cường, điều kiện bảo đảm cho sự lãnh đạo
của Đảng.
Mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng đi đôi với dân chủ ngoài xã hội đã trở thành nhu cầu của
sự phát triển và là “phương thuốc” hiệu quả nhất ngăn ngừa quan liêu, chống nguy cơ suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên của Đảng. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn”
3
.
Phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, từ nâng cao
nhận thức, quan điểm, kiến thức và năng lực cho mỗi cán bộ, đảng viên đến đổi mới cơ cấu tổ chức,
phương thức và phong cách lãnh đạo cũng như năng lực cầm quyền; đổi mới lề lối làm việc, qui chế,
qui trình, nội dung, hình thức sinh hoạt của tập thể cấp uỷ và của tổ chức đảng, cho tới đổi mới phong
cách của người quản lý và lãnh đạo, cũng như thói quen cổ truyền, tác phong cố hữu của người sản
xuất nhỏ trong cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị- xã hội; mở rộng và nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể từ hội nghị cấp uỷ đến
đại hội Đảng các cấp; tăng cường kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân của tổ chức đối với cán
bộ, đảng viên và người lãnh đạo chủ chốt; có qui chế phát huy tự do tư tưởng, tôn trong những ý kiến
khác nhau; xây dựng và thực hiện cơ chế dân chủ trực tiếp trong bầu cử các cấp uỷ và người đứng đầu
cấp uỷ.
3
Hồ Chí Minh:. Toàn tập , T.12, tr. 249.
19
Thứ ba, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng, sớm hợp nhất Uỷ ban
kiểm tra Trung ương với Thanh tra Chính phủ.
Phát triển KTTT định hướng XHCN hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ và thách thức đan xen
chính là “liều thuốc thử” bản lĩnh, năng lực, phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Bên cạnh nhiều
tấm gương sáng của tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cũng có không ít các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viện chưa
thực hiện tốt Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nươc, thậm chí còn có biểu hiện thoái hoá về tư tưởng,
đạo đức và lối sống. Bởi vậy, trong thời gian tới, Ðảng cần tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Ðảng để phát huy ưu
điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và
phẩm chất của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày
càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận, các đoàn thể và của
các cơ quan thông tin đại chúng.
Giải pháp có tính đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát là
cần sớm hợp nhất Uỷ ban kiểm tra Trung ương với Thanh tra Chính phủ. Lênin đã khẳng định: “Về
phần tôi, tôi thấy làm như vậy (hợp nhất Ban kiểm tra Trung ương với Bộ Dân uỷ thanh tra công,
nông) không có gì trở ngại cả. Hơn nữa tôi tin rằng sự hợp nhất ấy là điều kiện bảo đảm duy nhất cho
một hoạt động có kết quả”
4
. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã hợp nhất Uỷ ban Kiểm
tra- Kỷ luật Trung ương và Bộ Giám sát thành một tổ chức với cơ chế “một nhà hai cửa” đã phát huy
tốt chức năng kiểm tra, giám sát.
