KHOA KHAI THÁC THỦY SẢN
BỘ MÔN CN KHAI THÁC THỦY SẢN
0O0
BÀI GIẢNG
QUẢN LÝ
KHAI THÁC THỦY SẢN
Biên Soạn:
ThS. Nguyễn Trọng Lương
Nha Trang, năm 2010
ii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ 3
CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN 3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 3
1.1. Nguồn lợi thủy sản và hạn chế nguồn lợi thủy sản 3
1.2. Môi trường và hạn chế của môi trường. 5
1.3. Đa dạng sinh học 6
1.4. Phát triển bền vững 7
1.5. Quản lý khai thác thuỷ sản 9
II. CHỨC NĂNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN. 13
2.1. Đặc điểm của cơ quan quản lý KTTS 14
2.2. Chức năng của cơ quan quản lý KTTS 15
III. CHỨC NĂNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ KTTS16
3.1. Chức năng của công tác quản lý khai thác thuỷ sản 16
3.2. Tầm quan trọng của công tác quản lý khai thác thuỷ sản 19
IV. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ KHAI THÁC THỦY SẢN. 20
4.1. Cường lực khai thác. 20
4.2. Đối tượng khai thác 21
4.3. Ngư cụ khai thác 21
4.4. Mùa vụ khai thác 22
4.5. Ngư trường khai thác 22
4.6. Các yếu tố kinh tế, văn hoá – xã hội. 23
V. CƠ QUAN QUẢN LÝ THUỶ SẢN THẾ GIỚI 26
CHƯƠNG II 31
NỘI DUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN 31
I. THÔNG TIN NGHỀ CÁ 31
1.1. Yêu cầu về thông tin trong quản lý khai thác thuỷ sản. 31
1.2. Tiêu chuẩn hoá việc thu thập thông tin 31
1.4. Phân bổ thời gian thu thập số liệu. 34
iii
1.5. Yêu cầu bảo mật thông tin nghề cá 34
II. XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH, KẾ HOẠCH QUẢN LÝ THUỶ SẢN 35
2.1. Xây dựng chính sách nghề cá. 35
2.2. Xây dựng kế hoạch quản lý. 39
III. CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN 44
3.1. Biện pháp kiểm soát tỷ lệ cá chết khi khai thác 45
3.2. Biện pháp hạn chế các yếu tố đầu vào 46
3.3. Biện pháp hạn chế sản lượng khai thác (quản lý đầu ra) 48
3.4. Biện pháp hạn chế sử dụng nguồn lợi 50
3.5. Quản lý mối quan hệ giữa các bên 52
3.6. Quản lý dựa vào cộng đồng - Đồng quản lý 54
CHƯƠNG III 56
CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN 56
Ở VIỆT NAM 56
I. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NGHỀ KHAI THÁC THỦY SẢN Ở VIỆT NAM 56
1.1. Năng lực đội tàu khai thác 56
1.2. Sản lượng khai thác 57
1.3. Lao động khai thác 58
1.4. Về xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nghề khai thác thuỷ sản. 58
1.5. Trình độ sản xuất. 58
II. HỆ THỐNG TỔ CHỨC CƠ QUAN QUẢN LÝ NGHỀ CÁ VIỆT NAM. 59
2.1. Các đơn vị quản lý 59
2.2. Các đơn vị nghiên cứu và tư vấn thủy sản 67
III. CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI THÁC THỦY SẢN Ở VIỆT NAM. 70
3.1. Định hướng chung 70
3.2. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản. 73
IV. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN 75
4.1. Quản lý các yếu tố đầu vào 75
4.2. Quản lý sản lượng khai thác 85
4.3. Quản lý dựa vào cộng đồng - Đồng quản lý 86
iv
4.4. Một số tồn tại và thách thức của nghề khai thác: 86
V. HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN NGHỀ CÁ BỀN
VỮNG 88
5.1. Những nét chung 88
5.2. Tình hình hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực 89
5.3. Các kết quả đạt được trong hợp tác quốc tế ngành thuỷ sản 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
1
MỞ ĐẦU
………. ……….
Trước đây, nghề cá thế giới nói chung và nghề cá ở nước ta nói riêng được phát
triển trên cơ sở tự phát. Năng lực khai thác phát triển không ngừng và khó kiểm soát chặt
nhẽ, nhất là các nước kém phát triển. Do vậy, nguồn lợi thuỷ sản giảm sút nhanh chóng,
nhiều loài thuỷ sản quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Để có nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững, nhiều quốc gia trong đó có Việt
Nam chọn biển là hướng phát triển kinh tế mũi nhọn và thủy sản là một loại nguồn tài
nguyên được quan tâm hàng đầu. Chính vì thế, các nước trên thế giới đã và đang tìm
nhiều biện pháp để quản lý nguồn tài nguyên sinh vật biển để đảm bảo lợi ích chung. Để
làm được điều đó, công tác quản lý khai thác thuỷ sản được xem là có vai trò và vị trí đặc
biệt quan trọng trong toàn bộ hệ thống.
Nước ta nằm ở vùng nhiệt đới có trên 3.260 km bờ biển, 3.000 đảo, quần đảo và có
nhiều loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao. Đây là các điều kiện tốt để chúng ta phát triển
nghề cá. Giai đoạn từ năm 1993 – 2002, mỗi năm chúng ta đánh bắt được 1,100 – 2,647
triệu tấn thuỷ sản, riêng năm 2005 đạt tới gần 3,424 triệu tấn, nghề khai thác thuỷ sản
nước ta không chỉ cung cấp một phần nguồn đạm động vật cho con người mà còn đóng
góp khoảng 4% giá trị cho thu nhập quốc dân với kim ngạch xuất khẩu 2,742 tỷ USD,
đồng thời trực tiếp giải quyết công ăn việc làm cho trên 4 triệu lao động.
Trong những năm qua, nghề cá chúng ta phát triển khá nhanh, nhất là lĩnh vực khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản. Đây là điều đáng mừng, nhưng nếu được quản lý chặt chẽ có
thể dẫn đến sự phát triển bền vững.
Trước thực trạng đó, đòi hỏi những người làm công tác thuỷ sản phải nhận thức và
hiểu biết về những thuận lợi, khó khăn cơ bản đối với nguồn lợi thuỷ sản. Để trong quá
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước phải có định hướng và xây dựng chiến
lược cho sự phát triển của nghề cá nhằm thoả mãn nhu cầu hiện tại, nhưng không gây tổn
hại đến thế hệ tương lai. Chính vì thế, từ năm 2005 Bộ môn Công nghệ Khai thác Thủy
sản (Thuộc Khoa Khai thác, Trường Đại học Nha Trang) đã đưa môn học “Quản lý khai
thác thủy sản” vào chương trình đào tạo để giảng dạy cho sinh viên ngành Khai thác
2
Thuỷ sản và ngành Quản lý Khai thác và nguồn lợi thuỷ sản, với mục đích trang bị cho
sinh viên những kiến thức khoa học về lĩnh quản lý khai thác thuỷ sản.
Nội dung môn học Quản lý khai thác thuỷ sản gồm có 3 chương:
Chương I: Giới chung về công tác quản lý khai thác thuỷ sản
Chủ yếu giới thiệu các khái niệm về quản lý khai thác thuỷ sản, nguồn lợi thuỷ sản,
môi trường, đa dạng sinh học; chức năng của cơ quan quản lý thuỷ sản; các yếu tố liên
quan đến quản lý khai thác thuỷ sản…
Chương II: Nội dung công tác quản lý khai thác thuỷ sản
Chủ yếu giới thiệu các nội dung về xây dựng chính sách và kế hoạch quản lý thuỷ
sản; các biện pháp quản lý khai thác thuỷ sản; quá trình thực hiện quản lý … trên thế giới.
Chương III: Triển khai công tác quản lý khai thác thuỷ sản ở Việt Nam.
Chủ yếu giới thiệu về các nội dung như sau: Đặc điểm cơ bản về nghề khai thác
thuỷ sản ở nước ta; hệ thống tổ chức cơ quan quản lý nghề cá Việt Nam; công tác quản lý
khai thác thuỷ sản ở Việt Nam.
Với thời lượng 30 tiết, cuốn tài liệu này chỉ giới các nội dung chủ yếu liên quan
đến đến công tác quản lý khai thác thuỷ sản. Chưa đề cập đến việc tính toán, xác định các
thông số cụ thể cho từng loại nghề cá, từng vùng biển …
Mặc dầu khi biên soạn tôi đã cố gắng chọn lọc các tài liệu, các phương pháp tiếp
cận, cách trình bày, nhưng đây là lĩnh vực mới và được biên soạn lần đầu tiên nên không
thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy có kinh nghiệm trong Bộ
môn, các bạn đồng nghiệp đã góp ý, sửa chữa cho bản thảo hoàn chỉnh và mong muốn
nhận được các ý kiến đóng góp của tất cả mọi người để cuốn bài giảng này có chất lượng
tốt hơn.
