Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

bài thơ việt bắc của tố hữu_chuyên đề ôn thi đại học môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.61 KB, 39 trang )

Ôn thi Đại học môn Văn chuyên đề: Bài thơ Việt Bắc
Câu 1: Cảm nhận của Anh (Chị ) về đoạn thơ sau :
Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng,
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đồn,
Bước chân nát đá mn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày,
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền,
Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về.
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
(Việt Bắc, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Gợi ý trả lời:
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, và nội dung vẻ đẹp hùng tráng của
Việt Bắc kháng chiến.
- Trích dẫn đoạn thơ. “Những đường….. đèo De, núi Hồng”
II. Thân bài
- Vẻ đẹp hùng tráng của Việt Bắc được thể hiện qua:
+ Khơng gian Việt Bắc rộng lớn, kì vĩ: “Những đường … của ta”
+ Sự trưởng thành của cách mạng qua những cuộc hành quân: “Đêm đêm… đất


rung”
+ Sức mạnh vơ song của dịng người ra trận: “Qn đi…mũ nan”
+ Sức mạnh đồn kết, ý chí vững vàng gan thép của nhân dân và bộ đội: “Dân
công… lửa bay”
+ Sự vươn mình trỗi dậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của một dân tộc anh


hùng: “Nghìn đêm… ngày mai lên”
+ Những chiến cơng kì diệu của qn và dân ta tạo lên niềm vui sướng rộn ràng
của triệu triệu trái tim hướng về Tổ quốc: “Tin vui…núi Hồng”
- Vẻ đẹp hùng tráng ấy được thể hiện qua giá trị nghệ thuật: giọng thơ rắn rỏi,
gân guốc; nhịp thơ hối hả, gấp gáp; sử dụng ngôn từ đắc địa; sử dụng linh hoạt
các phép tu từ: so sánh, hoán dụ, liệt kê, điệp từ, cường điệu… tạo lên âm
hưởng hùng tráng xuyên suốt cả đoạn.
- Tâm trạng của nhân vật trữ tình (tác giả): phơi phới niềm vui, sung sướng tự
hào, say sưa hào sảng, căng tràn nhiệt huyết, đầy lí tưởng và hồi bão….
- Khái qt nội dung nghệ thuật
III. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến.
- HS nhận xét, đánh giá về đoạn trích, nêu cảm xúc của bản thân.
Câu 2: Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ Tố Hữu là giọng thơ tâm tình,
ngọt ngào và tính dân tộc đậm đà. Hãy chứng minh điều đó qua đoạn trích Việt
Bắc (trích Việt Bắc) của Tố Hữu.
Gợi ý trả lời:
a.Yêu cầu về kỹ năng:
- Biết cách làm bài văn nghị luận văn học với kỹ năng chính là chứng minh
phân tích.
- Bố cục bài làm rõ ràng, chặt chẽ; văn viết trôi chảy, không mắc lỗi diễn đạt…
b.Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Tác gia Tố Hữu và trích đoạn Việt Bắc được học,
học sinh có thể trình bày nhiều cách khác nhau nhưng phải đáp ứng được các ý
chính sau đây:
* Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết:
- Bài thơ Việt Bắc nói chung và trích đoạn được học nói riêng được viết theo lối


đối đáp giao duyên nam nữ, gần với ca dao- dân ca. Đó là giọng thơ tha thiết,

mặn nồng của người đi, kẻ ở ( mình-ta; ta-mình)
- Âm hưởng trữ tình sâu nặng từ khúc hát dạo đầu đến những lời nhắn gửi, giãi
bày, nỗi nhớ da diết trong toàn đoạn thơ.
* Tính dân tộc đậm đà:
- Ở phương diện nội dung:
+ Bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt
Bắc được tái hiện trong tình cảm thiết tha, gắn bó sâu sắc của tác giả.
+ Tác phẩm đã đề cập đến truyền thống ân nghĩa thủy chung
- Ở phương diện nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn với những câu thơ lúc
hùng tráng, lúc tha thiết, sâu lắng, nhẹ nhàng.
+ Kết cấu: Cách cấu tứ gần với lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca
dao- dân ca.
+ Hình ảnh: Nhiều hình ảnh mang đậm tính dân tộc (núi, nguồn…), hình ảnh
mang tính giai cấp được sử dụng một cách tự nhiên và sáng tạo +Ngơn ngữ:
Cặp đại từ nhân xưng “ta”- “mình” và cấu trúc lời hỏi, lời đáp đối ứng được sử
dụng xun suốt trong tồn bài thơ gần với hình thức ca dao về tình cảm lứa
đơi.
+ Nhạc điệu: Nhiều từ ngữ được lặp lại nhiều lần (nhớ, ta, mình…) tạo âm điệu
nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng không đơn điệu (lúc hùng
tráng, lúc trang nghiêm)
+ Chất liệu văn học và văn hóa dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng,
đặc biệt là ca dao trữ tình
Đánh giá: Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thi phẩm xuất
sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thành công đó,
mơt phần chính là ở giọng thơ tâm tình ngọt ngào và tính dân tộc đậm đà. Với
những đặc điểm trên, Tố Hữu đã thực sự lôi cuốn người đọc đến với tác phẩm
này và đã làm cho tác phẩm có sức sống lâu bền trong lịng nhân dân.
Câu 3: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và con người qua đoạn thơ
sau:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về , ta nhớ những hoa cùng người.


Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu- Văn học 12- tập 1, NXB Giáo dục)
Gợi ý trả lời:
a/ Yêu cầu về kỹ năng:
Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ. Kết
cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu lốt, khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ,
ngữ pháp.
b/ Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc cũng như cái hay
cái đẹp của đoạn thơ, học sinh có thể trình bày, sắp xếp theo nhiều cách khác
nhau nhưng phải đảm bảo các ý chính sau: - Giới thiệu tác giả- tác phẩm- đoạn
trích - Nhà thơ đã lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng: Hoa- Người, tượng
trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Hoa là vẻ đẹp tinh túy
nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương sắc đất trời, tương xứng với con người
là hoa của đất
- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Bức tranh tứ bình- bốn mùa: xuân- hạ- thu- đông của
núi rừng Việt Bắc. Đoạn thơ ngập tràn màu sắc.
+ Mùa đông với một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già.Cái màu xanh
ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Trên cái nền xanh ấy nở

bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả
không gian, ấm cả lòng người.
+ Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của rừng
hoa mơ khi mùa xuân đến. Trắng cả không gian “trắng rừng”, trắng cả thời gian


“ngày xuân”. Màu trắng tinh khôi tạo nên vẻ đẹp dịu dàng, tinh khiết trong
ngày xuân.
+ Bức tranh mùa hè với màu vàng của rừng phách và rộn rã tiếng ve kêu. Tiếng
ve- ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác “rừng phách đổ vàng.
Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây.
+ Khép lại bộ tranh tứ bình là cảnh đêm thu huyền ảo với ánh trăng soi cùng
với khúc hát ngợi ca hịa bình.
- Vẻ đẹp của con người: Đan xen giữa vẻ đẹp của thiên nhiên là vẻ đẹp của con
người trong lao động và sinh hoạt. Đó là những con người cần cù, chịu thương,
chịu khó, ân tình và rất mực thủy chung. Sự đan xen ấy tạo nên sự hài hòa,
quấn quýt giữa thiên nhiên và con người.
- Âm hưởng chung của đoạn thơ là nỗi nhớ nhung tha thiết. Nhịp thơ lục bát
nhịp nhàng, uyển chuyển, bâng khuâng, êm đềm như khúc hát ru. Mười câu thơ
giàu tính tạo hình, giàu âm hưởng, cấu trúc hài hòa, cân đối.
- Đoạn thơ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Qua đó thể
hiện tấm lịng, tình cảm của người cán bộ kháng chiến đối với vùng đất Việt
Bắc nghĩa tình.
Câu 4:Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Gợi ý trả lời:
Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến
chống Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta khơng thể nào .không nhắc đến Việt Bắc

của Tô Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho
phong cách thơ Tố Hữu. Thơng qua đó, thế hiện niềm nhớ thương tha thiết và
tình cảm sắt son, đằm thắm cùa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng,
với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến
với thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất
về cánh và người Việt Bắc trong hồi ức cùa người cán bộ cách mạng miền xi,
ở đây chính là nhà thơ.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.


Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm xúc chung cho toàn đoạn. “Ta”
là người ra đi mà cũng là chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp
thông thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào
của người ra đi với người ở lại dề liên tưởng dây là một thiếu nữ địa phương.
Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày tó tình u của một chàng trai miền đồng
bằng với cô gái miền cao.
“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây,
thiên nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ
cịn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và con người làm
nống ấm quê hương Việt Bắc.
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên nhiên
và con người nơi đây. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi
rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên có nét đẹp riêng biệt.
Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương
của mùa đông Việt Bắc. Tại sao Lại là mùa đơng? Vì đây là hồi ức của tác giả
trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đém mùa đơng 1946, Hồ
Chí Minh đã kêu gọi tồn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người

lính cảm tử sau hai tháng giam chân địch trong thành phố đã bí mật vượt sơng
Hồng đế lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn sống
mãi bởi một khúc hát quen thuộc:
Đêm cái đêm rét quá chân cầu
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại
Sông, sông Hổng bên bờ hát mãi
Tỏ niềm tin khúc khải hồn ca.
Lưu Trọng Lư trong Một mùa đơng đã từng viết:
Đơi mắt em lặng buồn,
Nhìn tơi mà khơng nói.
Tình đơi ta vời vợi,
Có nói cũng vơ cùng
Trời hết một mùa đơng
Khơng một lần đã nói...
Thế mà, ở chốn núi rừng heo hút này đột ngột bừng lên màu đỏ tươi của hoa
chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rờ cùa


Việt Bắc vào mùa đồng gợi cho người đọc những rung động sâu xa. Thông qua
bức tranh, ta thấy dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sông núi rừng vẫn cứ như
tn trào, cảm giác đem đến cho lịng người sự ấm áp lại.
Thiên nhiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu hát:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Thời gian được xác định bởi yếu tơ' “ngày xn”. Chính ấn tượng thời gian này
tạo sự vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi
màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ
trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lẽn cả
cánh rừng, gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng bâng khuâng. Ngoài ra
màu trắng của hoa mơ gợi cho người ta cái thanh thốt hơn, đem lại cho lịng
người sự thanh thản, thảnh thơi. Câu thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh

đã bị lấn lướt. Mùa xuân ớ đây không tưng bừng như mùa xuân của Xuân Diệu
mà nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng khơng kém niềm vui.
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang
là sản phẩm cùa Việt Bắc. Do vậy, người lao động dó là người Việt Bắc chứ
khơng phải là người miền xi. Nhìn thấy được từng sợi giang, tức là con
người được nhìn ở tầm gần.
Thế rồi, khoảnh khắc của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục
sống cuộc sống của họ.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên,
cái độc đáo ờ đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ
tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là lồi vật, vậy mà nó biêt kêu, biết gọi, nó
xui khiến rừng phách “đổ vàng'’. Chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm
hiểu cái rừng phách kì lạ này. Phách là một lồi cây thân gỗ ở rừng Việt Bắc, nở
hoa vàng vào đầu mùa hạ.
Tiếng ve kêu râm ran đây đó báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Lá
cây bắt đầu chuyến sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng
óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thêm lại càng
lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn
nữ “hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đến một hình ảnh
tương tự trong thơ Nguyễn Bính, nhà thơ của đồng quê trong phong trào Thơ
mới.


Thơ thần đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thống rừng mơ cô hái mơ.

