1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng là yếu tố cơ bản của môi trường, giữ vai trò quan trọng không gì 
thay thế được đối với việc phòng hộ, duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ tính đa 
dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, cung cấp nhiều loại gỗ và lâm sản ngoài gỗ 
đáp ứng đa dạng cho nhu cầu sử dụng của con người. Rừng là dạng tài 
nguyên có khả năng tái tạo do vậy rừng không những là cơ sở của sự phát 
triển kinh tế mà còn giữ chức năng môi trường cực kỳ quan trọng. Song nó là 
một hệ sinh thái phức tạp và nhạy cảm bao gồm nhiều thành phần sinh vật với 
các quy luật sắp xếp khác nhau trong không gian và thời gian.
Trong quản lý rừng, tác động lâm sinh là biện pháp kỹ thuật then chốt 
để cải thiện chất lượng rừng, làm cho rừng có cấu trúc phù hợp với mục đích 
quản lý, nhằm đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cho từng loại hình kinh doanh 
rừng. Thực tiễn đã cho thấy rằng, các giải pháp nhằm phục hồi rừng, quản lý 
rừng bền vững chỉ có thể giải quyết thỏa đáng một khi có sự hiểu biết đầy đủ 
về bản chất quy luật sống của hệ sinh thái rừng.
Tỉnh Bình Thuận hiện có 259.541 ha rừng tự nhiên, diện tích rừng phân 
bố hầu hết trên các địa hình núi cao có độ cao tương đối so với mặt nước biển 
từ 200- 1600 m, cấu trúc quần xã thực vật tại các đai độ cao cũng rất khác 
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay tại tỉnh Bình Thuận có rất ít những công trình 
nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc quần xã thực vật rừng tự nhiên tại các đai độ 
cao khác nhau. Do vậy việc triển khai đề tài "Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc 
quần xã thực vật theo đai độ cao tại huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận” 
được xem là một trong những công việc cần thiết, quan trọng làm cơ sở khoa 
học cho việc đề xuất các giải pháp lâm sinh và chủ động trong việc xác lập 
2
các kế hoạch và biện pháp kỹ thuật tác động chính xác vào rừng, góp phần 
quản lý và phát triển rừng bền vững.
2. Mục đích của đề tài
Bổ sung những thông tin về đặc điểm cấu trúc quần xã thực vật rừng tại 
các đai độ cao khác nhau, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp quản lý, xác 
lập các kế hoạch và biện pháp kỹ thuật tác động chính xác vào rừng, góp phần 
quản lý và sử dụng rừng bền vững tại huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.
3. Những đóng góp của đề tài
- Ứng dụng các hàm phân bố để mô hình hóa các quy luật cấu trúc quần 
xã thực vật rừng tự nhiên trong khu vực nghiên cứu. Trên cơ sở các quy luật 
cấu trúc rừng đã xác định, đề xuất biện pháp lâm sinh hợp lý nhằm phát triển 
rừng bền vững, phát huy tốt chức năng phòng hộ và các chức năng khác.
- Góp phần vào công tác điều tra đánh giá tài nguyên rừng cũng như lập 
kế hoạch quản lý phát triển rừng bền vững tại Ban quản lý rừng phòng hộ Trị 
An huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận
4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là quần xã thực vật rừng tự nhiên có cùng một 
trạng thái rừng, có hướng phơi và độ dốc gần giống nhau tại các đai độ cao < 
700m, >700m- 900 m và trên 1000m tại lâm phận Ban quản lý rừng phòng hộ 
Trị An, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu và thu thập số liệu với đối tượng là rừng tự 
nhiên tại lâm phận Ban quản lý rừng phòng hộ Trị An, huyện Tánh Linh, tỉnh 
Bình Thuận. Do vậy, những kết quả nghiên cứu của đề tài này được giới hạn 
và áp dụng cho đối tượng rừng tự nhiên tại Ban quản lý rừng phòng hộ Trị An 
và các khu vực khác có điều kiện tự nhiên tương tự.
3
* Giới hạn của đề tài
 Đề tài giới hạn chỉ nghiên cứu các chỉ tiêu cấu trúc cơ bản của quần 
xã thực vật rừng thân gỗ theo các đai độ cao < 700m, >700m - 900 m và trên 
1000m trên lâm phận thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ Trị An. 
4
Chương 1 
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu các đặc điểm cấu trúc rừng đã được nhiều tác giả 
trên thế giới và Việt Nam đề cập từ những năm đầu thế kỷ XX. Những nghiên 
cứu này đều có xu hướng xây dựng các cơ sở có tính khoa học và lý luận phục 
vụ công tác kinh doanh rừng hiệu quả.
Tuy nhiên, do đối tượng rừng tự nhiên lại rất đa dạng, phong phú và 
phức tạp về cấu trúc, tổ thành loài cây, tầng tán, khả năng sinh trưởng… trên 
mỗi vùng địa lý khác nhau với những đặc điểm riêng biệt. Vì vậy các kết quả 
nghiên cứu về cấu trúc rừng và tái sinh rừng trên thế giới và ở Việt Nam được 
công bố đều mang ý nghĩa ứng dụng nhất định cho từng vùng, từng khu vực 
và là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp theo. Dưới đây xin trình bày 
một số kết quả nghiên cứu điển hình mang tính định hướng cho tác giả thực 
hiện nội dung đề tài. 
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng
Trong những thập kỷ gần đây việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã được 
chuyển dần từ mô tả định tính sang định lượng với sự hỗ trợ của thống kê 
toán học và tin học, trong đó việc mô hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối 
quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên 
cứu.
- Về cơ sở sinh thái cấu trúc rừng
Trong nghiên cứu cấu trúc rừng, các nhà khoa học chia ra ba dạng cấu 
trúc: cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu trúc thời gian. Cấu trúc hiện 
tại của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, đấu tranh 
sinh tồn giữa thực vật với thực vật, giữa thực vật với hoàn cảnh sống. Như 
5
vậy trên quan điểm sinh thái học cấu trúc rừng chính là hình thức ngoại mạo 
phản ánh những nội dung bên trong của một hệ sinh thái rừng.