3
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM.
1.1. Nguồn lợi thủy sản và hạn chế nguồn lợi thủy sản.
Cho đến nay có nhiều khái niệm về nguồn lợi thủy sản. Tùy thuộc vào tính chất của
vấn đề nghiên cứu mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau.
“Nguồn lợi thuỷ sản là bất kỳ động vật hoặc thực vật thuỷ sinh, định cư hoặc
không định cư, bao gồm tất cả các loài cá, giáp xác, nhuyễn thể, động vật có vú ở biển
hoặc trứng, cá mới nở, cá bột, cá con nhưng không bao gồm loài rái cá, rùa hoặc trứng
của chúng”, Luật Nghề cá Malaysia, 1985.
“Nguồn lợi thủy sản là phức hợp các loài thủy sinh vật có giá trị của một vùng địa
lý xác định, được con người khai thác và sử dụng trực tiếp cho những mục đích khác
nhau, trước hết là làm thực phẩm, sau là sử dụng như những nguyên liệu cho các ngành
công nghiệp, sản xuất dược liệu, làm cảnh …” (PGS.TS.Vũ Trung Tạng- TS. Nguyễn
Đình Mão, khai thác và sử dụng bền vững đa dạng sinh học thuỷ sinh vật và nguồn lợi
thuỷ sản Việt Nam).
“Nguồn lợi thủy sản là tài nguyên sinh vật trong vùng nước tự nhiên, có giá trị
kinh tế, khoa học để phát triển nghề khai thác thủy sản, bảo tồn và phát triển nguồn lợi
thủy sản”, Luật Thuỷ sản Việt Nam, 2003.
Quần đàn thủy sản có khả năng tăng trưởng mạnh về sinh khối nhưng chỉ đạt đến
một giới hạn nhất định. Giới hạn tăng trưởng được xác định bởi kích cỡ đàn cá hiện tại so
với tỷ lệ trung bình của đàn cá khi chưa bị khai thác. Duy trì sự sinh sản đàn cá cần có
một lượng lớn cá thể trưởng thành, cá bố mẹ và môi trường phù hợp để chúng có thể sống
qua các giai đoạn trong vòng đời của mình.
Có thể biết năng suất dạng tiềm năng của đàn cá thông qua phân tích khoa học, các
khái niệm và các phương pháp luận chuẩn mực. Tuy nhiên, ở những nơi không đủ năng
lực để làm việc này (ví dụ ở các cộng đồng dân cư ven biển truyền thống) cũng cho kết
quả đáng tin cậy thông qua việc quan sát mức độ khai thác theo thời gian và một số tính
toán ước lượng .
4
Đánh cá có trách nhiệm không nên để cho mức nguồn lợi trung bình vượt quá sức
tăng trưởng thuần tuý của nguồn lợi đó. Điều này có nghĩa là khối lượng đánh bắt có thể
cho phép vượt quá sản lượng tăng trưởng hàng năm. Sự biến thiên tự nhiên có thể khiến
cho sản lượng đánh bắt vượt quá sản lượng tự nhiên vào một số năm. Tuy nhiên, hành
động đó không làm cho sinh khối hoặc trữ lượng đàn cá xuống thấp hơn điểm tới hạn đã
được xác định trước, mà tại đó nguy cơ sụt giảm nguồn lợi tăng lên đến mức không thể
chấp nhận được. Nếu không tuân thủ quy tắc này, có thể nguồn lợi sẽ bị cạn kiệt theo thời
gian, dẫn đến sản lượng tối ưu trung bình và lợi nhuận kinh tế giảm đi và thì rủi ro, khủng
hoảng sinh học, sự bất ổn định, mức lãng phí về kinh tế hoặc tuyệt chủng nguồn lợi thủy
sản cũng sẽ tăng lên đến ngưỡng không thể kiểm soát được.
Các loại cá trong các quần thể bao gồm một số đối tượng có khả năng tự duy trì sự
sống, mang đặc trưng về giống theo những đặc điểm khác nhau về hành vi cũng như về
mặt đại dương học và địa hình. Quản lý khai thác phải có cách giải quyết riêng biệt đối
với từng loài nguồn lợi hoặc đưa ra một tỷ lệ khai thác chung để các thành phần của một
nguồn lợi đa loài không giảm sút tới mức nguy hiểm. Nếu không thực hiện được điều này,
sẽ có nguy cơ tuyệt chủng hoặc cạn kiệt nghiêm trọng đối với từng đàn cá riêng lẻ, ngay
cả khi đàn cá đang ở trong tình trạng phát triển tốt. Sự biệt lập về di truyền của nguồn lợi
có thể bao hàm sự tuyệt chủng một số đối tượng và khó có thể cứu ván được, điều đó sẽ
gây tổn hại vĩnh viễn đối với trạng thái và năng suất của quần đàn thủy sản nói chung, và
đối với một số ngư trường nói riêng.
Ngoài việc tránh khai thác quá mức các nguồn lợi thủy sản cụ thể, cơ quan quản lý
cần tránh các hành động gây tác động bất lợi cho tính đa dạng di truyền của một quần đàn
hoặc một đàn cá. Áp lực khai thác lâu dài vượt quá mức đối với một tỷ lệ nào đó, có thể
làm giảm các đặc tính về chọn giống và làm giảm tỷ lệ dị hợp tử của quần đàn. Trong khi
đó ở nhiều nơi cũng như nhiều chiến lược đánh giá và quản lý nguồn lợi thuỷ sản chỉ tập
trung vào đơn loài hoặc một số đàn cá, trên thực tế mọi nguồn lợi thủy sản đều có chức
năng phụ thuộc. Do đó, khai thác bất kỳ loài nào cũng sẽ có tác động nhất định đến các
loài khác (giữa loài ăn thịt và con mồi). Sự tác động giữa các loài có thể dẫn đến những
thay đổi về cân bằng của hệ thống nguồn lợi và có khả năng ảnh hưởng đến sự lựa chọn
trong tương lai. Các tác động đa loài này cần được tính đến khi đánh cá có trách nhiệm,
nhằm đảm bảo sẽ không có bất kỳ một loài nào bị giảm xuống mức khai thác bền vững
cho dù là sản phẩm có mục tiêu hay không có mục tiêu.
Hậu quả của chính các tác động đa loài trong khai thác là khó có thể khai thác đồng
thời sản lượng bền vững tối đa của một tập hợp loài tại một khu vực nhất định. Mỗi thành
phần của tập hợp loài đều có một thông số sinh học và đặc điểm riêng. Do đó, cần có một
cơ chế khai thác riêng cho từng loài, trong khi trên thực tế không bao giờ đáp ứng được
điều kiện này. Ngoài ra, việc thay đổi số lượng loài ăn thịt (hoặc loài mồi) cũng gây ảnh
hưởng đến thành phần khác của tập hợp loài, mà mối quan hệ tương hỗ của chúng rất khó
dự đoán, nên năng suất đa loài tối ưu của một khu vực nhất định luôn luôn thấp hơn năng
suất tiềm ẩn của mỗi loài đơn lẻ. Bởi vậy, nghề đánh cá có trách nhiệm không khuyến
khích đạt được sản lượng bền vững tối đa cho từng bộ phận của một quần thể đa loài, vì
nó dẫn tới nạn khai thác quá mức đối một số đàn cá khác.
5
1.2. Môi trường và hạn chế của môi trường.
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Đặc biệt sau Hội nghị Stock holm về môi trường năm 1972 và sau Hội nghị thượng đỉnh về
môi trường và phát triển tháng 06 năm 1992 tại Reo de jeneiro, Brazil với 178 nước tham gia.
Theo định nghĩa của ông S.V.Kalesnik: “Môi trường (được định nghĩa với môi
trường địa lý) chỉ là một bộ phận của trái đất bao quanh con người, mà ở mọi thời điểm
nhất định xã hội loài người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường có
quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con người”
(S.V.Kalesnik – Các quy luật địa lý chung của trái đất).