Đây là khố thơ thứ nhất trong bài thơ Cơ hái mơ. Ta thấy có sự giống nhau rất
ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang lăm việc. Chỉ có điều ớ đây là “hái
mơ” chứ không phái “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bàng một động từ khác như bẻ,
đốn... vì chỉ có nó mới phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyến, mềm mại của cỏ
gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao!
Cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người
thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có hồn. Rỏ rằng
thiên nhiên và con người đã hịa quyện vào nhau, tơ điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng khơng kém phần đẹp
đẽ:
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng
ánh trăng. Việc sứ dụng hình ảnh trăng thật ra cũng khơng có gì độc đáo và mới
mẻ. Tuy nhiên, đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ, ta thấy được niềm mơ
ước hịa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả iéu nói lên
niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng, với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để
tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ
ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lịng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn
thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả người đi và
người ở lại.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục
âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển
chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại.
Đặc biệt là qua cách xưng hơ “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để
xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Bên cạnh đó, nhạc điệu dịu dàng
trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một
khúc hát ru — khúc hát ru ki niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác mà

là của “ta” và cho người nhận là “mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi
nhớ, cùng chung “tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy mãi cịn lưu luyến


vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài Việt Bắc. Cảnh hiên
nhiên và con người trong đoạn thơ được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp
tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như
một bản tình ca về lòng chung thủy, sắt son của người cách mạng đối với nhân
dân, quê hương Việt Bắc.
Câu 5: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc" của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
“Ơi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian.
Nỗi nhớ thấm sâu lòng người... Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tầm hồn
người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu - nơi đã từng
ni nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao...
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngàv xuân mơ nờ trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai-tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi
nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi,

“nhắc khéo”: mình có nhớ ta khơng? Riêng ta, ta vần nhớ! Cách xưng hơ gợi vẻ
thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà
hai.
Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, đế mà thương? Câu thơ
đã trình bày rất rõ?
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người


Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và
“thơm mát”. Trong bức tranh thiện nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản
dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào
nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi
tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc dáo riêng.
Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh
nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ.
Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng". Và khi thu về, thiên nhiên
dược thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những
màu sắc chói lọi, rực rờ: xanh, đỏ, vàng, trắng... Những màu sắc ấy đập mạnh
vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như
được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được
sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dịng thơ. Nó bước những bước rắn
rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thế thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc cịn
được mơ tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa
nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi... Núi rừng Việt
Bắc như một sinh thế đang biến dổi trong từng khoảnh khắc...
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trơ nên hài hòa nắng ấm, sinh
động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh cùa con người. Con người đang lồng vào
thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mồi câu

thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau
một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với cơng
việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cơ em gái hái măng một mình”
và tiếng hát ân tình cua ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xơn xao... Hình ảnh
con người làm nét đẹp cúa thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi
nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ dẹp bình dị
mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xừ với nhau bằng tình
nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi
chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến cùa dân tộc... Những con
người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một
tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình,
mình với ta đã từng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có


thể quên nhau được. Tình cám mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở,
người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình
cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan,
vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình
u thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu.
Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki niệm ấy
theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lịng kẻ ở lại...
Những câu thơ cùa Tơ Hữu có tính khái qt cao so với tồn bài. Lời thơ giản
dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và
con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người
đọc, như khúc dân ca ngọt ngào đê lại trong lịng ta những tình cảm sâu lắng,

dịu dàng
Câu 6: Việt Bắc cũng rất tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết
của Tố Hữu và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của thơ ơng".Hãy chứng
minh điều đó qua đoạn trích.
Gợi ý trả lời:
Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lịng, khơng chỉ vì nội dung, mà cịn do giọng
thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều
này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc cùa sách giáo khoa Văn
12.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong “Việt Bắc” (phần đầu)
- Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình
thương, lời của người u để trị chuyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết
theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca và phần đầu này
cũng thế - nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở
lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành Mười lăm năm ấy
thiết tha mặn nồng, người đi người ở thành mình - ta, ta - mình quấn qt bên
nhau trong một mối ân tình sâu nặng:
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm
cùa khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc: từ khúc hát dạo đầu Mình về mình có
nhớ ta... đến những lời nhắn gửi, giãi bày Minh đi có nhớ những ngày Mình về
rừng núi nhớ ai... Ta đi ta nhớ những ngày - Minh đây ta đó đắng cay ngọt bùi...;
đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng:
Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngơ...
* Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong “Việt Bắc” (phần đầu)
Thể thơ: Trong phần đầu (cũng như cả bài thơ) Tố Hữu đã sử dụng thế thơ dân
tộc nhất là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã sử dụng rất nhuần nhuyễn thể thơ này và có
những biến hóa, sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha
thiết, sâu lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng(Nhớ gì như
nhớ người u...), lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca (Những
đường Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên).
Kết cấu: Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là
kết cấu mang đậm tính dân tộc, và nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể
đi suốt 150 câu lục bát khơng bị nhàm chán.
Hỉnh ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng
tạo trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ;
bước chân nát đá (sáng tạọ từ câu ca dao: trông cho chân cứng đá mềm). Có
những hình ánh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc: miếng cơm
chấm muối, mối thù nặng vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là
hình ảnh đậm đà của tình giai cấp:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
* Ngơn ngữ: Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng “ta
- mình, mình - ta” quấn qt với nhau và đại từ phiếm chỉ “ai”. Đây là một sáng
tạo độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tô Hữu.
*Nhạc điệu: Trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc -từ thể thơ lục bát: nhịp nhàng,
tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hóa, sáng tạo, khóng đơn điệu (có lúc
hùng tráng như cảnh Việt Bắc ra quân”, trang nghiêm như cảnh buổi họp cùa
Trung ương, Chính phủ...)
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
cùa Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành cơng cùa bài thơ Việt Bắc làm
cho nó nhanh chóng đến với người đọc và sơng lâu bền trong lịng nhân dân ta