Tổ thành thực vật là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phong phú 
của hệ thực vật rừng tại các vùng địa sinh học khác nhau. Richards P.W 
(1965) [31] đã phân chia tổ thành thực vật của rừng mưa thành hai loại: rừng 
mưa hỗn loài có tổ thành loài cây phức tạp và rừng mưa đơn ưu có tổ thành loài 
cây đơn giản. Trong những điều kiện lập địa đặc biệt thì rừng mưa đơn ưu chỉ 
bao gồm một vài loài cây. Cũng theo Richards P.W (1965) [31], khi nghiên 
cứu tổ thành loài cây ở rừng nhiệt đới cho thấy thường có ít nhất 40 loài trở 
lên trên 1 hecta, có trường hợp còn ghi nhận được trên 100 loài. Sự phong phú 
của hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới cũng được nhiều nhà khoa học ghi nhận 
như: Baur G.N (1979) [2], Catinot. R (1974) [4]… Trong các nghiên cứu này, 
các tác giả đều nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, 
dạng sống và tầng phiến của rừng.
Riêng G. Baur (1979) [2] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái 
học nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, 
trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt 
lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Từ đó tác giả đã đưa ra những tổng 
kết về các nguyên lý tác động lâm sinh và các phương thức xử lý cải thiện 
rừng mưa ở các nước nhiệt đới.
Odum E.P (1978) [27] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ 
sở khái niệm Hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm 
hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc bên 
trong quần xã thực vật rừng trên quan điểm sinh thái học.
- Về mô tả hình thái cấu trúc
Hiện tượng hình thành tầng là một trong những đặc trưng cơ bản về cấu 
trúc hình thái của quần xã thực vật và là cơ sở để tạo nên cấu trúc tầng thứ. 
6
Về cấu trúc tầng thứ có hai trường phái: Chevalier (1917), Mildbraed (1922), 
Booberg (1932),… cho rằng tầng rừng không có thực tế khách quan. Nhưng 
nhiều tác giả khác cho rằng rừng mưa thường có từ ba đến năm tầng như 
Brown (1919), David và Richards P.W (1933-1934), Richards P.W (1936), 
Vaughan và Weihe (1941), Beard (1946),…(dẫn theo Vương Tấn Nhị, 1964).
Phương pháp vẽ mặt cắt đứng của rừng do David và P.W. Richards 
(1933 – 1934) đề xướng và sử dụng lần đầu tiên ở Guyam đến nay vẫn là 
phương pháp hiệu quả để xác định cấu trúc tầng thứ của rừng. Tuy nhiên, 
phương pháp này có nhược điểm là chỉ minh họa được cách sắp xếp theo 
hướng thẳng đứng của các loài cây gỗ trong một diện tích có hạn. 
Ngày nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các 
đặc trưng như cấu trúc và dạng sống, độ ưu thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng 
suất thảm thực vật. Tiêu biểu cho nửa đầu thế kỷ XIX, là Humbold và 
Grisebach đã sử dụng dạng sinh trưởng của các loài cây ưu thế và kiểu môi 
trường sống của chúng để biểu thị cho các nhóm thực vật. Phương pháp này 
được các nhà sinh thái học Warming (1904) và Raunkiaer (1934) tiếp tục phát 
triển. Trong đó Raunkiaer đã đưa ra khái niệm về các phổ sinh học, khái niệm 
này được hiểu là tỷ lệ phần trăm các loài cây trong một quần xã có các dạng 
sống khác nhau. (dẫn theo Thái Văn Trừng, 1978) [39].
 Việc phân cấp cây rừng cho rừng hỗn loài nhiệt đới tự nhiên là hết sức 
phức tạp, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra phương pháp phân cấp 
được chấp nhận rộng rãi. Ngoài ra, về cấu trúc tuổi đối với rừng tự nhiên 
nhiệt đới vẫn chưa có các khẳng định chính thức. (dẫn theo Nguyễn Văn 
Thêm, 1992) [34].
- Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Như đã đề cập ở trên việc nghiên cứu cấu trúc rừng từ mô tả định tính 
dần chuyển sang các phương pháp định lượng, trong đó việc mô hình hóa cấu 
7
trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng được nhiều tác 
giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề về cấu trúc không gian và thời gian của 
rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất. Có thể kể đến một số 
tác giả tiêu biểu như: Rollet B (1971), Brunn (1970), Loetsch et al (1967) và 
nhiều tác giả khác quan tâm nghiên cứu cấu trúc không gian và thời gian của 
rừng theo hướng định lượng và dùng các mô hình toán để mô phỏng các quy 
luật cấu trúc. (dẫn theo Trần Văn Con, 2001) [8]. 
Trên cơ sở nghiên cứu về mật độ cây rừng trong rừng tự nhiên, nhiều 
tác giả đã tiến tới một bước là xây dựng mật độ tối ưu của lâm phần. H. 
Thomasius (1972) đã đưa ra khái niệm khoảng sống và hằng số không gian 
sinh trưởng liên quan tới chiều cao, mật độ và tuổi. Các nghiên cứu về mật độ 
tối ưu lâm phần theo diện tích tán và mức độ che phủ cũng được Kairukstis 
(1980) nghiên cứu. (dẫn theo Giang Văn Thắng, 2003) [33].
 Suzuki (1971), Block.W và Diener.W (1972)…nghiên cứu theo hướng 
xem đường kính cây rừng như là đại lượng ngẫu nhiên và phụ thuộc vào thời 
gian và coi quá trình biến đổi của phân bố đường kính theo tuổi là một quá 
trình ngẫu nhiên. Quá trình đó biểu thị một tập hợp các đại lượng ngẫu nhiên 
(X
t
) với thời gian (t) lấy trong khoảng thời gian nhất định nào đó. Nếu trị số 
của đường kính tại thời điểm (t) chỉ phụ thuộc vào trị số ở thời điểm (t-1) thì 
đó là chuỗi Markov. Nếu X
t
 = X có nghĩa là quá trình ở thời điểm (t) có dạng 
X.
Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính ngang ngực (N/D
1,3
) là một 
trong các chỉ tiêu quan trọng nhất của cấu trúc rừng, đã được nghiên cứu khá 
nhiều từ đầu thế kỷ XX, bằng các phương pháp biểu đồ hoặc giải tích. Một số 
tác giả đưa ra các hàm: hàm Meyer, hàm Hyperbol, hàm Poisson, hàm 
Charlier, hàm Logarit chuẩn, họ đường cong Pearson, hàm Weibull Tuy 
nhiên, việc sử dụng hàm này hoặc hàm khác để xây dựng dãy phân bố thực 
8
nghiệm N/D
1,3
 phụ thuộc vào kinh nghiệm từng tác giả và bản chất quy luật tự 
nhiên. Một dãy phân bố thực nghiệm có thể chỉ phù hợp cho một dạng hàm 
số, cũng có thể phù hợp cho nhiều hàm số ở các mức xác suất khác nhau.
Meyer đã mô tả phân bố N/D
1.3
 bằng phương trình toán học có dạng 
đường cong giảm và được gọi là phương trình phân bố Meyer hay hàm phân 
bố Meyer: y=ke
-αx
, trong đó y là tần số, x là đường kính, k và α là tham số, e 
là hệ số neper. Nhiều tác giả đã dùng luật Linaourt đã biểu thị bằng một 
phương trình có dạng tương tự như hàm phân bố Meyer để nghiên cứu rừng 
chặt chọn như Corona Elio, Bery, Popescu. Zeletin dùng phương trình 
Hyperbol để biểu thị sự phân bố N/D
1,3
 của rừng chặt chọn. 
Schiffel biểu thị đường cong phân bố phần trăm ( %) cộng dồn bằng đa 
thức bậc 3. Naslund đã xác lập luật phân bố Charlier đối với sự phân bố số 
cây theo đường kính của lâm phần thuần loại đều tuổi đã khép tán. 
Rollet.B (1971) đã mô tả phân bố số cây theo đường kính (N/D
1,3
) bằng 
các dạng phân bố xác suất. Weibull đã sử dụng dạng hàm Hyperbol để mô 
hình hóa cấu trúc đường kính loài Thông. Balley (1973) đã dùng hàm Weibull 
để mô hình hóa đường kính với số cây N/D
1,3
. Nhiều tác giả khác cũng sử 
dụng hàm Weibull để mô hình hoá quy luật phân bố đường kính loài Thông 
theo mô hình của Schumacher và Coil (Belly, 1973). Bên cạnh đó các dạng 
hàm Meyer, Hyperbol, hàm mũ, Pearson, Poisson, cũng được sử dụng để 
mô hình hoá cấu trúc rừng. (dẫn theo Trần Văn Con, 2001) [8]. 
Một trong những quy luật cơ bản và quan trọng trong nghiên cứu cấu 
trúc rừng là quy luật tương quan H
vn
/D
1,3
. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác 
giả cho thấy, chiều cao luôn tăng thuận theo đường kính cho đến một cỡ 
đường kính nhất định chiều cao sẽ tiệm cận một trị nhất định, cho dù đường 
kính vẫn tiếp tục tăng.
9
Khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng đứng, phần lớn các 
tác giả đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển 
nghiên cứu cấu trúc đứng rừng tự nhiên là vẽ các phẫu đồ đứng với các kích 
thước khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Các phẫu đồ đã mang lại hình 
ảnh khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng. Từ 
đó rút ra các nhận xét và đề xuất ứng dụng thực tế. Phương pháp này được 
nhiều nhà nghiên cứu rừng nhiệt đới áp dụng mà điển hình là các công trình 
của Richards (1959).
Để mô phỏng quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính các 
tác giả sử dụng nhiều dạng phương trình khác nhau. Vấn đề lựa chọn dạng 
phương trình nào thích hợp cho đối tượng nào thì cần được nghiên cứu cụ thể. 
Hai dạng phương trình thường được sử dụng nhiều để biểu thị đường cong 
chiều cao là phương trình Parabol và phương trình Logarit.
Tóm lại, việc lựa chọn một dạng phương trình toán học cụ thể để mô tả 
các quy luật cấu trúc rừng phụ thuộc vào đối tượng riêng cụ thể. Một dãy 
phân bố thực nghiệm có thể chỉ phù hợp cho một dạng hàm số, cũng có thể 
phù hợp cho nhiều hàm số ở các mức xác suất khác nhau. Nhìn chung các 
công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng mưa nhiệt đới trên thế giới khá đa 
dạng và không ít công trình nghiên cứu công phu đã mang lại hiệu quả cao 
trong những nghiên cứu khác và trong kinh doanh rừng.
1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh 
thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những 
loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng, dưới tán rừng, chỗ trống trong 
rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp 
cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng hiểu theo 
nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng 
10
cây gỗ. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được xác 
định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây tái sinh, đặc điểm 
phân bố. 
Tái sinh rừng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành, duy trì 
và phát triển của thảm thực vật rừng. Do vậy nghiên cứu về tái sinh rừng đã 
được nhiều tác giả trên thế giới thực hiện. Davis và Richards (1933-1934) 
nghiên cứu rừng mưa ở khu vực sông Moraballi, Guyana, đã thống kê số cây 
thứ tự từ thấp đến cao, trước hết là số cây non dưới 2 m, tiếp đến là số cây 
non có đường kính dưới 10 cm và chiều cao trên 4,6 m, sau đó mới đến số cây 
gỗ có đường kính trên 10 cm với cở đường kính 10 cm. Cây tái sinh được 
thống kê từ dưới 2 m đến chiều cao 4,6 m, với đường kính dưới 10 cm. Tác 
giả Aubre’ville (1993) đã thống kê lớp cây non gồm những cây thuộc cấp 
đường kính nhỏ hơn 10 cm (Richards P.W, 1970).
George N. Baur. (1979) [2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh 
hưởng đến phát triển của cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của 
cây mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh 
hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. 
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào 
làm sáng tỏ việc đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để 
xây dựng các phương thức xử lý lâm sinh hợp lý. 
* Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật 
Lĩnh vực nghiên cứu này có một số tác giả tiêu biểu sau: 
Long Chun và cộng sự (1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ 
sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đã đưa ra 
nhận xét: Tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 
loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài (dẫn theo Phạm 
Hồng Ban, 2000) [1].