Bốn là, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân
Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Phát huy dân chủ
và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân chính là để phát triển sức dân, để giải phóng mọi tiềm năng to
lớn của nhân dân trong xã hội mà nhân dân là chủ. Đây là động lực và mục tiêu sâu xa nhất, thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ ta, là thước đo, là tiêu chí đánh giá hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Nhà
nước pháp quyền XHCN trong thực tế; đồng thời cũng là phương thức cơ bản để xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN,
Trong điều kiện nước ta hiện nay cần kết hợp tốt dân chủ đại diện với dân chủ trực tiếp. Trong
những năm tới, việc mở rộng và phát huy dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền cần giải quyết
một số nhiệm vụ:
Thứ nhất,, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền
XHCN và hội nhập quốc tế trên cơ sở quán triệt những quan điểm có tính nguyên tắc: bảo đảm sự phù
4
V.I Lênin, Toàn tập, T.45, Nxb Tiến bộ M.,1978, tr. 452-453
20
hợp giữa ý chí chủ quan với thực tế khách quan; bảo đảm tính dân chủ, pháp chế, khoa học; bảo đảm
tính hiệu quả của việc điều chỉnh pháp luật; bảo đảm tính tương thích giữa pháp luật quốc gia với pháp
luật quốc tế trong thời hội nhập;
Thứ hai, đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN, trọng tâm là nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện các chức năng của Quốc hội;
phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng lực, bản lĩnh và nghiệp vụ hoạt động của các đại biểu
Quốc hội; tiếp tục kiện toàn các cơ quan của Quốc hội; tăng cường quan hệ giữa Quốc hội và nhân
dân; bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Quốc hội; tăng cường tính chuyên nghiệp của
Quốc hội, trước hết là tăng tỷ lệ những đại biểu quốc hội chuyên trách đồng thời với việc nâng cao
trình độ, kỹ năng soạn thảo, thông qua luật pháp của các cơ quan chức năng và cá nhân đại biểu quốc
hội.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả với những nội dung: cải cách thể chế hành
chính; cải cách tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương; đổi
mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; đổi mới chế độ tài chính công và tài sản công bảo
đảm thu chi hợp lý, quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, công bằng, minh bạch và có hiệu quả.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với
những nội dung: tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở vững chắc cho hoạt
động tư pháp; đổi mới tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp; chấn chỉnh các tổ chức và hoạt động bổ
trợ tư pháp; đổi mới công tác cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. Giải
pháp có tính đột phá trong đổi mới, cải cách tư pháp là cân tăng cường quyền hạn và tăng tính độc lập
cho cơ quan tư pháp trong tổ chức và hoạt động tư pháp theo pháp luật.
Thứ năm, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng hiện tượng tiêu cực khác
trong bộ máy nhà nước.
Quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước thường bắt
nguồn từ một bộ phận cán bộ có chức, có quyền không chịu rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị
và về đạo đức, lối sống đang trở thành những vấn nạn bức xúc nhất, gây nên những bất ổn xã hội và
làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí,
quan liêu bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân là ba thứ giặc nội xâm có thể biến một người có công thành
kẻ có tội, thậm chí làm đổ vỡ cả sự nghiệp của Đảng. Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và
hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước là yêu cầu của ổn định chính trị, yêu cầu của việc tạo
động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và là một trong những điều kiện để bảo vệ Đảng, Nhà nước.
Giải pháp có tính đột phá cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu lãng phí là hoàn
thiện hệ thống luật pháp; mở rông dân chủ, công khai, minh bạch chế độ đãi ngộ, nhất là đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt; tăng tính độc lập và quyền hạn cho cơ quan tư pháp; tăng cương biện
21
pháp kỹ thuật, công nghệ trong đấu tranh; nghiêm trị những phần tử thoái hoá, biến chất dù là ở cương
vị nào.
Năm là, tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị- xã hội đối với các cơ quan quyền lực nhà nước
Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc được quy định trong Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc là một thể chế
thể hiện và thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong mọi
lĩnh vực. Do vậy, tăng cường thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối
với các cơ quan quyền lực nhà nước là góp phần phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực sự là của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, để tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ
quốc trong giám sát và phản biện xã hôi, cần đổi mới tư duy về vị trí, vai trò; đổi mới về tổ chức và đổi
mới công tác cán bộ cũng như tăng cương quyền hạn thực tế cho Mặt trận Tổ quốc.
Sáu là, thể chế hoá, cụ thể hoá cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ” thể hiện sự thống nhất về
bản chất chính trị của chế độ chính trị XHCN ở nước ta, xác định mối tương quan giữa một Đảng
duy nhất cầm quyền, Nhà nước của dân, do dân, vì dân quản lý và vai trò, địa vị làm chủ của nhân
dân trong quá trình đổi mới HTCT, xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN. Cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ” chỉ có thể vận hành và đưa lại kết quả thiết
thực khi các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân, được phân biệt rành mạch về quyền hạn và trách
nhiệm và phải được thể chế hoá thành những qui định, chế độ và có cơ chế, chính sách thúc đẩy sự
hoạt động tích cực của mỗi chủ thể. Nói cách khác cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lý phải được thể chế hoá trên cả ba phương diện: Pháp luật hoá; tổ chức hoá và cơ chế, chính sách
hoá.