từ khi ra đời cho đến hơm nay.
Câu 7: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
... Mình đi, có nhớ những ngày
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son
...
Trên đường ta về lại thủ đơ
Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ.
Gợi ý trả lời:
Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa. thủ đơ Hà Nội và miền Bắc hồn tồn giải
phóng (10/1954). Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ra đời trong bối cảnh lịch sử
hào hùng và vẻ vang ấy. Mang tầm vóc một trường ca, với 150 câu thơ lục bát,
bài thơ ca ngợi mối tình Việt Bắc, nhửng kỉ niệm sâu sắc cảm động của người
cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc với bao ân tình thủy chung “15 năm ấy
thiết tha mặn nồng”.
Phần mở đầu bài Việt Bắc gồm có 20 câu thơ, là lời đưa tiễn của kẻ ở lại đối
với người về, cùa “ta” đối với “mình”. Đoạn thơ 8 câu dưới đây (từ câu 9 đến
câu 16) nằm trong phần mở đầu bài thơ Việt Bắc:
.. Mình đi, có nhở những ngày
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son...
Đoạn thơ đầy ắp ki niệm về Việt Bắc, “Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng
hòa", mà “ta” hỏi “mình đi. có nhớ”. Hai chủ thể trữ tình, là người ở lại, là đồng
bào Việt Bắc, là cô gái Việt Bắc, đang hát lời tiễn đưa “tha thiết bên ơn”.
“Mình” cũng là một chủ thể trữ tình phiếm chỉ, ước lệ, cùng với “ta” tạo nên
một cặp nhân vật trong giao duyên, đưa tiễn, ở đây là người cán bộ kháng chiến
về xi, trong đó có nhà thơ. Mỗi cặp lục bát nhắc lại một kỉ niệm về Việt Bắc.
Những chi tiết nghệ thuật vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng giàu sác
thái biêu cảm.
Các câu lục trong đoạn thơ là những câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện, như nhắc
nhở, như gợi nhớ gợi thương: “Mình đi, có nhớ những ngày”..., “Mình về, có

nhớ chiến khu”..., “Mình về, rừng núi nhớ ai”..., “Mình đi, có nhớ những nhà”...
Điệp ngữ “có nhớ" làm cho cảm xúc thơ lắng đọng, giọng thơ trở nên tha thiết
bồn chồn, ngọt ngào sâu lắng. Hai tiếng “mình di” và “mình về” được luân
phiên giao hoán, chuyến đổi, một cách diễn đạt biến hóa, sinh động, có giá trị
gợi lên cảnh tiễn đưa nhiều bâng khuâng, hình ảnh người cán bộ kháng chiến về
xuôi mỗi lúc một đi xa dần, nhưng trong lòng vẫn mang theo tiếng hát và nỗi


nhớ.
Các câu bát trong đoạn thơ đều được tạo thành hai vế tiểu đối 4/4 cân
xứng hài hòa. Những kỉ niệm sâu sắc chứa chan ân tình ân nghĩa đối với kẻ ở,
người về được nhắc lại gợi lên bao nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn
bước đi’’...
Mình đi, có nhớ “Mưa nguồn suối lũ // những mây cùng mù’ Cảnh mưa •răng
nguồn, lũ ngập đầy suối, mây mù bao phủ núi rừng... là sự khắc nghiệt của thời
tiết, của thiên nhiên Việt Bắc. Mưa, lũ, mây, mù còn mang ý nghĩa tượng trưng
cho những gian khổ, thứ thách mà quân và dân ta phải trải qua trong những
năm dài máu lửa.
Mình về, có nhớ “Miếng cơm chấm muối // mối thù nặng vai?" Tố Hữu đã lấy
cái cụ thể “Miếng cơm chấm muối” đế nói lên cái trừu tượng: gian khổ thiếu
thốn. “Mối thù nặng vai” cũng là một hình ảnh cụ thể biểu cảm. Mối thù đối
với quân xâm lược đè nặng đôi vai, luôn luôn nhắc nhở ni dường ý chí chiến
đấu để giải phóng đất nước, giành lại tự do, hịa bình cho nhân dân. Khơng bao
giờ có thế qn “mối thù nặng vai” ấy.
Hỏi núi rừng “nhớ ai”, cũng là hỏi “mình về, có nhớ”. Nghệ thuật nhân hóa và
đại từ “ai” phiếm chỉ gợi lên bao man mác bâng khuâng.
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi dể rụng / / măng mai để già
Trám bùi, măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để •ni
bộ đội đánh giặc trong nhữiig tháng ngày gian khổ. Hương vị núi rừng ấy tượng

trưng cho mối tình Việt Bắc sâu nặng ân nghĩa. Các từ ngữ: “để rụng”, “để già”
thoáng chút bùi ngùi, cô đơn thương nhớ.
Kỉ niệm thứ tư, ta hỏi “minh đi, có nhớ”.
Mình đi, có nhở những ngày
Hắt hiu lau xám // đậm đà lịng son
Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đặc sắc. “Những nhà” được
nhà thơ nói đến là tất cả đồng bào các dân tộc Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” là
cảnh hoang vu hoang vắng của núi rừng, biểu tượng cho sự nghèo đói, thiếu
thơn vật chất. Tương phản với “hắt hiu lau xám” là “đậm đà lịng son”, một
hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tâm lòng son sắt thủy chung. Câu thơ “hắt hiu
lau xám, đậm đà lòng son” là một câu thơ hay và đẹp. Đẹp ở hình tượng và hay
vì giàu sắc thái biểu cảm. Qua thủ pháp tương phản, Tố Hữu ca ngợi đồng bào
Việt Bắc tuy cịn nghèo khổ, thiếu thơn nhưng giàu tình yêu nước, gắn bó thủy
chung với cách mạng và kháng chiến.