11
Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và 
Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hoá số lượng loài thực vật tăng dần từ ban 
đầu đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc 
vào tỷ lệ các loài nguyên thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá 
trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh 
tác của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy 
từ 1 - 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981, 1992) đã cho biết 
chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của 
quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá.
Tuomela K. và các cộng sự (1995) nghiên cứu tái sinh ở các ô trống có 
diện tích từ 406 đến 1.242 m
2
 trong các khu rừng đã qua khai thác ở 
Kalimantan – Indonesia nhận thấy phân bố tần suất đường kính cây con ở các 
ô trống khác hẳn so với cây con ở vùng rừng xung quanh. Điều đó cho thấy 
cây con họ Dầu bắt đầu phát triển mạnh sau khi mở tán, tốc độ sinh trưởng tỷ 
lệ nghịch với diện tích ô trống và đã xác định diện tích ô trống thích hợp là 
khoảng 500 m
2
, như vậy cây họ Dầu chịu ảnh hưởng hưởng lớn của nhân tố 
ánh sáng.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tái sinh của thảm thực vật rừng trên thế 
giới đã cung cấp các thông tin về phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh ở 
một số vùng và ở một số kiểu rừng khác nhau. Tuy vậy, thảm thực vật rừng 
nhiệt đới đa dạng và rất phức tạp, sự phát sinh và phát triển của nó gắn liền 
với điều kiện tự nhiên ở từng vùng địa lý. Vì thế, cần tiếp tục nghiên cứu làm 
cơ sở cho việc phân tích và đề xuất các giải pháp tác động phù hợp; đặc biệt 
đối với rừng hỗn loài thường xanh và nửa rụng lá sau khai thác.
12
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về sinh thái và cấu trúc rừng
Nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam từ những năm đầu 
của thế kỷ XX đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm thực hiện 
nhằm qua đó tìm kiếm được các biện quản lý và sử dụng rừng phù hợp. Các 
tác giả của những công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này phải kể đến tên tuổi 
của các nhà khoa học lâm nghiệp Việt Nam như Thái Văn Trừng, Lê Viết 
Lộc, Trần Ngũ Phương, Đồng Sĩ Hiền, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Ngọc 
Lung… và nhiều tác giả khác cũng như các đóng góp của một số đề tài nghiên 
cứu sinh về lĩnh vực này.
Rừng tự nhiên ở nước ta thuộc kiểu rừng nhiệt đới, rất phong phú và đa 
dạng về thành phần loài, phức tạp về cấu trúc. Do đó việc nghiên cứu cấu trúc 
là cơ sở cho việc định hướng phát triển rừng và đề ra biện pháp lâm sinh hợp 
lý.
Lê Viết Lộc (1964) cùng với các cộng tác viên đã nghiên cứu sơ bộ cấu 
trúc rừng để điều tra các loài cây ưu thế. Ông đã dùng một số chỉ tiêu khác 
ngoài số lượng cá thể cây như chiều cao, tiết diện ngang… để tính toán độ ưu 
thế của loài trên diện tích điều tra. Đồng thời cũng đề ra một số chỉ tiêu và 
tiêu chuẩn để phân biệt “loại hình ưu thế” trong kiểu rừng kín thường xanh 
mưa ẩm nhiệt đới ở vườn Quốc gia Cúc Phương. (theo Thái Văn Trừng, 
1978) [39].
Trần Ngũ Phương (1970) [28] trong tác phẩm “Bước đầu nghiên cứu 
rừng miền Bắc Việt Nam” đã nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng tự 
nhiên để làm căn cứ phân loại thảm thực vật rừng ở Bắc Việt Nam. Nhân tố 
cấu trúc đầu tiên mà tác giả nghiên cứu là sự thay đổi về tổ thành loài cây ở 
các kiểu phân bố theo độ cao và vị trí địa lý khác nhau và thông qua hệ thống 
phân loại tác giả đã đề xuất một số biện pháp phát triển rừng vào thực tiễn.
13
Thái Văn Trừng (1978) [39] khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường 
xanh mưa ẩm nhiệt đới Việt Nam, đã đưa ra mô hình cấu trúc tầng, như tầng 
vượt tán (A
1
), tầng ưu thế sinh thái (A
2
), tầng dưới tán (A
3
), tầng cây bụi (B) 
và tầng cỏ quyết (C). Tác giả vận dụng và có sự cải tiến phương pháp biểu đồ 
mặt cắt của David – Richards (1953), trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được 
phóng với tỷ lệ lớn hơn. Ngoài ra, tác giả còn dựa vào xác định và phân tích 5 
nhóm nhân tố sinh thái phát sinh các kiểu thảm thực vật rừng và 4 tiêu chuẩn 
để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt Nam, đó là dạng sống ưu thế của 
những thực vật ở tầng cây lập quần, độ tàn che của tầng ưu thế sinh thái, hình 
thái sinh thái của nó và trạng thái của tán lá. Dựa vào đó, tác giả chia thảm 
thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu chính và một số kiểu phụ.
Nguyễn Văn Trương (1983) [40] trong nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn 
loài đã xem xét sự phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ giới. Về những 
kết quả nghiên cứu này, Vũ Đình Phương (1987) [29] đã nhận định, việc xác 
định tầng thứ theo hướng định lượng của rừng lá rộng thường xanh là hoàn 
toàn hợp lý và cần thiết trong trường hợp rừng đã phát triển ổn định.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lung (1989) [22] tại Hương Sơn, Kon 
Hà Nừng và một số địa phương khác cho thấy trên ô tiêu chuẩn diện tích 1 ha 
có từ 23-25 loài, với số cây thấp nhất 317 cây/ha và cao nhất 859 cây/ha.
Để đánh giá tổ thành rừng, thường sử dụng công thức tổ thành trên tỷ lệ 
phần mười theo số cây, tiết diện ngang, hoặc chỉ số IV%. Tính tỷ lệ tổ thành 
(IV%) theo phương pháp của Daniel Marmillod thường được các nhà khoa 
học vận dụng trong nghiên cứu cấu trúc. 