Trong báo cáo của toàn cầu năm 2000, công bố năm 1982 đã nêu ra định nghĩa môi
trường như sau: “Môi trường là những vật thể vật lý và sinh học bao quanh con người …
Mối quan hệ giữa loài người và môi trường của nó chặt chẽ đến mức mà sự phân biệt giữa
cá thể con người với môi trường bị xóa nhòa đi. Môi trường là tổng hợp các yếu tố vật lý,
sinh học bao quanh con người, nó bao gồm không khí, đất nước, các tổ chức sống …”
Tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là: “Toàn bộ hệ thống
tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh
sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo
nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người”
“Luật bảo vệ môi trường” của Việt Nam định nghĩa: “Môi trường bao gồm các yếu
tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người, của thiên
nhiên”.
Môi trường biển bao gồm các tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái biển (rừng ngập
mặn) và chất lượng nước biển, cảnh quan biển. Môi trường biển không chỉ bao gồm các
vùng biển với các đặc trưng lý hoá của chúng mà còn cả tài nguyên sinh vật, vật lý và hoá
học của vùng cửa sông, các vùng ngập mặn bao gồm cả trầm tích, các vùng thuỷ triều lên
xuống, các vùng đầm lầy, và bầu khí quyển phía trên mặt biển. Các hoạt động của con
người cũng là một phần của môi trường biển và chúng tác động trực tiếp làm thay đổi
chất lượng của các vùng ven biển do đó có tác động không nhỏ lên các loài thuỷ sản.
Các giai đoạn trong vòng đời của mỗi loài thủy sản đều chịu ảnh hưởng bởi điều
kiện môi trường vì điều kiện đó có thể tác động đến mức tăng trưởng, tỷ lệ sinh và tỷ lệ
chết của loài đó. Giai đoạn đầu tiên của vòng đời đặc biệt nhạy cảm với các ảnh hưởng
này, dẫn đến sự khác biệt lớn về số lượng cá thể theo thời gian. Một vấn đề quan trọng đối
với quản lý thủy sản là dao động về số lượng cá hàng năm, và sự thay đổi về đặc điểm
chức năng của hệ sinh thái, trong đó bao gồm thành phần, số lượng, vị trí của quần đàn
thủy sản có thể thay đổi rất lớn qua những giai đoạn và có thể kéo dài hàng thập kỷ và
được thúc đẩy bởi yếu tố môi trường. Trong quản lý khai thác thủy sản cần nhận thức
được sự thay đổi này, đặc biệt là cố gắng phản ánh được sự thay đổi hàng năm vào các kế
hoạch quản lý. Điều này đòi hỏi ngành thủy sản phải có khả năng giải quyết được vấn đề
6
trữ lượng và năng suất bị giảm xuống dưới mức trung bình trong một số năm do những
biến động của môi trường tự nhiên. Do đó, không nên xác định trữ lượng thủy sản dựa
vào sản lượng hàng năm (vì điều này chỉ đúng trong một số năm có năng suất tốt), mà
phải dựa vào mức trung bình trong một thời gian dài, khoảng biến thiên linh hoạt để cho
phép giảm cường lực khai thác vào những năm đạt kết quả năng suất khai thác thấp. Nếu
không thực hiện được như vậy, sẽ gây áp lực liên tục tăng do khai thác quá mức đối với
nguồn lợi, nhất là trong những năm đạt sản lượng trung bình, và đối với khả năng sinh lợi
nói chung còn hạn chế của nghề cá.
Sự biến đổi về môi trường cũng có thể ảnh hưởng đến sự tập trung của nguồn lợi
thủy sản, chẳng hạn do đàn cá sẽ bị phân tán nên khó tập trung chúng vào khu vực dễ
đánh bắt. Trong quản lý khai thác cần chú ý đến sự thay đổi tính chất tập trung của nguồn
lợi theo chiều hướng đó và tránh hiểu nhầm đó là do sự thay đổi về kích cỡ đàn cá, vì điều
này sẽ dẫn đến việc ra các quyết định sai lầm trong quản lý, cũng như dẫn tới kết quả
đánh bắt không có tính bền vững.
Ở hầu hết các hệ sinh thái, thông thường một đàn cá không bị khai thác sẽ có xu
hướng dao động quanh mức tối đa trung bình, tương ứng với khả năng thích ứng trung
bình của môi trường sống quanh chúng. Năng suất sinh sản lâu dài của một đàn cá phụ
thuộc vào khả năng thích ứng của chúng với môi trường. Tuy nhiên, khả năng thích ứng
không chỉ thay đổi qua thời gian do những biến động của tự nhiên mà còn bị giảm do hoạt
động của con người, suy thoái môi trường ven biển (do phát triển đô thị hoặc sử dụng tàu
lưới kéo trong môi trường nhạy cảm), thay đổi dòng chảy của sông hoặc do ô nhiễm. Điều
này có thể gây tác hại xấu đến khả năng sinh sản và phát triển của đàn cá, góp phần làm
tăng nguy cơ khai thác quá mức. Cơ quan quản lý cần đánh giá tác động của những ảnh
hưởng này đối với tình trạng nguồn lợi thủy sản và môi trường sống tự nhiên của chúng.
Nếu xảy ra tình trạng đó, phải áp dụng các biện pháp để cải thiện tình hình. Một số biện
pháp có thể thực hiện là:
- Ngăn chặn những tác động xấu đến môi trường do các hoạt động của con người
gây ra.
- Điều chỉnh áp lực khai thác ở các ngư trường quan trọng.
- Khôi phục nguồn lợi thủy sản và môi trường sống tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của sinh vật sống nói chung và nguồn lợi thủy sản nói riêng.
Cải thiện môi trường sống có thể tác động tích cực đến khả năng sinh sản của
nguồn lợi thủy sản, ví dụ thông qua các quy định phù hợp về rạn nhân tạo, khôi phục
vùng ven biển đã bị phá huỷ hoặc bị tổn thương, khôi phục môi trường sống ở vùng cửa
sông ven biển hoặc nâng cao chất lượng nước. Cần chú ý duy trì hoặc khôi phục môi
trường sinh sản và đường di cư của nguồn lợi thủy sản, kể cả đường di cư ở dọc bờ biển,
gần bờ và xa bờ.
1.3. Đa dạng sinh học.
Thuật ngữ "đa dạng sinh học" lần đầu tiên được Norse and McManus (1980) định
nghĩa, bao hàm hai khái niệm có liên quan với nhau là: đa dạng di truyền (tính đa dạng về
7
mặt di truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái (số lượng các loài trong một quần xã
sinh vật). Đến nay, có ít nhất 25 định nghĩa nữa cho thuật ngữ "đa dạng sinh học. Các
định nghĩa khác về Đa dạng sinh học có thể nói đến là:
- Theo Công ước về đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học" (biodiversity,
biological diversity) là: Sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm
các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như
các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần, ; thuật ngữ này bao hàm sự
khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái.
- Theo tổ chức Nông-Lương của Liên hợp quốc đa dạng sinh học “Là sự đa dạng
của sinh vật sống của mọi nguồn lợi. Trong đó, gồm nguồn lợi trên cạn, dưới biển, các
nguồn lợi thuỷ sinh khác và các hệ sinh thái mà nguồn lợi tồn tại; gồm sự đa dạng trong
một loài, giữa các loài và hệ sinh thái. Chỉ số đa dạng sinh học là thước đo của sự phong
phú (số loài trong một hệ thống), và ở một khía cạnh nào đó, kể cả sự cân bằng (sự biến
thế của các loài ở địa phương). Do đó, nó không khác với sự thay đổi của loài mà có thể
phản ánh được trạng thái căng của hệ sinh thái”, FAO.
Hoạt động khai thác thuỷ sản không phải tập trung vào tất cả các nguồn lợi sinh vật
biển mà chỉ tập trung vào một hay một số loài trong một hệ sinh thái. Tuy nhiên, chúng
thường ảnh hưởng đến các thành phần khác của hệ sinh thái do khai thác sản phẩm phụ
trong hệ sinh thái đó, làm thiệt hại đối với hệ sinh thái hoặc chuỗi thức ăn. Quản lý khai
thác và khai thác thuỷ sản va hoạt động nghề cá có trách nhiệm cần tính đến các tác động
của thủy sản đối với hệ sinh thái nói chung, gồm cả đa dạng sinh học và cần cố gắng sử
dụng bền vững toàn bộ hệ sinh thái và cộng đồng sinh học.
Đến nay, nhiều đàn cá trên thế giới đã bị khai thác quá mức hoặc hoàn toàn cạn
kiệt, điều này khiến cho sản lượng thu được rất thấp, làm tăng nguy cơ giảm sút nguồn lợi
và gây thay đổi xấu đối với hệ sinh thái. Theo Công ước về Luật biển năm 1982
(UNCLOS – United Nation Convention on the Law of the Sea, 1982), bên cạnh đó quản
lý khai thác cần khôi phục lại quần đàn thủy sản đã bị cạn kiệt ở mức cao hơn mức sinh
sản tối đa (ví dụ, đến mức sinh khối cao hơn mức sản lượng bền vững tối đa MSY-
Maximum Sustainable Yield).
Đối với nghề cá đơn loài, sự tác động này là không lớn nhưng đối với nghề cá đa
loài sự tác động này là đáng kể. Bởi vậy, cần có chính sách hợp lý để quản lý tốt không
chỉ nguồn lợi mục tiêu mà cả nguồn lợi phụ trong thành phần sản phẩm.
1.4. Phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về
mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái
niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia sẽ
8
dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa riêng để hoạch định chiến
lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ phát triển bền vững xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong tác phẩm
“Chiến lược bảo tồn thế giới của Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
quốc tế” (IUCN - International Union for Conservation of Nature) với nội dung như sau:
"Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải
tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED - World Commission on
Environment and Development, 1987 - nay là Ủy ban Brundtland), thì phát triển bền vững
là: "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn
hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai " Nói cách khác, Phát
triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi
trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội,
nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội Như vậy, phát triển bền vững là đảm bảo được sự
dung hòa ba yếu tố: Phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo
vệ, gìn giữ.
Theo nhà kinh tế học Herman Haly thì “phát triển bền vững” là: “Một thế giới bền
vững là một thế giới không sử dụng các tài nguyên tái tạo (như nước, thổ nhưỡng, sinh
vật) nhanh hơn khả năng tái tạo của chúng. Một xã hội bền vững cũng không sử dụng các
nguồn tài nguyên không tái tạo (như khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch) nhanh hơn quá
trình tìm ra những loại thay thế chúng và không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh
hơn quá trình Trái đất hấp thụ và vô hiệu hóa chúng”.
Trong lĩnh vực thuỷ sản, khái niệm phát triển bền vững cũng đã được đề cập nhiều
trong các báo cáo, đề tài nghiên cứu khoa học cũng như trong các văn bản pháp quy.
Theo Luật hướng dẫn ứng xử nghề cá có trách nhiệm (FAO), thuật ngữ này cũng
được đề cập đến như sau: “Quản lý nghề cá phải khuyến khích đảm bảo chất lượng, đa
dạng và sự sẵn có của nguồn lợi thuỷ sản về số lượng cho thế hệ hiện tại và tương lai, về
lĩnh vực an toàn thực phẩm, xoá đói và phát triển bền vững. Các biện pháp quản lý phải
đảm bảo không chỉ việc bảo tồn các loài đánh bắt có mục đích mà còn cả các loại thuộc
hệ sinh thái tương tự hoặc có liên quan hay phụ thuộc vào loài cá đánh bắt có mục đích”.
Trung tâm phát triển nghề cá Ðông Nam Á (SEAFDEC) cho rằng: “Phát triển bền
vững là sự quản lý và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên dựa trên các định hướng kỹ thuật, các
thay đổi thể chế và công việc như hình thức đảm bảo duy trì liên tục thoả mãn nhu cầu
hiện tại của con người và thế hệ tương lai. Phát triển bền vững (trong Nông nghiệp, Lâm
nghiệp và Thuỷ sản) sẽ bảo tồn nguồn lợi đất, nước, nguồn lợi di truyền, các động, thực
vật và bảo vệ môi trường không bị suy thoái, thích hợp về kỹ thuật, thúc đẩy phát triển
kinh tế và được xã hội chấp nhận”.
9
Chính vì thế, các quốc gia phải thiết lập chính sách và khung pháp lý liên quan đến
phát triển bền vững nghề cá và sử dụng có trách nhiệm các nguồn lợi thuỷ sinh. Các
khung pháp lý này cần xem xét đến chính sách, luật và quy định quản lý nghề cá ở cấp
quốc gia và ảnh hưởng của thương mại quốc tế đến việc sử dụng bền vững nguồn lợi thuỷ.
Như vậy, có thể thấy: “phát triển bền vững là một sự phát triển lành mạnh, trong
đó sự phát triển của cá nhân này không làm hại đến lợi ích của cá nhân khác, sự phát triển
cá nhân không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng, sự phát triển của cộng đồng người
này không làm thiệt hại đến lợi ích cộng đồng người khác, sự phát triển của thế hệ hôm
nay không xâm hại đến lợi ích của các thế hệ mai sau và sự phát triển của loài người
không đe dọa sự sống còn hoặc làm suy giảm nơi sinh sống của các loài khác trên hành
tinh (các loại cộng sinh). Bởi vì sự sống còn của con người là dựa trên cơ sở khai thác
tiềm năng của các loài khác, dựa trên cơ sở duy trì được sản lượng, năng suất tự nhiên,
khả năng phục hồi và sự đa dạng của sinh quyển”.
1.5. Quản lý khai thác thuỷ sản.
Vào cuối những năm 40 của thế kỷ 20 thuật ngữ “quản lý nghề cá” được các nước
có nghề cá phát triển ở châu Âu đề cập nhiều, nhằm có thoả thuận thống nhất về lĩnh vực
quản lý nghề khai thác cá biển.
Theo tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc (FAO - Food and Agriculture
Organization) thì khái niệm quản lý nghề cá được hiểu như sau:
Quản lý nghề cá là một quá trình tổng hợp về thu thập thông tin, phân tích, quy
hoạch, tư vấn, ra quyết định, phân bổ nguồn lợi, xây dựng và thực hiện các quy định
hoặc các luật lệ và thi hành khi cần thiết, nhằm quản lý các hoạt động khai thác để
đảm bảo năng suất tiếp tục của nguồn lợi và đạt được các mục tiêu khác về khai thác
thủy sản.
Hội thảo quốc tế về nghề cá có trách nhiệm ở thành phố Can cun, năm 1992
(Mexico) đã thống nhất:
Quản lý nghề cá là “Hoàn thiện việc sử dụng bền vững nguồn lợi thuỷ sản hài
hoà với môi trường; thực hiện nuôi trồng và đánh bắt không gây hại cho hệ sinh thái,
nguồn lợi và chất lượng, kết hợp giá trị gia tăng với các sản phẩm thông qua quá trình
vận chuyển để đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh cần thiết; quản lý các hoạt động thương mại
để cung cấp cho khách hàng sản phẩm có chất lượng tốt”, (Cacun, 1992).
10
Quan điểm 1:
Quản lý nghề cá đòi hỏi phải có một chuỗi các nhiệm vụ phức tạp và tổng quát,
nhằm đạt được lợi ích tối đa cho những người sử dụng ở địa phương, ở cấp nhà nước hoặc
khu vực qua việc sử dụng bền vững nguồn lợi thủy sản. Trong quá trình thực hiện quản lý
nghề đánh bắt cá cần có các nghiên cứu, phân tích và đánh giá số liệu về thủy sản cũng
như quá trình thể chế hoá việc soạn thảo các văn bản pháp quy. Theo các quan điểm trên,
quản lý nghề cá bao gồm các nội dung sau:
1. Lập chính sách và đề ra mục tiêu quản lý từng nghề cá cụ thể (như nghề lưới
vây, nghề câu cá ngừ đại dương, nghề săn cá voi …) hoặc loài thủy sản cụ thể; xem xét
đặc điểm sinh học của nguồn lợi; bản chất của nghề khai thác hiện có và nghề khai thác
tiềm năng cũng như các hoạt động khác có liên quan hoặc có tác động đến nguồn lợi và
đóng góp tiềm năng về kinh tế - xã hội của nghề cá đối với nhu cầu và mục tiêu quốc gia
hoặc địa phương.
2. Lựa chọn và thực hiện các biện pháp để tạo điều kiện cho cơ quan quản lý, ngư
dân và các nhóm có liên quan khác cùng hoạt động theo các mục tiêu đã xác định.
Nhiệm vụ này được thực hiện trong quá trình tư vấn với tất cả các nhóm có liên
quan. Các hoạt động cần thực hiện như: Xây dựng và thực hiện kế hoạch quản lý đối với
mọi nguồn lợi nhằm đảm bảo nguồn lợi và môi trường sống duy trì được trạng thái sinh
sản và phát triển; thu thập, phân tích dữ liệu cần thiết về nghề khai thác cá và sinh học cá
để đánh giá nghề cá; phê chuẩn và ban hành các luật lệ phù hợp cũng như các quy định
cần thiết để đạt được các mục tiêu nghề cá; giám sát, quản lý và theo dõi quá trình thực
hiện để rằng ngư dân tuân thủ luật pháp và các quy định đã đề ra.
3. Tư vấn và thương lượng với những người đánh bắt hoặc nhóm người có liên
quan đến nguồn lợi và cả những người không trực tiếp liên quan đến hoạt động khai thác
thuỷ sản nhưng lại có tác động đến thủy sản.
Do đó, cơ quan quản lý thuỷ sản cần xem xét và đảm bảo hợp lý lợi ích từ thủy sản
và đưa vào quy hoạch hợp lý, kết hợp phù hợp với các hoạt động kinh tế khác.
4. Tham gia tư vấn với những người sử dụng nguồn lợi thuỷ sản.
5. Thường xuyên đánh giá mục tiêu và biện pháp quản lý để bảo đảm tính phù hợp
và hiệu quả của các mục tiêu và biện pháp đề ra.
11
6. Báo cáo cho chính quyền, ngư dân và cộng đồng về tình trạng của nguồn lợi và
biện pháp quản lý đã, đang và sẽ áp dụng.
Tổ chức nghề cá liên chính phủ của Liên hiệp quốc (LHQ) đánh giá rất cao tầm
quan trọng của vấn đề quản lý nghề cá bằng luật pháp và đã được đưa vào Công ước quốc
tế về luật biển năm 1982 (UNCLOS - United Nations Convention on the Law of the Sea).
Hội nghị các quốc gia phát triển về vấn đề quản lý biển và phát triển nghề cá (vào năm
1972 và 1984) đã ghi nhận: “Quản lý nghề cá là một phần quan trọng trong kế hoạch
phát triển nghề cá, là cơ sở để nghề cá phát triển nhanh, ổn định và có thể đạt được các
mục tiêu kinh tế - xã hội cũng như giải quyết nhiệm vụ về việc bảo đảm nhu cầu thực
phẩm cho nhân loại”.
Công ước quốc tế về luật biển (năm 1982) cũng đã đề ra cơ sở pháp lý chính cho
việc quản lý nghề cá vùng biển mở. Tuy nhiên, các biện pháp quản lý cũng như việc phân
chia nguồn tài nguyên sinh vật biển vẫn chưa được thống nhất.
Quan điểm 2:
Một số tác giả Châu Âu cho rằng: Nhiệm vụ chính của việc quản lý nghề đánh bắt
cá biển là phải thoả thuận việc phân chia nguồn tài nguyên biển giữa các nước. Cách nhìn
nhận này bắt nguồn từ việc cho sinh vật biển ở vùng biển khơi nói chung và tài nguyên cá
nói riêng là tài sản sở hữu chung của loài người. Ý kiến này phủ nhận nguyên tắc tự do
đánh bắt cá ở ngoài biển khơi và toàn bộ luật pháp quốc tế hiện hành về khai thác hợp lý
tài nguyên sống của biển.
Bên cạnh đó, các tác giả Canada có thêm định hướng phát triển cho nghề cá thế giới,
cụ thể như sau:
1. Phủ nhận toàn bộ nội dung quản lý nghề cá trong Công ước quốc tế về luật biển.
2. Đòi hỏi phải ký kết Công ước quốc tế mới hoặc thay đổi một cách triệt để Công
ước quốc tế về luật biển hiện hành.
3. Tuyên bố toàn bộ nguồn tài nguyên biển thuộc sở hữu của tất cả các dân tộc và
hàng năm phân chia chúng bằng cách đấu thầu. Số lượng người và phương tiện được sử
dụng để đánh bắt sau khi đã đấu thầu cần được xác định dựa trên trình độ công nghệ của
dân tộc đó.
12
Với cách hiểu này sẽ chỉ dẫn đến nhiều mâu thuẫn hơn là đảm bảo sự công bằng và
phát triển tốt nhất cho nghề cá. Vì thế, cuộc chiến tranh cá có thể xảy ra giữa các nước
tranh chấp.
Theo Smith và Tietepcon (Mỹ), quản lý nghề đánh bắt cá biển truyền thống có thể
phối hợp các tiêu chí như: Tiêu chí quy định kích thước mắt lưới nhỏ nhất ở các bộ phận
liên quan đến tính chọn lọc của ngư cụ (đụt lưới kéo, tùng lưới rùng, lưới vây ); tiêu chí
qui định thời vụ và khu vực đánh bắt… và cần phải có những điều chỉnh cần thiết trong
quá trình thực hiện.
Như vây, quản lý nghề cá và điều chỉnh nghề cá có sự khác nhau cơ bản sau:
- Quản lý nghề cá: là tổng thể nhiều biện pháp, bao gồm: bảo vệ (kích thước đàn
cá, môi trường sống, ngăn chặn dịch bệnh) và tải tạo nguồn tài nguyên biển, đánh giá trữ
lượng …
- Điều chỉnh nghề cá: là 1 tập hợp con của quản lý, thực hiện nội dung cụ thể của công
tác quản lý.
Mối liên hệ giữa hai yếu tố này là chặt chẽ và không thể tách biệt nhau, mỗi yếu tố
đều mang trong nó yếu tố kia.
Nếu quan hệ khai thác phức tạp và cần thiết phải áp dụng các biện pháp có quy mô
lớn hơn để bảo vệ tài nguyên không bị khai thác quá mức có thể chuyển từ điều chỉnh
nghề cá sang quản lý và biện pháp này thường được áp dụng ở giai đoạn đầu của quá trình
quản lý nghề cá.
Như vậy, theo các quan điểm (Mỹ và Châu âu) trên những nội dung quan trọng cần
quản lý bao gồm:
- Đề ra những biện pháp hiệu quả để quản lý nghề cá gồm những biện pháp về quy
chuẩn kỹ thuật mang tính pháp lý như: Qui định vùng biển đánh bắt, mùa vụ đánh bắt,
phân chia quyền quản lý giữa các nước có liên quan, hạn chế tốc độ đánh bắt cá một cách
tự phát…; biện pháp hành chính: đưa ra các quy định về mặt hành chính để hỗ trợ cho các
biện pháp kỹ thuật.
- Thiết lập hệ thống giám sát quốc tế nhằm theo dõi việc tuân thủ các quy định đã
được ban hành với mục đích quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
13
- Ký kết Công ước quốc tế về sự hợp tác giữa các nước trong lĩnh vực nghề đánh
bắt cá biển.
- Mở rộng quyền lực của tổ chức quản lý nghề cá liên chính phủ như việc vạch ra
những qui định mới về nghề đánh bắt cá, hoàn thiện những qui tắc về nghề đánh cá biển
hiện hành.
- Áp dụng các biện pháp chung về tái tạo lại nguồn lợi thuỷ sản.
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm và nguồn tài nguyên
sống của biển không bị lây nhiễm bệnh.
Từ 2 quan điểm trên, nội dung của quản lý khai thác thuỷ sản bao gồm:
1. Điều tra và đánh giá NLTS.
2. Lập chính sách và đề ra mục tiêu quản lý.
3. Lựa chọn và thực hiện các biện pháp quản lý, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản cũng
như bảo vệ chúng.
4. Tư vấn và hiệp thương với những người đánh bắt hoặc nhóm người có liên quan
(trực tiếp hoặc không tiếp) đến nguồn lợi.
5. Tham gia tư vấn với những người sử dụng nguồn lợi thuỷ sản.
6. Báo cáo cho chính quyền, ngư dân và cộng đồng về tình trạng của nguồn lợi và
biện pháp quản lý đã, đang và sẽ áp dụng.
7. Thiết lập hệ thống giám sát nhằm theo dõi việc tuân thủ các quy định đã được
ban hành trong hoạt động thuỷ sản.
II. CHỨC NĂNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ KHAI THÁC THUỶ SẢN.
Cơ quan quản lý khai thác thủy sản cần phải tuân thủ các yêu cầu về quản lý nghề cá
có trách nhiệm, đặc điểm của từng nghề cá cụ thể và các quốc gia cụ thể, phải được xây
dựng phù hợp với sự mong đợi và nhận thức của người sử dụng nguồn lợi thuỷ sản.
Nói rộng hơn, các cơ quan quản lý nghề cá có thể có nhiều mối quan hệ khác nhau
với các cá nhân hoặc nhóm người có cùng lợi ích với quốc gia hoặc những quốc gia có
xác định quyền và trách nhiệm của mình. Để có được điều này, có thể xây dựng các quy
chế, cơ chế và cơ cấu hỗ trợ tổ chức để phát triển và thực hiện các quy chế có tác động
14
đến việc sử dụng nguồn lợi thủy sản. Các cơ cấu hỗ trợ này có thể bao gồm: cơ quan quản
lý nghề cá, cơ quan quản lý liên chính phủ, để tập hợp hoặc thành lập một ban của những
người sử dụng nguồn lợi.
Đối với nghề cá quốc tế, đại diện của các quốc gia hữu quan có thể là các bên
(nhóm) có cùng lợi ích và phải chịu trách nhiệm đối với lợi ích của công dân, mà một số
người có thể là thành viên của nhóm cùng có chung lợi ích ở một hoặc giữa các quốc gia,
chẳng hạn các tổ chức của ngư dân (Hội nghề cá, Hội những người khai thác…) hoặc tổ
chức phi chính phủ.
Đối với nghề cá thuộc vùng tài phán quốc gia, các quốc gia phải quyết định nghề
cá đó có thể liên quan đến các nhóm có cùng lợi ích. Trong cả hai trường hợp, các quốc
gia cần phải thừa nhận đại diện của mình hoặc đại diện của các nhóm có thể thể hiện lợi
ích hợp pháp và cam kết trước những mục tiêu quản lý.
2.1. Đặc điểm của cơ quan quản lý KTTS.
Cơ quan quản lý khai thác thủy sản có các đặc điểm sau:
1. Các cơ quan quản lý nghề cá có thể rất khác nhau về bản chất, về quy chế, về cơ cấu tổ
chức, cơ chế và cách thức thành lập.
Tính hiệu quả của một cơ quan quản lý thủy sản phụ thuộc rất nhiều vào tính phù
hợp của các thành phần riêng rẽ và các quan hệ tương hỗ của các thành phần đó. Nguyên
nhân của việc quản lý nghề cá yếu thường là sự thiếu hụt thể chế về mặt chức năng và tập
hợp. Ngoài ra, nhận thức về tính hợp pháp của các cơ quan thể chế có ảnh hưởng đến quy
mô và ở mức độ đó các cơ quan có thể thực hiện tốt các trách nhiệm quản lý của mình.
2. Các nhóm có cùng lợi ích cần có những điều kiện để các thành viên đáp ứng được
những tiêu chuẩn cụ thể trong quản lý thủy sản.
Trong quản lý người ta thường xây dựng các tiêu chuẩn về sản xuất, về thị trường,
về bảo tồn nguồn lợi, bảo vệ môi trường …. và phải dựa vào các yếu tố chung hoặc yếu tố
riêng lẻ, chẳng hạn như vùng địa lý; cảng; cộng đồng dân cư; ngư cụ; loại thủy sản, các
nhóm này có thể có hiệu quả và tạo ra hoạt động quản lý tốt hơn khi xác định được các
yếu tố quản lý đồng nhất.
Cơ quan cuối cùng quyết định thường thuộc về cơ quan chính trị hữu quan. Trong
quản lý thủy sản có trách nhiệm đòi hỏi mối quan hệ đối tác phải có nhiều hình thức phối
hợp với các nhóm có cùng lợi ích và được coi là sự lựa chọn để sắp xếp hệ thống trách
nhiệm quản lý trong cơ cấu hoặc tổ chức.
3. Thiết kế thể chế nhằm đảm bảo phối hợp với các nhóm có cùng lợi ích trong quá trình
quản lý thủy sản, bao gồm việc lập ra những cơ chế thông tin nhằm thể hiện đầu ra của
quá trình hoạch định quản lý, thông qua việc lập cơ chế tư vấn dành cho tổ chức chính
phủ có trách nhiệm để thu thập thông tin và nhận chỉ dẫn từ những nhóm có cùng lợi ích
15
này; xây dựng các cơ chế cụ thể để chia sẻ trách nhiệm quản lý ở các cấp độ uỷ quyền
khác nhau. Trong điều kiện có thể, xem xét các cơ chế này để đảm bảo lợi ích cho các
nhóm, quy định chi phí hoạt động của cơ quan quản lý thủy sản ở mức phù hợp nhằm
thực hiện chức năng của mình.
4. Năng động và cần sự giám sát, đánh giá, điều chỉnh các thể chế. Chẳng hạn, việc thông
qua một tổ chức thể chế hỗ trợ tính hiệu quả kinh tế có thể gặp phải khó khăn như giá trị
văn hoá, tính trì trệ ở trong tổ chức của các nhà sản xuất hoặc sự nhạy cảm chính trị đối
với hậu quả của sự thay đổi. Để làm cho các cơ quan quản lý phù hợp với tình trạng và
bản chất của nghề cá ở một số khu vực cụ thể, cần quan tâm áp dụng các phương pháp
tiếp cận linh hoạt và rõ ràng cho phép thường xuyên thực hiện đàm phán lại các biện pháp
quản lý. Thời gian có thể từ 3 – 5 năm một lần, các quốc gia cũng cần đánh giá công việc
của các cơ quan quản lý nghề cá và các cơ quan quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.
2.2. Chức năng của cơ quan quản lý KTTS.
Cơ quan quản lý thuỷ sản có các chức năng sau:
1. Xác định, thực hiện quy chế và chính sách.
Để nghề cá đạt các mục tiêu đề ra, cơ quan quản lý thuỷ sản cần phải xác định và
thực hiện các quy chế, chính sách một cách có hiệu quả và phù hợp.
Thông thường, những quy chế chủ yếu này đưa các mục tiêu, chính sách thành các
quyền, nghĩa vụ và được các công cụ chính sách khác hỗ trợ khi thi hành.
2. Chức năng phối hợp.
Cơ quan quản lý thủy sản có thể hợp tác với các cơ quan trực thuộc để thực hiện
nhiều chức năng khác nhau, hoặc có thể thành lập nhiều cơ quan độc lập nhưng có quan
hệ với nhau. Sự tồn tại, số lượng các cơ quan trực thuộc và bản chất của mối quan hệ giữa
các cơ quan này có sự khác nhau và phụ thuộc vào các yếu tố như: Chính trị, địa lý hoặc
tình trạng nguồn lợi thủy sản, quyền hạn được giao Tuy nhiên, trách nhiệm giữa các cơ
quan trực thuộc cần được phân định cụ thể và rõ ràng. Bất kể lựa chọn hình thức nào vẫn
cần chú ý đảm bảo có các kênh thông tin, trao đổi, có sự tham gia của các bên có cùng lợi
ích và với bất kỳ cơ quan nào khác có liên quan đến thủy sản.
3. Chức năng uỷ thác.
Khi các quốc gia uỷ thác toàn bộ hoặc một phần chức năng quản lý cho chính
quyền địa phương (ví dụ, ban quản lý, tổ chức các nhà sản xuất, Hội nghề cá hoặc cộng
đồng làng chài…), thì việc uỷ quyền này phải làm rõ chức năng, phân định vùng địa lý
hoặc đơn vị quản lý thuộc phạm vi của từng địa phương, cần đặc biệt chú ý tới các cam
kết và quyền chiếm hữu nguồn lợi, phân bổ đầu vào, quá trình tư vấn, cơ chế thu nhập và
phân tích thông tin dữ liệu và cơ cấu thi hành.
16
III. CHỨC NĂNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ KTTS.
3.1. Chức năng của công tác quản lý khai thác thuỷ sản.
3.1.1. Chức năng tổ chức.
Chức năng tổ chức của quản lý nghề cá là tổ chức bộ máy lấy hội đồng đại diện
của các nước thành viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Chức năng tổ chức được thể hiện qua sự tác động của pháp luật lên đối tượng quản
lý. Đó chính là các nước thành viên hoặc không phải là thành viên của tổ chức, trong một
số trường hợp tác động lên thể nhân và pháp nhân của chúng nhằm mục đích bảo đảm
việc đánh bắt cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sống của biển.
Chức năng của tổ chức nghề cá liên chính phủ của Liên hiệp quốc nhằm xếp đặt lại
nghề cá, ổn định hoạt động của những người làm nghề này (tổ chức, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực nghề cá) bảo đảm cho bước chuyển từ hoạt động đánh bắt tự do sang hoạt
động có tổ chức. Trên cơ sở các văn bản pháp luật mà các tổ chức hoạt động nghề cá có liên
quan chấp thuận. Để tổ chức được nghề đánh bắt cá hợp lý, người ta có nhiều biện pháp.
Một trong những biện pháp quan trọng là phải chuẩn y những qui chế, nguyên tắc hoạt
động, cơ cấu tổ chức v.v của nghề cá.
3.1.2. Chức năng điều chỉnh nghề cá.
Chức năng điều chỉnh nghề cá là: Sử dụng các biện pháp hành chính, kỹ thuật
tác động lên chủ thể tham gia khai thác thuỷ sản nhằm mục đích đưa nghề đánh bắt cá
biển phát triển theo các mục tiêu đã định.
Theo tổ chức nghề cá liên chính phủ của Liên hiệp quốc, chức năng điều chỉnh
nghề cá nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên biển khỏi sự khai thác qúa mức dẫn đến suy giảm
nguồn lợi.
Việc điều chỉnh nghề đánh bắt cá được thực hiện gián tiếp qua việc quản lý hoạt
động của các quốc gia trong lĩnh vực này. Biện pháp điều chỉnh mang tính pháp lý tác
động lên hành vi của các chủ thể nghề cá là: qui định, cho phép và cấm.
Đối tượng điều khiển của pháp luật về nghề cá có trách nhiệm thể hiện qua các yếu
tố cơ bản sau:
1. Pháp lý điều khiển nghề cá có thể bao hàm hoạt động của chủ thể nghề cá về
việc đánh bắt tất cả các loại hải sản.
2. Các văn bản pháp lý về điều khiển nghề cá phải có khả năng cho phép lựa chọn
hành vi xử sự. Nếu không có khả năng này thì không nên “chương trình hoá” hành vi của
các chủ thể tham gia hoạt động trong nghề đánh bắt cá biển.
17
3. Phạm vi điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này phụ thuộc vào tác động pháp lý
của những quy định pháp luật khác lên mối quan hệ trong nghề này.
4. Giới hạn điều chỉnh của luật trong lĩnh vực này phụ thuộc vào khả năng tiềm
tàng của luật quốc tế và phạm vi thẩm quyền của tổ chức quản lý nghề cá.
5. Giới hạn điều chỉnh của luật và các văn bản dưới luật ảnh hưởng rất lớn đến việc
nhận thức pháp luật của các quốc gia, của tất cả những người tham gia hoạt động trong
lĩnh vực này, họ muốn hay không pháp luật qui định cụ thể từng loại nghề trong lĩnh vực
ngư nghiệp.
Hiện nay, điều chỉnh nghề đánh bắt cá biển được thực hiện bằng các biện pháp phối
hợp:
- Bảo vệ cá con và các loài sinh vật khác sống ở biển.
- Quy định khối lượng và chiều dài tối thiểu của cá được phép đánh bắt. Tuy nhiên,
việc áp quy định này lại có sự khác nhau giữa các nước, các khu vực.
- Cấm xếp dỡ, vận chuyển và chế biến cá nhỏ và cá không đủ kích thước cho phép
đánh bắt.
Chẳng hạn: Chiều dài nhỏ nhất cá trích được phép khai thác tại vùng biển Tây
Scotlen do “tổ chức bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên biển” (1/1975) quy định
là 20 cm. Hoặc quy định theo trọng lượng tối thiểu của cá được phép khai. Chẳng hạn,
quy định cấm đánh bắt và bốc dỡ các loại cá ngừ có trọng lượng nhỏ hơn 3,2kg. Các qui
định về việc thiết lập kích cỡ nhỏ nhất của cá được phép đánh bắt mang tính nhất thời và
sẽ được điều chỉnh, phụ thuộc vào trữ lượng hiện có trong vùng biển khai thác và sự phân
bổ nghề khai thác của từng khu vực. Chẳng hạn, quy định trọng lượng các ngừ được phép
đánh bắt ở trên được thực thi từ ngày 1/7/1973 nhưng đến 10/8/1975 đã được điều chỉnh
lại là 6,4kg. Bên cạnh đó, ở khu vực gần bờ việc bảo vệ các loài cá nhỏ và cá cấm khai
thác còn được thực hiện bằng cách qui định kích thước nhỏ nhất của mắt lưới trong các
ngư cụ đánh bắt cá và kích cỡ nhỏ nhất của lưỡi câu; đồng thời cấm sử dụng các phương
tiện đánh bắt mang tính huỷ diệt khác như thuốc nổ, chất độc v.v… Biện pháp này thường
được tất cả các ủy ban quốc tế về quản lý nghề cá áp dụng.
Một trong những biện pháp quan trọng để bảo vệ các loài cá nhỏ là qui định tỷ lệ cá
nhỏ cho phép lẫn vào sản phẩm khai thác.
1. Theo qui định của tổ chức nghề cá liên chính phủ cần xác định nghề đánh bắt cá
chuyên nghiệp của từng loại, tránh dẫn đến việc lẫn lộn với công nghiệp chế biến từ đó
làm tăng khối lương cá bé bị đánh bắt.
2. Cần có qui định cụ thể về các phương tiện đánh bắt mà các tàu được phép mang
theo.
18
3. Cần thống nhất tỷ lệ lượng cá nhỏ tối đa trong sản lượng khai thác được. Tỷ lệ
này có sự khác nhau giữa các tổ chức. Chẳng hạn, ủy ban nghề cá Đại Tây Dương qui
định tỷ lệ này là 5-20%; uỷ ban quốc tế nghề cá Đông Nam Đại Tây Dương là 10-20%, ủy
ban cá ngừ Đại Tây Dương là 15%.
4. Phải hoàn thiện các phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý, quy chuẩn … để áp
dụng vào thực tế.
5. Cần phải nghiên cứu và quy định cụ thể phần đụt lưới kéo (cả tầng giữa và tầng
đáy), cấu tạo của thiết bị thoát cá nhỏ và rùa biển. Vì lưới kéo là một trong những ngư cụ
được sử dụng nhiều nhất ở trên thế giới, ở cả nghề cá công nghiệp và nghề cá thủ công.
3.1.3. Chức năng điều chỉnh tốc độ phát triển của nghề cá.
Hiện nay, nghề cá thế giới thường điều chỉnh tốc độ phát triển một số phương pháp sau:
- Thiết lập hạn ngạch khai thác.
- Cấp giấy phép đánh bắt cá.
- Quản lý tàu thuyền và ngư cụ đánh bắt cá.
Trong 3 phương pháp trên thì phương pháp xác định hạn ngạch khai thác được xem
là có hiệu quả nhất để bảo vệ tài nguyên biển và làm giảm tốc độ tăng trưởng của việc
khai thác tài nguyên biển và được nhiều nhiều quốc gia ủng hộ nhất. Điều chỉnh đánh bắt
cá với sự trợ giúp của hạn ngạch là biện pháp hiệu quả nhất, biện pháp có thể chấp nhận
nhất trong việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sống của biển. Ở các tổ chức nghề cá
quốc tế hạn ngạch là phương tiện khá hiệu quả để quản lý nghề cá.
Các phương pháp trên, tuy có nhiều ưu thế hơn so với các qui chuẩn kỹ thuật mang
tính pháp lý, nhưng nó không bảo đảm hoàn toàn được việc sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên sống của biển. Lý thuyết khoa học cơ bản về sinh thái học của sinh vật biển và tập
tính nguồn lợi sinh vật chưa được đề cập nhiều, nên chưa đánh giá khách quan sự thay đổi
lượng trữ lượng hàng năm và không xác định được con đường di chuyển của chúng.
Một số quốc gia trên thế giới đã sử dụng chức năng điều chỉnh tốc độ phát triển để
thoả thuận song phương hoặc đa phương về quản lý khai thác ở vùng biển đánh bắt
chung. Chẳng hạn, Liên Xô và Nhật Bản đã sử dụng chức năng này để quản lý khai thác
trên vùng biển đánh cá chung của 2 nước như sau:
1- Thông báo cho nhau về sản lượng hải sản đánh bắt theo thời gian quy định. Thực
hiện thông báo này phải là thuyền trưởng hoặc chủ tàu.
2- Quy định những thông tin cần thiết phải được ghi trong nhật ký khai thác thuỷ sản
như: Tên tàu, loại tàu, số đăng ký của tàu, năm đóng, quốc gia đăng ký tàu, ngư cụ đánh bắt,
thời gian bắt đầu thả ngư cụ đánh bắt (giờ, phút), thời gian thực hiện thu ngư cụ…
19
3- Khi vào vùng biển đánh bắt cá chung, các tàu phải mang dấu hiệu theo đúng quy
định và mời thanh tra viên của nước khác lên tàu để làm các thủ tục theo quy định như:
ghi vào sổ nhật ký đánh bắt ngày, giờ, tọa độ, tên của tàu kiểm tra, họ tên của thanh tra
đồng thời thanh tra viên cũng phải ghi vào sổ theo dõi của minh những điều tương tự.
4- Thiết lập những biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên sống của vùng biển đánh cá
chung và các biện pháp đó là:
+ Thiết lập vùng cấm đánh bắt cá có thời hạn và vô hạn;
+ Cấm bắt, nhận, chế biến, bảo quản, các đối tượng đã được áp dụng biện pháp bảo
vệ trong nghề cá;
+ Thiết lập các tiêu chuẩn về kích thước cho các loại cá được phép khai thác. Ví dụ,
chiều dài tối thiểu của cá Habara – 22cm; Tpecka - 38cm; …
+ Đối với nghề đánh bắt bằng lưới kéo, cấm dùng mọi phương tiện để bịt các mắt
lưới hoặc làm nhỏ kích thước mắt lưới.
5- Khi hoạt động khai thác trên vùng biển đánh bắt chung, các tàu của nước này có
thể có 2 quan sát viên của nước kia ở trên tàu. Các quan sát viên này có quyền theo dõi
việc tuân thủ các biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên sống của biển, các qui định liên quan
đến nghề cá và không được làm bất lợi cho việc đánh cá bình thường của tàu. Về phía tàu,
bộ phận hành chính phải cung cấp cho quan sát viên bất kỳ thông tin nào có liên quan đến
việc hoạt động nghề cá và bảo đảm không gây cản trở cho việc kiểm tra, giám sát.
Biện pháp trên mang tính pháp lý, khả thi làm giảm tốc độ đánh bắt cá và có thể
thực hiện được ở vùng biển khơi quốc tế. Tuy nhiên, biện pháp này sẽ không có hiệu quả
nếu các nước không tuân thủ nghiêm túc các quy định, nên các nhà quản lý đề nghị thành
lập ủy ban thường trực, cơ quan này sẽ ban hành hiệp ước bắt buộc tất cả các nước thành
viên thực hiện và làm giảm sự tranh chấp và đụng chạm tới các nước không phải là thành.
Vì thế, đã xuất hiện vấn đề có hay không sự hạn chế đối với nước không phải là thành
viên. Theo công ước về biển khơi năm 1958 và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982
thì tất cả các nước đều có quyền đánh bắt cá ở ngoài biển khơi nhưng phải chú ý đến
quyền lợi của các nước khác và phải tuân thủ các chế độ đánh bắt cá ở khu vực. Như vậy,
đối với các nước không tham gia vào các Hiệp ước khu vực cũng phải tuân theo các qui
định nghề cá.
3.2. Tầm quan trọng của công tác quản lý khai thác thuỷ sản.
Công tác quản lý khai thác thuỷ sản có tầm quan trọng rất lớn không chỉ với sự
phát triển của nghề cá mà còn cả về mặt kinh tế, xã hội, môi trường, sinh học, sinh thái …
1. Quản lý khai thác nhằm giúp nghề cá phát triển ổn định và bền vững theo các
mục tiêu xác định;
20
2. Bảo tồn và bảo vệ nguồn tài nguyên sống của biển;
3. Bảo vệ môi trường sống của thuỷ sản;
4. Bảo vệ đa dạng sinh học và sinh thái;
5. Làm ổn định hiệu quả sản xuất;
6. Phân phối công bằng quyền khai thác;
7. Giải quyết việc làm cho người lao động;
8. Giải quyết nạn tranh chấp trong lĩnh vực khai thác;
9. Duy trì và cung cấp nguồn thực phẩm đáng kể cho xã hội loài người;
10. Duy trì và phát triển ngành du lịch và giải trí …
IV. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ KHAI THÁC THỦY SẢN.
4.1. Cường lực khai thác.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm cường lực khai thác thuỷ sản:
Cường lực khai thác là số lượng tàu thuyền hoạt động khai thác trong một thuỷ vực
nhất định.
Cường lực khai thác là số lượng ngư cụ tham gia khai thác trong một thuỷ vực.
Cường lực khai thác là tổng công suất tàu thuyền tham gia khai thác thuỷ sản trong
thuỷ vực nhất định.
Cường lực khai thác là thời gian mà ngư cụ, tàu thuyền hoạt động trên vùng biển
trong một đơn vị thời gian.
Như vậy, có thể hiểu cường lực khai thác là toàn bộ sự cố gắng của con người thể
hiện qua số lượng ngư cụ, phương tiện, thời gian khai thác nhằm mục đích đánh bắt nhiều
nhất sản lượng thuỷ sản trong thuỷ vực.
Cường lực khai thác càng lớn, càng ảnh hưởng đến sự sinh sản và phát triển của
các đàn cá. Vì thế, cần có các quy định cụ thể nhằm hạn chế sự gia tăng cường lực.
Tuy nhiên, để quản lý được cường lực khai thác chúng ta lại phải làm một chuỗi
công việc phức tạp như đánh giá đúng tiềm năng nguồn lợi thủy sản hiện có, xác định số
lượng tàu thuyền khai thác phù hợp với mức nguồn lợi đó, số lượng và chủng loại ngư cụ
khai thác trong vùng biển, thời gian cho mỗi tàu được pháp khai thác… và vấn đề này cơ
21
bản đã được các nước có nghề cá phát triển giải quyết triệt để, nhưng ở các nước đang
phát triển và kém phát triển thì chưa được giải quyết.
4.2. Đối tượng khai thác.
Đối tượng khai thác có vị trí hết sức quan trọng trong quản lý khai thác thủy sản.
Tuỳ thuộc vào từng đối tượng khai thác, các nhà quản lý có thể xác lập được tiêu chuẩn
kích thước hoặc khối lượng khai thác tối ưu, xây dựng các vấn đề pháp lý, bảo vệ và bảo
tồn có hiệu quả. Bởi vì đối tượng khai thác có liên quan mật thiết với ngư cụ, công nghệ
khai thác. Chính vì thế, khi chúng ta quản lý được đối tượng khai thác tức là quản lý được
các tác động khác có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi.
Ở vùng nước nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản tập trung đa loài đặc biệt là đàn cá đáy
nhưng trữ lượng từng đàn cá lại nhỏ. Tính chất đa loài càng lớn càng khó để thiết lập
được tiêu chuẩn kích cỡ khai thác phù hợp, bởi lẽ trong một hệ sinh thái như vậy có rất
nhiều loài sống và kích cỡ của các loài đó lại khác nhau. Do đó, khi khai thác đối tượng
này thì ảnh hưởng đến đối tượng khác và người ta gọi các loài đó là đối tượng khai thác
không có mục tiêu hay gọi là cá tạp. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và nguồn lợi tại
từng vùng biển khác nhau mà tỷ lệ cá tạp cho phép lẫn vào sản lượng khai thác cũng khác
nhau. Chẳng hạn, ủy ban nghề cá Đại Tây Dương qui định lượng cá nhỏ bị đánh bắt cho
phép là 5-20%; uỷ ban quốc tế nghề cá Đông Nam Đại Tây Dương là 10-20%, ủy ban cá
ngừ Đại Tây Dương là 15%
Ở các vùng ôn đới, tính đa dạng sinh học thường không cao (ít loài cá) nhưng trữ
lượng các loài lại rất lớn. Do đó, việc thiết lập kích thước cho phép khai thác đối với từng
thành phần loài dễ dàng hơn và việc quản lý dựa vào tiêu chuẩn này cũng dễ dàng hơn.
Điều đó cũng nói lên rằng, sự tác động không mong muốn đối với việc khai thác một đối
tượng cá trong hệ sinh thái cũng nhỏ hơn rất nhiều so với ở các vùng biển nhiệt đới.
4.3. Ngư cụ khai thác.
Nhìn chung, ngư cụ khai thác tác động rất lớn đến nguồn lợi và môi trường sống
của các loài thủy sinh nói chung và các loài thủy sản nói riêng. Đến nay, một số loại ngư
cụ khai thác mang tính hủy diệt hoặc có ảnh hưởng không chỉ đến đối tượng khai thác mà
cả ngư trường khai thác được hạn chế hoặc cấm khai thác (như chất độc, chất nổ, lưới
kéo…). Bên cạnh đó, kích thước ngư cụ, kích thước mắt lưới nơi tập trung cá, số lượng
ngư cụ cũng đã được tính toán và được đưa vào quy chuẩn (ví dụ, lưới rê trôi khai thác cá
ở Nam Thái Bình Dương không được dài hơn 2,5km, số lưỡi câu không quá 300(Nauy),
lưới kéo không dài quá 210m (Nauy), Bẫy không quá 20 chiếc (Nauy)…).
Căn cứ vào nguồn lợi hiện có và năng lực khai thác (tàu thuyền hoặc số ngư cụ
hoạt động) các nhà quản lý tính toán để điều chỉnh số lượng hợp lý phù hợp với từng vùng
biển, từng loại đối tượng khai thác từ đó có thể tăng hoặc giảm số lượng giấy phép hiện
có của ngư dân.