Trong một xã hội dân chủ, người dân sẽ thể hiện sự đồng thuận của mình một khi phương
châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được thực hiện, một khi việc lựa chọn những đại diện
của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước thông qua bầu cử và thực hành phương thức trưng cầu
dân ý (phê chuẩn Hiến pháp). Do vậy, quyền lực chính trị của Đảng không thể chỉ do Đảng tự quy
định trong Điều lệ Đảng mà quan trọng là phải được quy định bằng pháp luật và hoạt động của các
tổ chức đảng trong việc thực hiện quyền lãnh đạo nhà nước đều phải tuân thủ các quy định của
pháp luật, được xác định và giới hạn bởi pháp luật. Nếu quyền lực của Đảng do Đảng tự đề ra,
không được kiểm soát, không giới hạn, chắc chắn nó sẽ thiếu tính chính đáng của quyền lực và
không tránh khỏi xu hướng “siêu quyền lực”.
Đồng thời, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng phải trên nguyên tắc: tôn trọng
quyền hạn của các cơ quan nhà nước đã được luật pháp quy định. Sự quy định quyền, trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong Hiến pháp và pháp luật đối với việc thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp đã tạo ra địa vị pháp lý độc lập cho các cơ quan nhà nước trong
22
việc thực hiện quyền lực nhân dân. Nhà nước thực hiện việc quản lý, điều hành đất nước bằng luật
pháp, trong khuôn khổ luật pháp và dưới quyền lực của pháp luật. Do vậy, Đảng không thực hiện
quyền lực nhà nước, không làm thay Nhà nước, không áp đặt Nhà nước, một khi luật pháp không
quy định như vậy.
Về nguyên tắc, quyền hạn luôn luôn gắn với trách nhiệm và cùng với nó là thể chế và các
biện pháp kiểm soát quyền lực. Quyền hạn được trao càng cao, càng quan trọng, thì trách nhiệm
của chủ thể được trao quyền phải càng lớn, và các biện pháp kiểm soát quyền lực càng phải được
thiết kế một cách chi tiết và cụ thể để tránh hiện tượng lạm quyền. Như vậy, đối với mỗi chức danh
quyền lực trong Đảng và Nhà nước đều phải thiết kế sao cho có một cơ chế trách nhiệm và cơ chế
kiểm soát quyền lực khả thi và cụ thể để nhân dân có thể biết trách nhiệm thuộc về ai trước những
thành công và thất bại của các chính sách.
Trong quan hệ Đảng với Nhà nước, Đảng là đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo xã hội chủ yếu bằng Nhà nước; Nhà nước là công cụ, phương tiện để Đảng thực hiện sự lãnh
đạo.
Trong mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực, nhân dân thực
hiện quyền lực của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan hệ giữa Đảng và dân là quan hệ máu thịt.
Nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền là sự xa rời giữa Đảng và dân; nhân dân thờ ơ với
Đảng.
Trong quan hệ giữa Nhà nước và dân thì dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Về bản chất,
nhà nước không có quyền, quyền lực nhà nước là do nhân dân uỷ quyền mà có. Nhà nước tồn tại để
phục vụ nhân dân chứ không phải dân tồn tại để phục vụ nhà nước. Bởi vậy, cần phải sửa đổi Luật bầu
cử bảo đảm dân chủ trong việc lựa chọn những người đại diện cho quyền lực của dân; phải thiết lập
những giới hạn quyền lực của Nhà nước trong Hiến pháp và pháp luật; tạo lập cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước trong và ngoài bộ máy nhà nước bảo đảm chức năng cai trị của Nhà nước chuyển thành
chức năng phục vụ nhân dân; cán bộ, công chức phải trở thành công bộc của dân.
4. Liên hệ với thực tiễn sau hơn 25 năm đổi mới và các phát triển mới tại Đại hội XI và Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng.
- Liên hệ phần thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta ở phần 2.4.
23