Trên cơ sở phương pháp phân tích định tính dựa vào tổ thành ưu thế 
các loài tham gia lập quần và tầng ưu thế sinh thái và phương pháp sinh thái 
định lượng của M. Gounot (1965), Bùi Đoàn (2001) đã phân chia các nhóm 
sinh thái phục vụ công tác điều chế rừng lá rộng thường xanh ở Kon Hà 
14
Nừng. Tuy nhiên phương pháp này phức tạp trong tính toán và khó áp dụng. 
(theo Nguyễn Thành Mến, 2004) [20].
Đào Công Khanh (1996) đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu 
trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) làm cơ sở đề xuất một 
số biện pháp lâm sinh phục vụ khai thác và nuôi dưỡng rừng. Nguyễn Thị 
Kim Anh (1998) đã tiến hành nghiên cứu đăc điểm cấu trúc trạng thái rừng 
IIIA
2
 làm cơ sở cho việc điều chế rừng tại lâm trường Bù Đăng, huyện Bù 
Đăng, tỉnh Bình Phước. Nguyễn Anh Dũng (2000) đã tiến hành nghiên cứu 
một số đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng IIA và IIIA
1
 ở 
lâm trường Sông Đà, Hòa Bình. 
Về nghiên cứu định lượng cấu trúc, việc mô hình hóa cấu trúc đường 
kính D
1,3
 được nhiều tác giả nghiên cứu và biểu diễn chúng theo các dạng hàm 
phân bố xác suất khác nhau.
Đồng Sĩ Hiền (1974) [14] dùng hàm phân bố Meyer và hệ đường cong 
Poisson và Pearson để nắn phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính 
cho rừng tự nhiên làm cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam
Nguyễn Văn Trương (1983) [40] đã thử nghiệm dùng các hàm mũ, 
logarit, hàm phân bố Poisson và Pearson để biểu thị cấu trúc số cây theo cấp 
đường kính của rừng tự nhiên hỗn loài. 
Nguyễn Hải Tuất (1982, 1986) [41] sử dụng hàm phân bố giảm, phân 
bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc phân bố N/D
1,3
 của rừng thứ sinh tại 
Đông Bắc Việt Nam.
Trần Văn Con (2001) [8] đã sử dụng hàm phân bố Weibull để mô 
phỏng cấu trúc số cây theo cấp đường kính (N/D) của rừng khộp ở Tây 
Nguyên và đã cho rằng khi rừng còn non phân bố này có dạng giảm, và khi 
rừng càng lớn, càng có xu thế chuyển sang phân bố đỉnh và lệch dần từ trái 
15
sang phải. Điều này được giải thích đó là sự biến thiên về lập địa có lợi hay 
không có lợi cho quá trình tái sinh (dẫn theo Ngô Út, 1996).
Lê Sáu (1996) đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng các quy luật phân 
bố đường kính, chiều cao tại khu vực Kon Hà Nừng, Tây Nguyên.
Bảo Huy (1993) thử nghiệm mô phỏng phân bố thực nghiệm N/ D cho 
rừng ưu thế Bằng lăng ở Đắc Lắc theo các dạng phân bố: Poisson, khoảng 
cách, hình học, Weibull và Meyer. 
Trần Xuân Thiệp (1996) sau khi thử nghiệm các hàm Meyer, Weibull 
để mô phỏng kết cấu N/D và N/H cho rừng Hương Sơn- Hà Tĩnh, cũng đã 
nhận định: sự phù hợp giữa phân bố lí thuyết và thực tế cho phép dựa vào 
hàm Weibull để điều tiết rừng trong giai đoạn quá độ chuyển hóa về rừng 
chuẩn cũng như trong quá trình kinh doanh rừng bền vững.
Theo nghiên cứu của Viện Điều tra Quy hoạch rừng (2005) rừng phục 
hồi trong kiểu rừng kín cây lá rộng thường xanh thường có tổ thành loài tham 
gia tương đối đa dạng. Đối với trạng thái rừng IIA phục hồi sau nương rẫy, tổ 
thành loài trong thành phần cây đứng tương đối đơn giản, khoảng 10-20 loài 
(1000 m
2
), gồm những loài tiên phong ưa sáng và mọc nhanh. Đối với trạng 
thái rừng IIB, tổ thành loài phong phú đa dạng hơn gồm những loài nửa chịu 
bóng và cả những loài ưa sáng. 
Phùng Đình Trung (2007) khi nghiên cứu và so sánh một số đặc điểm 
về cấu trúc và đa dạng loài của các trạng thái rừng giàu ở Bắc và Nam đèo 
Hải Vân đã dựa vào chỉ số IV (%) để phân chia loại hình xã hợp thực vật ở 2 
khu vực và đã xác định cả 2 khu vực đều có 4 loài cây có trị số IV% lớn hơn 
5%. Dựa vào độ đo của Sorensen để so sánh sự khác biệt về loài trong nhóm 
loài cây ưu thế ở 2 khu vực và khẳng định có sự khác biệt về nhóm loài cây 
ưu thế ở hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân. (dẫn theo Nguyễn Thành 
Mến, 2004) [20].
16
Nhìn chung các nghiên cứu về cấu trúc tổ thành quần xã thực vật tương 
đối nhiều, tương đối tập trung vào rừng lá rộng thường xanh. Tuy nhiên, các 
nghiên cứu cấu trúc quần xã thực vật theo các đai độ cao còn ít và chưa tập 
trung để giải quyết vấn đề đang đặt ra là tìm các giải pháp để bảo tồn và phát 
triển rừng bền vững, đặc biệt là tại khu vực tỉnh Bình Thuận.
1.2.2. Về nghiên cứu tái sinh rừng 
Rừng nhiệt đới Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt 
đới nói chung, nhưng do phần lớn là rừng thứ sinh bị tác động của con người 
nên những quy luật tái sinh đã bị xáo trộn nhiều. 
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch 
rừng đã điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ 
sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn 
(1969). Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu 
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. 
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tái sinh rừng nhưng tổng kết 
thành qui luật tái sinh cho từng loại rừng thì còn rất ít. 
Vũ Tiến Hinh (1991) [15] nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của rừng 
tự nhiên ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận xét: Hệ 
số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên hệ chặt 
chẽ. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ thành 
tầng tái sinh cũng vậy.