Cùng với chữ “ta”, chữ “mình” xuất hiện với tần số cao trong bài Việt Bắc
cũng như trong đoạn thơ này, đã tạo nên sắc điệu trữ tình thắm thiết, đậm đà
tính dân tộc. Tố Hữu đã vận dụng cách nói và cách thể hiện tình cảm của dân
gian trong ca dao, dân ca một cách sáng tạo. Tình cảm cách mạng và kháng
chiến, tình Việt Bắc, tình lưu luyến của lứa đôi, của kẻ ở người về được diễn tả
qua hai tiếng “mình-ta” ấy.
Trong chín năm kháng chiến chơng Pháp, Tô' Hữu đã sổng và hoạt động tại
Việt Bắc, đã cùng đồng chí, đồng bào, bộ đội trải qua những tháng ngày gian
khổ mà hào hùng, vinh quang. Lời đưa tiễn thiết tha, sâu láng, bồi hồi trong
lòng kẻ ở người về. Cảm xúc ấy là tiếng lòng cùa “mình - ta” cũng là tiếng lịng
của nhà thơ.
“Thơ là tiếng lòng trang trải". Việt Bắc là tiếng lòng trang trải cùa người cán bộ
kháng chiến với bao “ân tinh thủy chung”.
Câu 8: Bức tranh “Việt Bắc ra quân” là một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí

thế. Phân tích đoạn sau để làm sáng tỏ:
Những đường Việt Bắc của ta
...
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Bức tranh “Việt Bắc ra quân” đã được Tố Hữu miêu tả thật là hồnh tráng, với
hào khí ngất trời của những con người mới xuất quân mà như đã cầm chắc
chiến thắng trong tay.
Hai câu đầu là nét tả khái quát. Tác giả tả con đường ra trận nhưng là để nói lên
khí thế dũng mãnh của những người ra trận.
Những đường Việt Bắc cứa ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những người chiến
sĩ trong mội cuộc ra quân vĩ đại từ khắp các ngã đường của căn cứ địa cách
mạng.
Hai câu 3, 4 là hình ảnh “quân đi” rất đẹp. Đẹp trong đội ngũ "điệp điệp trùng
trùng” như một sức mạnh vô tận. đẹp trong “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ
nan” gợi nhớ hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu. Cái ánh sao
ở đây vừa như gần gũi thân quen với mũ nan của anh, lại như rực sáng lí tưởng
trẽn đầu mũi súng người lính. Một hình ảnh thơ vừa hiện thực, vừa lảng mạn,
gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Hai câu 5, 6 là hình ảnh nhửng đồn dân công phục vụ tiền tuyến:


Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ban ngày là của địch nhưng ban đêm là
của ta. Hình ảnh những đồn dân cơng đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện
thực. Nhưng với ánh đuốc đỏ rực ấy cùng với “mn tàn lửa hay” thì lại lãng
mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng! Cịn “bước chân nát đá” là bước
chân của những con người đạp bằng mọi chông gai đế đi tới. Lấy ý từ câu ca

dao “trông cho chân cứng đá mềm”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một hình ảnh thơ
vừa quen thuộc vừa mới lạ để ngợi ca sức mạnh của những con người chiến
thắng.
Hai câu cuối là hình ảnh những đồn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch
màn sương đêm dày thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc. Rất hiện thực mà cũng
rất lãng mạn. Đằng sau cái nghĩa thực, câu thơ cịn mang nghĩa bóng - nghĩa
tượng trưng - trong một hình ảnh lạc quan phơi phới.
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Ngày mai đã lên từ trong đêm dày thăm thẳm nhờ đèn pha bật sáng, nhờ sức
con người tỏa sáng. Bởi họ đã cầm chắc chiến thắng trong tay ngay từ khi mới
xuất quân. Câu thơ để lại nhiều dư vị, dư vang về một cảnh ra qn hồnh tráng,
đầy hào khí.
Chỉ 8 câu thơ, Tố Hữu đã dựng lên bức tranh “Việt Bắc ra quân” thật đẹp. Bức
tranh không chỉ làm sông dậy những ngày tháng hào hùng cùa quân dân ta trên
căn cứ địa thần thánh mà còn đem đên cho ta niềm tin yêu quê hương cách
mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài
thơ Việt Bắc.
Câu 9: Việt Bắc là một trong những bài thơ thể hiện rất đậm đà tính dân tộc
được thể hiện trong nghệ thuật thơ Tố Hữu. Hãy làm rõ điều đó.
Gợi ý trả lời:
"Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ
điển của dân tộc - Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như thế về thơ Tố Hữu. Đọc
thơ Tố Hữu, ta thấy nhận xét của Nguyễn Đình Thi thật đúng và cảm nhận được
tính dân tộc đậm đà, thấy phảng phất trong "hồn thơ" của một thời quá khứ.
Việt Bắc là một trong số rất nhiều bài thơ mang nét “cổ điển” như thế. Đọc Việt
Bắc ta cảm nhận được sức mạnh của bản sắc dân tộc ấy.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu, trước tiên thể hiện ở hình thức thể hiện. Có lẽ
Việt Bắc là bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu, trong đó âm điệu lục bát đã
nhuần nhuyễn, tinh diệu, đến mức mẫu mực:



Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.
Những câu thơ lục bát ấy có thể xếp bên cạnh những câu ca dao dân gian,
những câu lục bát cổ điển hay nhất của ta. Tiếng Việt trong những câu ấy thật
bình dị mà đằm thắm, thật trong trẻo mà sâu lắng. Lời thơ quyện thật chặt với
những tiết tấu co duỗi mềm mại, cất lên như những nét nhạc, những giai điệu
bằng ngơn từ.
Nhưng nói đến Việt Bắc có lẽ cái gây ấn tượng đậm nhất trong người đọc là cái
cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu đã tái hiện một bức tranh hoành tráng trải ra
trong một thời gian dài tới mười lăm năm (Nhớ khi kháng Nhật thuở cịn Việt
Minh) bao qt một khơng gian rộng, bao qt tồn bộ Việt Bắc (từ "Mái đình
Hồng Thái, cây đa Tân Trào" đến "Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà"). Bài
thơ muốn có xu hướng trở thành diễn ca lịch sử (kiểu như "Ba mươi năm đời ta
có Đảng sau này!). Nhưng sở dĩ nó khơng là diễn ca hẳn, bởi vì thi sĩ đã tìm
đến một kết cấu truyền thống của lối Hát giao duyên. Cả bài thơ dài như một
cuộc hát đối đáp nam nữ. Tựa như những khúc trữ tình trong Giã bạn hay Tiễn
dặn người yêu. Cả bài thơ dài chủ yếu là lời của hai nhân vật. Người ở lại rừng
núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Tựa
như "liền chị - liền anh" trong hát Quan họ. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng
và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đơi
trai gái. Nói khác hơn, tác giả đã chọn tình u của đơi trai gái làm một góc
nhìn để bao qt tồn cảnh Việt Bắc, với "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng". Chuyện chung đã hóa thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân

nước trở thành chuyện tình u của lứa đơi.
Một sự kiện chính trị đã chuyển hố thành thơ ca theo cách tâm tình hố chính
là một đặc trưng của lối thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu. Việc "dời đô" (Việt
Bắc là thủ đô kháng chiến - Tố Hữu gọi là "Thủ đơ gió ngàn") đã thành câu
chuyện ân tình chung thủy của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với
đồng bào, với quá khứ, với chính mình.Đơi trai gái xưng hơ theo lối rất dân
gian: Ta - mình. Nỗi băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã


bạn là ân tình - chung thuỷ:
Mình về thành thị xa xơi
Nhà cao cịn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
"Mình về mình có nhớ ta" đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng "mình đi mình có
nhớ mình" thì ân tình chung thuỷ đã được đẩy tới một mức thật sâu. Mình đi
khỏi Việt Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ, có thể mình qn ta phụ ta.
Nhưng mình có nhớ chính mình chăng, có phụ chính mình được chăng? Bởi
qn Ta cũng chính là qn Mình đó. Những câu hỏi thâm thúy ân tình như vậy
đã giúp Tố Hữu dân gian hoá, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vấn
đề của hôm nay. Người con trai cũng trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh
thần như thế.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đơng càng giục chân nhanh bước đường
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Kết câu đối đáp hài hoà với lối thơ lục bát giàu chất dân gian như thế đã làm
cho bài Việt Bắc của Tố Hữu có cái dáng dấp của một bài hát giao duyên được

viết theo lối dân gian. Nó làm cho bài thơ gần gũi với tâm hồn quần chúng và
dễ dàng gia nhập vào mạch văn hoá dân gian, trở thành những lời hát ru. Thậm
chí có thể trình bày bài thơ theo lối diễn xướng dân gian rất thích hợp.
Có lẽ cũng cần phải nói thêm về phong vị cổ điển của nó. Đây là một nét truyền
thống khác của thơ Tố Hữu. Trong bài "Kính gửi cụ Nguyễn Du", chúng ta thấy
khơng khí lục bát thật trang trọng. Thi sĩ đã dùng những thi liệu của“Truyện
Kiều" để tâm tình với tác giả "Truyện Kiều", ơng cũng dùng hình thức lẩy Kiều,
tập Kiều để làm cho bài thơ có phong vị cổ điển. Cịn ở đây khơng riêng chúng
ta đã thấy kết cấu trữ tình của bài thơ, giọng điệu tứ bình của bài có phần
nghiêng hẳn về cổ điển. Câu lục bát ở những chỗ ấy thường chặt chứ khơng
lỏng, chữ "đúc" nhiều, chữ "nước" ít. Hình thức tiểu đối được sử dụng đầy và
biến hố nhịp nhàng. Nhưng có lẽ đáng nói hơn vẫn là lối vẽ thiên nhiên trong
các câu thơ lục bát ấy. Nói riêng đoạn "Hoa cùng người”, có thể thấy ngay, thi
sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ tranh trữ tình - một hình thức rất phổ biến của


nghệ thuật cổ điển. Hoa và người soi chiếu nhau, tơn vinh lẫn nhau.Cịn bức
tranh dường như đã tái hiện trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân chuyển của
thiên nhiên và
Câu 10: Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Gợi ý trả lời:
Con người Việt Bắc: Ân tình và chung thủy - đó là một nét đẹp trong rất nhiều
nét đẹp của con người cách mạng. Nét đẹp ấy thể hiện trong nhiều tác phẩm
văn học thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ta cũng bắt gặp nét đẹp
ấy trong Việt Bắc của Tố Hữu. Tập trung, tiêu biểu nhất là ở đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta ...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Việt Bắc tràn đầy nỗi nhớ của người kháng chiến về xuôi với quê hương cách
mạng trong mười lăm năm "thiết tha mặn nồng tình nghĩa. Biết bao chữ ''nhớ”
vang lên trong bài thơ cùng với bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi và người ở
lại. Nhớ chiến khu, nhớ "mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào'', nhớ những
đêm "quân đi điệp điệp trùng trùng", nhớ "ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang"
và cả "nhớ gì như nhớ người yêu"... Giữa rất nhiều nỗi nhớ ấy, hiện lên một nỗi
nhớ vừa đằm thắm thiết tha lại vừa bâng khuâng man mác:
Ta về mình có nhớ ta...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc, tự nó đã có tính
hồn chỉnh. Đó là bức tranh tồn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa
trong năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì
nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong
buổi chia tay:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Hai lần "ta về" láy lại ở đầu câu - cùng một thời điểm chia tay, nhưng câu trên
là hỏi người, câu dưới là giãi bày lịng mình. Cái giọng thơ tâm tình của Tố
Hữu ở đây thật ngọt ngào dễ thương. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và
người Việt Bắc, giữa miền ngược với miền xuôi đã trở thành một cuộc giã bạn


đơi lứa (ta - mình). Nỗi nhớ về những ngày gian nan gắn bó với cảnh và người
Việt Bắc cứ hiện dần trong tâm trí người đi. Cảnh vật, con người Việt Bắc, cái
gì cũng đáng yêu, đáng nhớ. Nhớ trước nhất là hoa cùng người. Hoa và người
hoà quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc,
mà cái đẹp của Việt Bắc không thể tách rời với cái đẹp của những con người
Việt Bắc đã từng cưu mang, gắn bó với người đi, với cách mạng, vẻ đẹp bức
tranh Việt Bắc, trước tiên là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con
người.