Trần Ngũ Phương (1970) [28] khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới 
mưa mùa lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “Rừng tự nhiên dưới tác động 
của con người khai thác hoặc làm nương rẫy, lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết 
quả cuối cùng là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm 
thực vật hoang dã tự nó phát triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, 
trảng cỏ sẽ chuyển dần lên những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình 
17
tái sinh tự nhiên và cuối cùng rừng khí hậu sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần 
giống rừng khí hậu ban đầu”.
Kết quả nghiên cứu trên cùng đối tượng tại Cúc Phương của các tác giả 
Phạm Xuân Hoàn và Trương Quang Bích (2009) lại cho thấy, cả số lượng loài 
và mật độ cây tái sinh đều tăng lên sau thời gian bỏ hóa (trên các ô định vị I, III 
và IV số lượng loài và mật độ cây tái sinh tăng từ 15 lên 17; từ 29 lên 35; 23 lên 
34 và mật độ tăng lên từ 1.600 lên 1.800 cây/ha; từ 1.360 lên 6.840 cây/ha và từ 
2.760 lên 17.360 cây/ha sau 5 năm bỏ hóa. (Dẫn theo Hoàng Thị Tuyết, 2010) 
[42].
Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta hiện nay, nhiều khu vực vẫn 
phải trông cậy vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân tạo mới chỉ được triển 
khai trên quy mô hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự 
nhiên cho từng đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần thiết nếu muốn đề xuất 
biện pháp kỹ thuật chính xác.
1.3. Một số ý kiến thảo luận chung
Các công trình nghiên cứu về rừng tự nhiên trên thế giới và trong nước 
rất đa dạng và phong phú. Trong mục này, đề tài chỉ tập trung trình bày một 
số nghiên cứu về cấu trúc rừng quần xã thực vật tại các đai độ cao có liên 
quan đến đề tài. Xu hướng nghiên cứu hiện này là chuyển dần từ định tính 
sang định lượng bằng việc sử dụng các mô hình toán học là một trong những 
phương pháp thể hiện sự tiến bộ trong nghiên cứu các quy luật sinh học. Rừng 
tự nhiên lá rộng thường xanh ở Việt Nam có diện tích lớn, bị tác động bởi 
nhiều yếu tố ngoại cảnh, nhất là tác động của con người. Quá trình phục hồi 
phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và đã hình thành nhiều quần thể thực 
vật khác nhau. Muốn đề xuất được các biện pháp kỹ thuật lâm sinh chính xác, 
đòi hỏi phải nghiên cứu cấu trúc, tái sinh rừng một cách đầy đủ và phải đứng 
trên quan điểm tổng hợp về sinh thái học, lâm học.
18
Các nghiên cứu về cấu trúc ngày càng thiên từ lý thuyết sang ứng dụng 
thực tế. Cũng chính từ việc đề cao ứng dụng thực tiễn mà những nghiên cứu 
đó đã đề cập đến nhiều khía cạnh phong phú như cấu trúc tổ thành, cấu trúc 
theo chiều thẳng đứng, cấu trúc theo chiều nằm ngang. Phần lớn các tác giả đã 
chú ý đến việc lựa chọn mô hình lý thuyết thích hợp để mô tả các đặc điểm 
của cấu trúc rừng như đã nêu ở trên. Trong đó cấu trúc N/D được quan tâm 
hàng đầu và sau đó đến cấu trúc N/H. Từ mô hình lý thuyết thích hợp, các tác 
giả bằng nhiều phương pháp khác nhau đã xây dựng mô hình cấu trúc mẫu 
làm cơ sở cho việc đề xuất biện pháp lâm sinh phù hợp với từng điều kiện và 
mục tiêu cụ thể. Theo hướng đó, đề tài cũng sẽ thử nghiệm mô phỏng phân 
bố N/D và N/H bằng các dạng hàm phân bố như Weibull, Meyer và phân bố 
khoảng cách như các tác giả đi trước, nhằm tìm ra hàm phân bố phù hợp nhất 
để mô tả phân bố đường kính và chiều cao cho loại hình rừng tự nhiên tại khu 
vực nghiên cứu.
Mặc dù các kết quả nghiên cứu rất phong phú và đa dạng, nhưng những 
công trình đề cập ở trên sẽ là những định hướng quan trọng cho việc giải 
quyết các nội dung nghiên cứu của đề tài. Qua đó, tác giả mong muốn kết quả 
nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp một phần cơ sở lý luận về cấu trúc rừng 
quần xã thực vật rừng tại các đai độ cao khác nhau nhằm đề xuất các giải 
pháp quản lý, tác động, làm giàu rừng tự nhiên theo đúng quy luật phát triển 
tự nhiên của đối tượng nghiên cứu tại Ban quản lý rừng phòng hộ Trị An, 
huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận cũng như khu vực có điều kiện tương tự.
19
Chương 2 
MỤC TIÊU NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu đề tài
- Xác định và so sánh được cấu trúc, đặc điểm phân bố của các quần xã 
thực vật rừng tại các đai độ cao < 700m, >700m - 900 m và trên 1000m.
- Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm góp phần vào 
công tác quản lý rừng tự nhiên bền vững trên cơ sở các kết quả nghiên cứu có 
được.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu đã được xác định cũng như phạm vi, đặc điểm của 
đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài, nội dung nghiên cứu của luận 
văn được xác định như sau:
+ Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng theo các đai cao < 700m, >700m- 
900 m và trên 1000m
- Nghiên cứu một số đặc điểm lâm học.
- Quy luật phân bố số cây theo đường kính và chiều cao.
- Nghiên cứu quy luật tương quan giữa đường kính và chiều cao.
- Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên của rừng.
+ So sánh cấu trúc quần xã theo các đai cao < 700m, >700m- 900 m và 
trên 1000m
- Độ hỗn giao của rừng.
- Một số chỉ số đa dạng sinh học.
+ Đề xuất một số giải pháp quản lý và phát triển rừng bền vững
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Kế thừa tài liệu thứ cấp
Kế thừa số liệu có sẵn của Ban quản lý rừng phòng hộ Trị An:
20
- Hồ sơ thiết kế giao khoán bảo vệ rừng.
- Phương án bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011- 2020.
- Bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ địa hình, tư liệu về điều kiện tự nhiên, 
điều kiện kinh tế, điều kiện xã hội: dân số, lao động, thành phần dân tộc, tập 
quán canh tác. Khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa hình, tài nguyên rừng 
2.3.2. Điều tra ngoại nghiệp
- Điều tra sơ thám: Với mục đích nắm được một cách tổng quát đối 
tượng nghiên cứu để bổ sung kịp thời các thông số kỹ thuật đã định ra ở phần 
chuẩn bị.
- Điều tra tỉ mỉ: Tiến hành lập ô tiêu chuẩn theo phương pháp ô mẫu 
điển hình, ô tiêu chuẩn thiết lập mang tính đại diện cho quần xã thực vật tại 
các độ cao: < 700m, 900 và trên 1000m. 
- Phân chia các đai độ cao cần nghiên cứu. Ở Việt Nam, hiện nay có 
nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia đai độ cao, mỗi tác giả đều theo 
một quan điểm, cơ sở khác nhau, do đó kết quả có sự chênh lệch. Mặt khác 
không có một ranh giới chuẩn mực nào về thảm thực vật cũng như các điều 
kiện tự nhiên khác ở bất kỳ một khu vực nào để có thể nhận ra được đó là 
ranh giới giữa các đai cao. Do đó những phân chia của các tác giả đều mang 
tính tổng quát. 
Căn cứ để phân chia các đai độ cao này được dựa trên các điều kiện tự 
nhiên thực tế và hiện trạng của các trạng thái rừng trong khu vực và độ cao 
tương đối của địa hình. Phần lớn các trạng thái rừng ở độ cao từ 700 mét trở 
xuống là những quần xã rừng kín nhiệt đới thường xanh và đã bị tác động. Từ 
độ cao 700 mét đến dưới 900 mét là trạng thái rừng có tính chuyển tiếp giữa 
vành đai nhiệt đới và á nhiệt đới núi cao theo hệ thống phân chia của Thái 
Văn Trừng (1998) [38], phần lớn rừng ở đây chưa hoặc ít bị tác động. Rừng ở 
đai cao trên 1000 mét được xác định là những quần xã còn giữ được cấu trúc 
21
nguyên sinh, có ngoại mạo khác so với các quần xã vùng thấp (về chiều cao 
chung và mật độ) và bắt đầu có những loài cây á nhiệt đới điển hình xuất hiện 
(một số loài lá kim núi cao). 
Để xác định chính xác những độ cao cần nghiên cứu, trước hết sử dụng 
những bản đồ địa hình 1/25.000 và máy định vị Oregon 300N để xác định 
các độ cao : < <700m, >700m- 900 m và trên 1000m. 
- Số lượng, kích thước và phương pháp bố trí ô tiêu chuẩn
Đối với các OTC ở đai cao trên 1000 mét, để nghiên cứu các đặc trưng 
cây gỗ lớn được thực hiện trên các ô tiêu chuẩn (OTC) điển hình tạm thời, 
diện tích ô là 1000 m
2
 (20 x 50m), số lượng 3 ô do ở độ cao này quần xã thực 
vật rừng có ngoại mạo tương đối thuần nhất và thường có độ dốc lớn. Đối với 
các đai độ cao < 700m và >700m- 900 m bố trí diện tích ô tiêu chuẩn là 
2000m
2
 (40m x 50m), số lượng ô tiêu chuẩn tại các đai độ cao này là 3 ô/đai 
độ cao. 
Nội dung đo đếm trong ô tiêu chuẩn như sau:
- Mô tả tình hình chung của ô đo đếm: vị trí ô tiêu chuẩn, điều kiện đất 
đai, địa hình, cây bụi, thực vật ngoại tầng, nhận xét chung về tình hình sinh 
trưởng và phát triển của rừng.
- Xác định tên loài cây gỗ: tên loài cây được xác định tại thực địa, với 
những loài chưa thể xác định tên trên thực địa, tiến hành thu thập mẫu về tra 
cứu và bổ sung thêm, trường hợp không biết tên thì ghi ký hiệu là Sp.
- Đo đường kính tại vị trí 1,3 m (D
1,3
) của toàn bộ các cây có đường 
kính từ 8 cm trở lên có trong ô tiêu chuẩn: việc đo đường kính tại vị trí 1,3 m 
bằng cách đo chu vi bằng thước vải tại vị trí 1,3 m với độ chính xác 1 cm sau 
đó suy ra đường kính. 
- Đo đường kính tán (D
t
) bằng thước dây theo hai hướng Đông – Tây 
và Nam - Bắc với độ chính xác 0,1 m, sau đó lấy giá trị trung bình.
22
- Đo chiều cao vút ngọn từng cây (H
vn
) bằng thước đo cao 
HAGA/SUUNTO với sai số cho phép 0,5 m.
- Đánh giá phẩm chất của tất cả các cây đo đếm, phẩm chất cây được 
chia làm 3 cấp:
+ Phẩm chất a: cây gỗ khỏe mạnh, thân thẳng đều, tán lá cân đối, không 
sâu bệnh, thân không bị rỗng mục.
+ Phẩm chất b: là những cây có thân hơi cong, nhiều thân, tán lệch 
hoặc có khuyết tật nhỏ như u, bướu… nhưng không ảnh hưởng nhiều đến khả 
năng sinh trưởng của cây, cây có giá trị sử dụng gỗ.
+ Phẩm chất c: là những cây gỗ bị gãy đổ, cụt ngọn, rỗng ruột, mục, 
sinh trưởng không bình thường, hầu hết là không có giá trị lợi dụng gỗ.
* Mô tả hiện trạng tái sinh dưới tán rừng. Cây tái sinh được đo đếm trong 
ô tiêu chuẩn. Mỗi ô tiêu chuẩn bố trí 4 ô dạng bản với diện tích 25m
2
 (5mx5m). 
Những ô dạng bản này được bố trí ở 4 góc của ÔTC theo sơ đồ sau:
 20/40m 
50m
Hình 2.1. Sơ đồ bố trí ô dạng bản điều tra tái sinh 
Trong các ô dạng bản được thiết lập, tiến hành đo đếm các cây tái sinh 
có đường kính nhỏ hơn 8 cm. Nội dung thu thập trong ô dạng bản bao gồm:
+ Tên loài cây tái sinh
+ Số lượng cây tái sinh thống kê theo từng loài.