Bức tranh đó được diễn tả bằng những câu thơ êm ả, nhẹ nhàng. Có màu sắc
tươi tắn rực rỡ, có ánh sáng lung linh chan hồ, có âm thanh vui tươi, đầm ấm.
Cảnh và người hoà quyện vào nhau: bốn cặp lục bát tả bốn mùa, thì câu trên
nhớ cành, câu dưới nhớ người. Mà cảnh nào, người nào được nhắc tới cũng đều
có cái riêng để nhớ. Tất cả đã hiện lên trước mắt ta một bức tranh Việt Bắc
tuyệt diệu, nên thơ qua nét bút chấm phá tài tình của tác giả.
Mỗi mùa được nhà thơ nhớ lại bằng một nét tiêu biểu nhất, với cách diễn tả tinh
tế gợi cảm, Nhớ mùa đông Việt Bắc là nhớ tới "rừng xanh hoa chuối đỏ tươi".
Giữa cái bạt ngàn của màu xanh, hiển hiện một màu sắc ấm nóng (tươi đị), bức
tranh mùa đơng của Việt Bắc đâu còn cái lạnh lẽo, hoang vu nữa. Xuân sang
sắc màu lại đổi khác, tràn ngập sinh sôi một màu trắng tinh khiết, thơ mộng:
"ngày xuân mở nở trắng rừng". Cảnh này có gì đó giống như cảnh Bác về nước
nước:
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Bốn cặp lục bát sau Tố Hữu dùng để tả cảnh hè đến và cảnh mùa thu. Nếu như
sắc màu chủ đạo của cảnh động là màu xanh điểm vào đó có sắc hoa tươi đỏ,
của cảnh xuân là màu trắng hoa mơ, thì của mùa hè là màu vàng tươi đẹp của
rừng phách: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Đây là một câu thơ vào loại hay nhất
của bài thơ Việt Bắc. Câu thơ sáu chữ mà thấy được sự chuyển đổi của cảnh sắc
thiên nhiên. Câu thơ ấy ran lên một tiếng ve kêu khơng dứt trong màu vàng
chói chang của rừng phách dưới nắng hạ. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với màu
sắc dịu hiền của ánh trăng, màu của mơ ước về cuộc sống hồ bình giữa những
ngày gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu và mỗi mùa là một
bức tranh nên thơ, kì thú.
Bức tranh bốn mùa ấy còn ánh lên vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc.



Cảnh làm nền cho người và người gắn với cảnh, chúng quyện hồ vào nhau và
tơ điểm cho nhau. Dường như những cảnh ấy phải có những con người này và
nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người thật bình dị đáng yêu:
hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng cạnh sườn, bàn tay
"chuốt từng sợi giang" của người đan nón và "cơ em gái hái măng một mình"
giữa khúc nhạc ve ran và sắc vàng rừng phách. Cả tiếng hát ân tình nữa cũng
làm cho rừng thu êm dịu và ánh trăng hồ bình toả sáng lung linh.
Khơng hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha
thiết thì khơng thể dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp tuyệt diệu và
ấm tình người đến thế. Nhưng để có bức tranh này, cịn có quan điểm đúng đắn
và cách nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những cái nhìn sai lệch
trước đây về miền núi và con người miền núi là nơi "ma thiêng nước độc" vởi
những con người dữ tợn, kém văn minh,...) Tố Hữu đã có một :ách nhin đầy
thông cảm, thương yêu và ưu ái với quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này
chính là bắt nguồn từ sự gắn bó chung thủy, từ lịng nhớ thương sâu nặng của
nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.
Tình cảm nhớ thương tha thiết ấy là âm hưởng bao trùm cả đoạn thơ và nhịp
điệu dịu dàng trầm bổng của thể thơ lục bát làm cho âm hưởng đó bâng khuâng,
tha thiết. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là kết cấu đối đáp, có ta và mình, có
người đi kẻ ở, nhưng thực ra đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình.
Câu thơ trên là lời đáp, lời giãi bày của người đi nhưng không hẳn là thế. Nhớ
cảnh nhớ người, nhớ đến từng chi tiết sống động như vậy là nỗi nhớ chung của
con người đã cùng gắn bó với nhau, đồng cam cộng khổ trong "mười lăm năm
ấy thiết tha mặn nồng”.
Khép lại đoạn thơ là tiếng hát ân tình, thuỷ chung của người chiến sĩ cách mạng
miền xuôi, của đồng bào Việt Bắc. Tiếng hát ấy vang trong lòng người đi, ln
nhắc nhớ những ngày tháng nghĩa tình sắt son. Tiếng hát ấy là chiếc cầu nối
giữa tấm lòng với tấm lòng, giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Câu 11: Việt Bắc cũng rất tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết

của Tố Hữu và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của thơ ơng.Hãy chứng
minh điều đó qua đoạn trích hai mươi câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu
Gợi ý trả lời:
Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lịng, khơng chỉ vì nội dung mà cịn do giọng
thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều
này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc


Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình
thương, lời của người yêu để trò truyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết
theo lời đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao, dân ca, và phần đầu này
cũng thế - nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở
lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành mười lăm năm ấy
thiết tha mặn nồng, người đi người ở thành mình - ta, ta - mình quấn quýt bên
nhau trong một mối ân tình sâu nặng.
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm
của khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc, từ khúc hát dạo đầu Mình về mình có
nhớ ta... đến những lời nhắn gửi, giãi bày Mình đi có nhớ những ngày. . Mình
về rừng núi nhớ ai... Ta đi ta nhớ những ngày - Mình đây ta đó, đắng cay ngọt
bùi..., đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng:
Nhớ gì như nhớ người yêu,
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.
Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngơ.
Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong "Việt Bắc"

Thể thơ: Trong phần đầu (cũng như cả bài thơ), Tố Hữu đã sử dụng thể thơ dân
tộc, đó là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến
hố, sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết, sâu
lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng (Nhớ gì như nhớ người
yêu...) lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca (Những đường Việt
Bắc của ta... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên)
Kết cấu: Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là
kết cấu mang đậm tính dân tộc. Nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi
suốt một trăm năm mươi câu lục bát không bị nhàm chán.
Hình ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng
tạo trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ;
bước chân nát đá (sáng tạo từ câu ca dao: trông cho chân cứng đá mềm). Có
những hình ảnh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc: miếng cơm
chấm muối, mối thù nặng vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là
hình ảnh đậm đà của tình giai cấp:


Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Ngơn ngữ: Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng: mình, mình - ta quấn quýt với nhau và đại từ phiến chỉ ai. Đây là một sáng tạo
độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu.
Nhạc điệu: trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc với thể thơ lục bát nhịp nhàng tha
thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hố, sáng tạo, khơng có đơn điệu (có lúc
hùng tráng như cảnh "Việt Bắc ra quân", trang nghiêm như cảnh “hội họp của
Trung ương, Chính phủ...)
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
của Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành cơng của bài thơ Việt Bắc, làm
cho nó nhanh chóng đến với người đọc và vẫn sống mãi trong lòng nhân dân ta
từ khi ra đời cho đến hôm nay.
Câu 12: Bức tranh Việt Bắc ra quân là một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí

thế chiến thắng của quân dân ta. Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của
Tố Hữu để làm sáng tỏ:
Những đường Việt Bắc của ta

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Gợi ý trả lời:
Việt Bắc không chỉ là khúc ca ân tình mà cịn là bản tổng kết bằng thơ mười
lăm năm cách mạng. Bên cạnh những đoạn thơ trữ tình ngọt ngào, ta lại gặp
những khúc anh hùng ca tràn đầy khí thế chiến thắng của quân dân ta, mà tiêu
biểu là bức tranh Việt Bắc ra quân..
Bức tranh Việt Bắc ra quân đã được Tố Hữu miêu tả thật là hồnh tráng, với
hào khí ngất trời của những con người mới xuất quân mà như đã cầm chắc
chiến thắng trong tay.
Nét tả khái quát (câu 1, 2)
Tác giả tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế dũng mãnh của những
người ra trận:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những người chiến


sĩ trong một cuộc ra quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách
mạng.
Hình ảnh đồn quân (câu 3, 4)
Hình ảnh "quân đi" rất đẹp, đẹp trong đội ngũ điệp điệp trùng trùng như một
sức mạnh vô tận, đẹp trong "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan" gợi nhớ hình
ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu. Cái ánh sao ở đây vừa như gần
và thân quen với mũ nan của anh, lại như rực sáng lí tường trên đầu mũi súng.
Một hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ
đội cụ Hồ.

Hình ảnh đồn dân cơng (câu 5, 6)
Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đồn dân cơng phục vụ tiền tuyến:
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn,
Bước chân nát đá mn tàn lửa bay.
Cơng cuộc kháng chiến chống Pháp, ban ngày là của địch nhưng ban đêm là
của ta.Hình ảnh những đồn dân cơng đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện
thực. Nhưng với ánh đuốc đỏ rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn
biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng! Còn bước chân nát đá là bước chân của
những con người đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Lấy ý từ ca dao "trông cho
chân cứng đá mềm", Tố Hữu đã sáng tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc vừa
mới lạ để ngợi ca sức mạnh của những con người chiến thắng.
Hình ảnh đồn xe (câu 7, 8)
Hai câu cuối là hình ảnh những đồn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch
màn sương đêm dày thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc. Rất hiện thực mà cũng
rất lãng mạn. Đằng sau cái nghĩa thực, câu thơ cịn mang nghĩa bóng - nghĩa
tượng trưng trong một hình ảnh lạc quan phơi phới:
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Ngày mai đã lên từ trong đêm dậy thăm thẳm nhờ đèn pha bật sáng, nhờ sức
con người toả sáng. Bời họ đã cầm chắc chiến thắng trong tay ngay từ khi mới
xuất quân. Câu thơ để lại nhiều dư vang về một cảnh ra qn hồnh tráng, đầy
hào khí.
Chỉ tám câu thơ, Tố Hữu đã dựng nên bức tranh Việt Bắc ra quân thật đẹp. Bức
tranh không chỉ làm sống dậy những ngày tháng hào hùng của quân dân ta trên
căn cứ địa thần thánh, mà còn đem đến cho ta niềm tin yêu quê hương cách
mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài
thơ Việt Bắc.


Câu 13: Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về mình có nhớ ta


Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Gợi ý trả lời:
Lịch sử dân tộc khơng ít những trang viết bằng thơ. Một trong những trang viết
tiêu biểu ấy là thơ Tố Hữu - một nhà thơ lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Ta bắt gặp trọng thơ Tố Hữu chặng đường cách mạng của dân tộc. Các sự kiện,
các dấu mốc của lịch sử Việt Nam suốt hơn nửa thế kỉ từ khi Đảng ra đời đến
sau chiến thắng mùa xuân 1975 được ông ghi lại trong những vần thơ trữ tình
cách mạng tha thiết. Việt Bắc là một trong số đó. Bài thơ ghi lại sự kiện Đảng
và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau cuộc kháng chiến chống Pháp
thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện những tình cảm tha thiết
của người đi - kẻ ờ, thể hiện những cảm nhận sâu sắc của tác giả về thiên nhiên
và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tưoi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hồ bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa một nỗi nhớ
nhung da diết cũng như biểu lộ tấm lòng chung thủy của tác giả nói riêng cũng
như người cán bộ nói chung đối với Việt Bắc.
Hai câu đầu của đoạn thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người
ở lại như thế nào và tự bộc lộ tấm lịng mình. Tám câu tiếp theo vẽ nên thiên
nhiên Việt Bắc đầy thơ mộng và con người Việt Bắc đầy thân thương qua lời
của người đi. Đầu tiên mùa đông xuất hiện với những bông chuối đỏ rực trên

nền rừng xanh thẫm của những buổi hồng hơn và hình ảnh con người lao động


×