5x5 mét
23
+ Đo chiều cao tất cả cây tái sinh có trong ô dạng bản, đo chiều cao cây 
tái sinh bằng sào đo với độ chính xác 0,1 m. Chiều cao cây tái sinh được phân 
làm 4 cấp: < 1m, 1 – 1,5 m, 1,5 - 3 m và trên 3m.
+ Xác định nguồn gốc cây tái sinh (hạt, chồi).
+ Đánh giá chất lượng cây tái sinh theo 3 cấp: khỏe, trung bình và yếu. 
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
2.3.3.1. Nghiên cứu tổ thành tầng cây cao
Tổ thành là chỉ tiêu biểu thị tỷ lệ của một loài hay một nhóm loài cây 
nào đó trong lâm phần, là chỉ tiêu dùng để đánh giá mức độ đa dạng sinh học, 
tính ổn định, tính bền vững của hệ sinh thái rừng. Các chỉ tiêu để nghiên cứu 
tổ thành loài quần thụ rừng thường là: độ hỗn loài (tỷ lệ loài), độ nhiều và độ 
ưu thế của mỗi loài. Trong điều tra lâm phần, để biểu thị tổ thành rừng, người 
ta sử dụng công thức tổ thành cho đối tượng tầng cây cao . Về bản chất, công 
thức tổ thành có ý nghĩa sinh học sâu sắc, phản ánh mối quan hệ giữa các loài 
cây trong một quần xã thực vật và mối quan hệ giữa quần xã thực vật với điều 
kiện ngoại cảnh.
Theo quan điểm sinh thái hiện nay, các nhà khoa học xác định tổ thành 
loài cây trong tầng tán chính (tầng cây cao) theo số cây và theo tiết diện ngang 
hoặc theo trữ lượng. 
Nhóm loài ưu thế hình thành nên các xã hợp thực vật, bao gồm các loài 
ưu thế (là các loài có trị số IV% > 5%) với giới hạn số lượng loài ưu thế dưới 
10 loài và bảo đảm tổng IV% của các loài này đạt 40 - 50%.
Để xác định tổ thành tầng tán chính (tầng cây cao), đề tài sử dụng phương 
pháp như sau:
Tập hợp số liệu cây lớn của những ô tiêu chuẩn theo 3 đai độ cao khác 
nhau.
24
Mô tả tổ thành loài cây tầng trên theo các đai độ cao. Đối với mỗi ô tiêu 
chuẩn, trước hết thống kê loài cây và họ. Kế đến, liệt kê thành phần loài cây 
theo 3 đai độ cao. Tiếp đến, xác định tổ thành loài cây và vai trò của loài (IV
%: Important Value) theo phương pháp Thái Văn Trừng (1978) [38] đã áp 
dụng.
3
%%%
%IV
i
GiMiNi ++
=
[2-1]
Trong đó:
IVi% là tỷ lệ tổ thành (chỉ số quan trọng: Important Value) của loài i
Ni% là % theo số cây của loài i trong QXTV rừng 
Mi% là % theo trữ lượng của loài i trong QXTV rừng 
Gi% là % theo tổng tiết diện ngang của loài i trong QXTV rừng
Theo Daniel M., những loài cây có IV% ≥ 5% mới thực sự có ý nghĩa 
về mặt sinh thái trong lâm phần. Theo Thái Văn Trừng (1978), [38] trong một 
lâm phần nhóm loài cây nào đó ≥ 40% tổng số cá thể của tầng cây cao thì 
nhóm loài đó được coi là nhóm loài ưu thế. Cần tính tổng IV% của những loài 
có trị số này lớn hơn 5%, xếp từ cao xuống thấp và dừng lại khi tổng IV% đạt 
40 - 50%.
Độ hỗn giao là chỉ số loài trên tổng số cây, nó thể hiện sự thuần nhất 
của lâm phần. Khi thành phần loài càng cao thì tỷ lệ này càng thấp và tiến đến 
0 và ngược lại. Độ hỗn giao được tính bằng công thức sau:
K = 
N
X
 [2-2]
Trong đó:
X: tổng số loài
N: tổng số cây
K = 1: rừng thuần loài
0 < K < 1: rừng có độ hỗn giao
25
0 < K < 0,5: rừng có độ hỗn giao thấp
0,5 < K < 1: rừng có độ hỗn giao cao
Trong nghiên cứu này sử dụng 3 chỉ số: chỉ số phong phú loài Margalef 
(d), chỉ số Pielou (J’) và chỉ số Shannon-Weiner (H’
log2
). 
+ Chỉ số phong phú loài Margalef (d): Chỉ số này được sử dụng để xác 
định tính đa dạng hay độ phong phú về loài. Giống như chỉ số α của Fisher, 
chỉ số Margalef cũng cho biết được số loài và số lượng cá thể trong mẫu đại 
diện của quần xã. 
+ Chỉ số J’ của Pielou: Chỉ số này được sử dụng để xác định tính 
tương đồng về số loài cây gỗ giữa các đai độ cao.
+ Chỉ số Shannon – Weiner: Chỉ số Shannon-Weiner được sử dụng để 
xác định tính đa dạng về số loài cây gỗ trong từng đai độ cao. 
Phân tích biến động thành phần loài cây và vai trò của chúng tùy theo thứ 
bậc cao thấp của 3 đai độ cao.
Xây dựng công thức tổ thành tầng cây cao cho từng đai độ cao.
2.3.3.2. Mật độ:
Mật độ được tính theo công thức:
10.000
S
n
N/ha
×=
[2-4]
Trong đó: n: Số lượng cá thể của loài hoặc tổng số cá thể trong ÔTC
S: Diện tích ÔTC (m
2
)
- Độ tàn che:
Độ tàn che (ký hiệu: C) được tính bằng tỷ lệ phần mười diện tích hình 
chiếu nằm ngang của tán rừng (S
t
, m
2
) trên mặt phẳng nằm ngang của lô đất 
có rừng (S, m
2
), lúc đó:
C = S
t
/S [2-5]
2.3.3.3. Nghiên cứu quy luật cấu trúc lâm phần: