Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

báo cáo đề tài tốt nghiệp tại trang trại lợn ngọc minh trực thuộc công ty japfa comfeed việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 57 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được đề tài này trước hết tôi xin chân thành cảm ơn toàn
thể các thầy, cô trong Khoa Thú y - Trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam
đã trang bị cho tôi những kiến thức chuyên ngành bổ ích và quý báu trong
suốt quá trình học tập vừa qua.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Bá Tiếp, Bộ môn Giải
phẫu - Tổ chức – Phôi thai, Khoa Thú Y - Trường Đại học Nông nghiệp Hà
Nội đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình thực tập và
báo cáo tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể công nhân Trang
trại lợn Ngọc Minh trực thuộc công ty JAPFA COMFEED VIỆT NAM đã tạo
điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài
thực tập tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng tôi xin chúc toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Thú Y -
Trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Ban lãnh đạo cùng toàn thể anh chị
em công nhân Trang trại lợn Ngọc Minh trực thuộc công ty JAPFA
COMFEED VIỆT NAM, cùng gia đình và bạn bè sức khỏe, đạt được nhiều
thành tích cao trong công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014
Sinh viên
Bùi Thị Ngọc
i
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
Trang ii


DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
Phần I
MỞ ĐẦU
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
PHẦN III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
PHẦN V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
53
53
53
ii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung.
Bảng 4.1. Số lượng và cơ cấu đàn lợn nái của trại Ngọc Minh
Bảng 4.2. Lịch tiêm phòng bệnh bằng vaccine và thuốc tại Trại lợn
Ngọc Minh
Bảng 4.3. Tình hình bệnh xảy ra trên đàn lợn nái
Bảng 4.4. Tình hình mắc các bệnh sinh sản ở đàn lợn nái nuôi tại trại
Ngọc Minh
Bảng 4.5. Tình hình mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái theo giống
Bảng 4.6. Tình hình mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái theo lứa đẻ
Bảng 4.7. Tình hình mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái được nuôi ở
các dãy chuồng khác nhau

Bảng 4.8. Tình hình mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái vào các tháng
khác nhau
Bảng 4.9. Kết quả điều trị một số bệnh sinh sản bằng 2 phác đồ
Bảng 4.10. Một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của lợn nái sau khi điều trị
bệnh viêm tử cung
Bảng 4.11. Kết quả hạch toán chi phí sử dụng thuốc trong điều trị
iii
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 4.1. Tình hình mắc các bệnh sinh sản ở đàn lợn nái nuôi tại trại
Ngọc Minh
Hình 4.2. Tình hình mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái theo giống
Hình 4.3. Tình hình mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái theo lứa đẻ
iv
Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nông nghiệp, cuộc sống của người nông dân gắn
liền với trồng trọt và chăn nuôi. Trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
thì ngành chăn nuôi chiếm một vị trí quan trọng, đặc biệt là ngành chăn nuôi
lợn. Đây là ngành đã có truyền thống từ lâu đời, nhiều kinh nghiệm quý báu
đã được tích luỹ, lưu truyền và luôn được khuyến khích phát triển ở nước ta.
Những năm gần đây, do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật ngành chăn
nuôi gia súc nói chung và ngành chăn nuôi lợn nói riêng ngày càng phát triển.
Đàn lợn nước ta đã và đang ngày càng tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất
lượng, không những cung cấp một lượng lớn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng
cao cho tiêu dùng trong nước và ngoài nước, ngoài ra chăn nuôi lợn còn cung
cấp một lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt.
Bên cạnh những tiến bộ mới về cải tạo giống, nâng cao chất lượng thức
ăn, việc mở rộng quy mô sản xuất tập trung với cường độ ngày càng cao thì

đồng thời cũng làm tăng nguy cơ bệnh tật, ảnh hưởng đến tăng trọng và có thể
tăng tỷ lệ chết trong chăn nuôi lợn, gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng
sức khoẻ của người tiêu dùng.
Trong chăn nuôi lợn, đàn lợn nái có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc làm tăng số lượng cũng như nâng cao chất lượng đàn lợn. Tuy nhiên, lợn
nái thường hay mắc một số bệnh về sinh sản làm giảm năng suất sinh sản và
chất lượng đàn con. Các bệnh sinh sản trên đàn lợn nái rất hay xảy ra và để lại
hậu quả lâu dài, trường hợp nặng có thể gây mất khả năng sinh sản.
Để góp phần giúp người chăn nuôi tìm ra hướng giải quyết phù hợp
trong vấn đề phòng và trị một số bệnh sinh sản cho đàn lợn nái một cách có
1
hiệu quả chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu tình hình mắc
một số bệnh sinh sản trên đàn lợn nái nuôi tại trại lợn Ngọc Minh,
Thái Sơn, Hiệp Hòa, Bắc Giang và sử dụng một số phác đồ điều
trị”.
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản ở đàn lợn nái đã sinh sản và
các yếu tố ảnh hưởng.
- Xác định được hiệu quả một số phác đồ điều trị bệnh sinh sản, từ đó
chọn ra được phác đồ điều trị hiệu quả nhất.
- Khuyến cáo một số biện pháp phòng bệnh tích cực để phòng bệnh sinh
sản cho lợn nái sau đẻ.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CÁC CƠ QUAN THUỘC HỆ SINH DỤC LỢN CÁI
2.1.1. Buồng trứng
Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở trước dây chằng rộng, nằm
trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có
hình bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng. Buồng trứng của

lợn hình chum dâu, có màu hồng vân, vị trí nằm ở hai bên bang quang, trước
cửa xoang chậu.
Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là nơi phát triển của namg trứng và
tiết các hormone: oestrogen, progesterone. Các hormone mày tham gia vào
điều khiển chu kỳ của lợn cái. Eostrogen cần thiết cho sự phát triển của tử
cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesteron do thể vàng tiết ra giúp
duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi dưỡng
thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú.
Oxytocin được tiết chủ yếu ở phần sau của tuyến yên nhưng cũng được tiết
bởi thể vàng của buồng trứng khi thú gần sinh, nó làm co thắt cơ tử cung
trong lúc đẻ và làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Ở lợn, relaxin do thể
vàng tiết ra gây giãn nở xương chậu, làm giãn và mềm cổ tử cung, do đó mở
rộng đường sinh dục khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết
kích noãn tố (FSH) từ tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển của nang noãn
theo chu kỳ (Trần Thị Dân, 2004).
Ở bề mặt buồng trứng có một tổ chức liên kết được bao bọc bởi lớp nhu
mô hình lập phương. Bên dưới lớp này là lớp vỏ có chứa các noãn nang, thể
vàng, thể bạch (thể vàng thoái hóa). Phần tủy của buồn trứng nằm ở giữa,
gồm mạch máu, dây thần kinh, mạch bạc huyết và mô liên kết. Miền vỏ có tác
dụng về sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình trứng chin và trứng rụng. Trên
3
buồng trứng có từ 70.000-100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác nhau, tầng
ngoài cũng là các noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là các
noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng, khi noãn bào chin sẽ nổi lên bề mặt buồng
trứng (Khuất Tiến Dũng, 2005).
2.1.2. Ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng (vòi Fapllops) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu
mở để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp
xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Ở lợn loa kèn phủ toàn bộ buồng trứng.
Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng tiếp nối với ½ chiều dài của ống dẫn

trứng , đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào
biểu mô có lông nhỏ. Phần eo tiếp nối với sừng tử cung, có thành dày hơn
phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Cấu tạo ống dẫn trứng được chia thành ba lớp:
- Lớp ngoài là lớp lien kết.
- Lớp giữa là cơ trơn.
- Lớp trong là lớp niêm mạc.
Lớp niêm mạc gồm các tế bào thượng bì có lông nhung. Khi tế bào trứng
rơi vào loa kèn theo ống dẫn trứng đi xuống là nhờ sự rung động của các lông
nhung và sự co bóp của lớp cơ. Thời gian tế bào trứng di chuyển trong ống
dẫn trứng từ 3-10 ngày.
Trên đường di hành trong ống dẫn trứng, tế bào trứng có thể bị đứng lại
ở các đoạn khác nhau do những chỗ hẹp của ống dẫn trứng. Khi có tinh trùng
vào đường sinh dục của gia súc cái, tế bào trứng được thụ tinh. Quá trình thụ
tinh đó thường xảy ra ở ống dẫn trứng. Đường kính của ống dẫn trứng: 0.2-
0.4mm.
Vai trò của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi thụ
tinh của ống dẫn trứng (1/3 phía trên của ống dẫn trứng) tiết ra các chất để
4
nuôi dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thj tinh của tinh trùng,
tiết các chất nuôi dưỡng phôi cho mấy ngày trước khi phôi đi vào tử cung.
Nơi tiếp giáp giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của
tinh trùng đến phần rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử
cung. Ở lợn, sự co thắt ở nơi tiếp giáp eo-tử cung tạo thành cái cản đối với
tinh trùng để không có quá trình tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh
được hiện tượng nhiều tinh trùng xâm nhập vào.\
2.1.3. Tử cung
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bang quang và niệu
đạo trong xoang chậu, hai sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung
được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và nhờ vào dây

chằng do các gấp nếp phúc mạc tạo thành.
Các nếp phúc mạc đó chính là do tổ chức dưới phúc mạc( sợi lien kết,
sợi cơ, sợi đàn hồi), tổ chức này ở giữa hai lá của dây chằng.
- Dây chằng rộng: chum lên cả mặt trên và dưới sừng, thân tử cung kéo
đến thành bên chậu hông. Dây chằng rộng ở giữa hai lá phúc mạc nên rất
quan trọng, có nhiều mạch quản và thần kinh.
- Dây chằng tròn: nhỏ, như một gấp nếp kéo từ sừng tử cung đến vùng
bẹn, có nhiều mạch quản và thần kinh.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm hai sừng thong với một
thân và cổ tử cung. Sừng tử cung: Dài 50-100cm hình ruột non, thong với ống
dẫn trứng. Thân tử cung: Dài 3-5 cm. Cổ tử cung: dài 10-18 cm, có thành dầy,
hình trụ, có các cột thịt xếp thaeo kiểu cài răng lược, thong với âm đạo.
Vách tử cung gồm ba lớp từ ngoài vào trong: Lớp tương mạc, lớp cơ trơn
và lớp nội mạc.
- Lớp tương mạc: là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và
nối tiếp vào các hệ thống các dây chằng.
5
- Lớp cơ trơn: Gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài.
Giữa 2 tầng cơ chứa tổ chức lien kết sơi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là
nhiều tĩnh mạch lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi
hướng làm thành mạng vừa dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dầy và khỏe nhất
cơ thể. Do vậy nó có đặc tính co thắt (Đặng Đình Tín, 1986).
Theo Trần Thị Dân (2004), trương lực cơ càng cao (tử cung trở nên
cứng) khi có nhiều oestrogen trong máu và trương lực co giãn (tử cung mềm)
thì có nhiều progesterone trong máu. Vai trò cơ tử cung là góp phần cho sự di
chuyển của tinh trùng và chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài
khi sinh đẻ. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng
của progesterone, nhờ vậy phoi tai có thể bám chắc vào tử cung.
- Lớp nội mạc tử cung: là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp
biểu mô hình trụ xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung.

Nhiều tế bào biểu mô kéo dài thành lông nhung, khi lông nhung rộng thì
gạt chất nhày tiết ra từ phía tử cung. Trên niêm mạc có các gấp nếp.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào long tử cung để
giúp phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di
chuyển đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của oestrogen, các tuyến tử cung
phát triển từ lớp màng nhày xâm nhập vào lớp dưới màng nhày và cuộn lại.
Tuy nhiên các tuyến chỉ đạt khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng của
progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tùy theo giai đoạn của
chu kỳ lên giống.
2.1.4. Âm đạo
Âm đạo có hình ống nối tiếp với tử cung, phía sau ngăn cách với âm hộ
bởi tiền đình âm đạo. Âm đạo là nơi tiếp nhận dương vật con đực khi giao
phối hoặc để cho thai đi ra ngoài khi đẻ.
-Cấu tạo:
6
+ Ngoài là màng tổ chức sợi liên kết.
+Giữa là lớp cơ trơn mỏng hơn cơ tử cung, cơ vòng ở trong, cơ dọc ở
ngoài.
+ Trong cùng là lớp niêm mạc màu hồng nhạt có nhiều gấp nếp dọc.
+Tiền đình âm đạo là phần ngăn cách với âm hộ gồm có:
Gấp nếp màng trinh: là gấp nếp niêm mạc nằm ngang
Lỗ đái là nơi thoát nước tiể ra ngoài.
Hành tiền đình là thể cương cứng nằm hai bên lỗ đái.
Tuyến tiền đình nằm hai bên và phía sau hành tiền đình tiết dịch nhờn đổ
vào âm đạo làm trơn khi giao phối.
2.1.5. Âm hộ
Âm hộ nằm ở dưới hậu môn. Bên ngoài chứa hai môi. Nối liền hai môi
bằng mép. Bờ trên của hai môi có các sắc tố đen, nhiều tuyến chất nhờn màu
trắng và tuyến tiết mồ hôi.
Âm vật

Âm vật của con cái giống như dương vật của con đực tu nhỏ lại, bên
trong có thể hồng. Trên thể hồng có các nếp da tạo ra mu âm vật, ở giữa âm
vật xuống là chỗ tập trung của nhiều đầu mút thần kinh.
Tiền đình
-Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ, nghĩa là qua tiền đình mới vào âm
đạo. Tiền đình bao gồm:
+Màng trinh: là một gấp nếp gồm hai lá, phía trước thong với âm đạo,
phía sau thong với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do hai
lá niêm mạc gấp lại thành một nếp.
+Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
+Hành tiền đình là hai tạng cương ở hai bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống
tể hồng ở bao dương vật của con đực.
7
+Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hang chéo,
huwnowngs quay về âm vật.
2.1.6. Bầu vú
-Thực chất bầu vú là tổ chức tuyến gọi là tuyến vú. Khi cơ thể còn non
thì bầu vú của con đực và con cái như nhau. Sau khi con gia súc cái đến tuổi
trưởng thành do tác dụng của oestrogen kích thích làm cho tuyến vú phát
triển.
Lợn có 8-16 vú.
-Cấu tạo của bầu vú:
+Ngoài là một lớp da mịn, có lông mịn, tiếp đó là tổ chức liên kết đàn
hồi đi vào trong bầu vú và chia ngăn bầu vú ra có tính chất đọc lập.
+Tiếp đó là mô tuyến phân ra thành nhiều chùm, tụ hợp ở các đầu ống
tiết sữa
+Mỗi tuyến vú là tập hợp gồm 10-15 chùm tuyến. Gọi đó là tuyến sữa có
nhiều tế bào chế tiết để tiết sữa. Các ống dẫn được hướng từ tuyến sưa và đổ
vào bể sữa.
+Sưa từ bể sữa theo ống dẫn ở đầu các núm vú và đưa ra ngoài.

+Giữa các thùy tuyến thì có các mô mỡ đệm, đi đến bầu vú thì có dày
đặc các hệ thống mao mạch và thần kinh.
2.2. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH DỤC CỦA LỢN
2.2.1. Chu kỳ tính
Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được
diễn ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát
triển, lớn dần, chín và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graff.
Khi nang Graff vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con
cái có những biểu hiện ra bên ngoài gọi là động dục. Do rụng trứng có tính
chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ.
8
Chu kỳ tính được bắt đầu từ khi lợn đã thành thục về tính, tiếp tục xuất
hiện và chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể già yếu. Nó đã tạo ra hàng loạt các điều
kiện cần thiết để tiến hành giao phối, thụ tinh và phát triển bào thai. Khi gia
súc đã đến tuổi thành thục sẽ có những biểu hiện của tính dục như: cơ quan
sinh dục tăng cường hoạt động, bên trong buồng trứng có quá trình noãn bao
thành thục chín và rụng, niêm dịch trong đường sinh dục cũng phân tiết. Số
lượng trứng rụng trong một lần động dục của lợn thường là 17- 25 quả.
Chu kỳ tính ở những loài khác nhau là khác nhau và ở giai đoạn đầu mới
thành thục về tính thì chu kì chưa ổn định mà phải 2-3 chu kỳ tiếp theo mới
ổn định. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), lợn động dục không theo
mùa, chu kỳ sinh dục của lợn cái dao động trong khoảng từ 18-22 ngày, trung
bình là 21 ngày và được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước động dục, giai
đoạn động dục, giai đoạn sau động dục, giai đoạn yên tĩnh.
- Giai đoạn trước động dục: đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính,
kéo dài 1-2 ngày, là thời gian chuẩn bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái
đón nhận tinh trùng, cũng như đảm bảo các điều kiện cho trứng và tinh trùng
gặp nhau để thụ thai. Trong giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh,
thành thục và nổi rõ trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất
nhanh, đầu giai đoạn này noãn bao có đường kính là 4mm, cuối giai đoạn

noãn bao có đường kính 10-12mm. Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường
sinh trưởng, số lượng lông nhung tăng, đường sinh dục bắt đầu sung huyết
nhanh, hệ thống tuyến, âm đạo tăng tiết dịch nhày, niêm dịch ở cổ tử cung
tăng tiết ra làm cổ tử cung hé mở. Các bao chín, tế bào trứng tách khỏi noãn
bao. Tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở ra niêm dịch chảy nhiều. Con vật
bắt đầu xuất hiện tính dục, âm hộ sưng lên, hơi mở có màu hồng tươi, cuối
giai đoạn có dịch nhờn chảy ra. Do hàm lượng Progesteron giảm xuống đột
9
ngột nên con vật giảm ăn, hay kêu rống, thích nhảy lên lưng con khác nhưng
không cho con khác nhảy lên lưng mình.
- Giai đoạn động dục: đây là giai đoạn gia súc có biểu hiện tính dục và
thường kéo dài từ 2- 3 ngày, tính từ khi tế bào trứng tách khỏi noãn bao. Giai
đoạn này các biến đổi của cơ quan sinh dục rõ nét nhất, niêm mạc âm hộ sung
huyết, phù thũng rõ rệt và chuyển sang màu mận chín. Tử cung hé mở rồi mở
rộng, co bóp mạnh, niêm dịch từ âm đạo chảy ra nhiều, từ trong, loãng chuyển
sang keo dính đặc hơn có tác dụng bôi trơn đường sinh dục và ngăn cản sự
xâm nhập của vi khuẩn. Nhiệt độ âm đạo tăng từ 0,3 - 0,7
o
C, PH hạ hơn trước.
Con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ, đứng ngồi không yên, phá chuồng,
ăn uống giảm, hoặc bỏ ăn, kêu rống trong trạng thái ngẩn ngơ, thích nhảy lên
lưng con khác hoặc để con khác nhảy lên lưng mình. Lúc đầu chưa cho con
đực nhảy lên lưng sau đó đứng yên cho con đực nhảy. Lợn thích gần đực, khi
gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang
một bên, 2 chân sau dạng ra và hơi khụy xuống sẵn sàng chịu đực.
Nếu ở giai đoạn này, tế bào trứng gặp tinh trùng và xảy ra quá trình thụ
tinh tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngừng lại, gia súc cái ở giai đoan có
thai, đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tùy loài gia súc thì chu kỳ sinh
dục mới lại bắt đầu. Nếu không xảy ra quá trình trên thì lợn cái sẽ chuyển
sang giai đoạn tiếp theo của chu kỳ tính.

- Giai đoạn sau động dục: giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, toàn bộ
cơ thể nói chung và cơ quan sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý
bình thường. Trên buồng trứng, thể hồng dần chuyển thành thể vàng, đường
kính lên tới 7-8mm và bắt đầu tiết Progesteron. Progesteron tác động lên vùng
dưới đồi theo cơ chế điều hòa ngược làm giảm tiết Oestrogen, từ đó làm giảm
tính hưng phấn thần kinh, con vật dần chuyển sang trạng thái yên tĩnh, chịu
khó ăn uống hơn, niêm mạc toàn bộ đường sinh dục tăng sinh, các tuyến ở cơ
10
quan sinh dục ngừng tiết dịch, cổ tử cung đóng lại. Hoạt động sinh dục đã
giảm rõ rệt, âm hộ teo dần tái nhạt, không muốn gần con đực, không cho con
khác nhảy lên lưng, lợn ăn uống tốt hơn, con vật dần trở lại trạng thái bình
thường.
- Giai đoạn yên tĩnh: giai đoạn này đặc trưng bởi sự tồn tại của thể vàng,
là giai đoạn dài nhất kéo dài 12-14 ngày, bắt đầu từ ngày thứ 4 sau khi trứng
rụng không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu hủy. Giai đoạn này, thể
vàng thành thục, hoạt động tiết Progesteron, Progesteron ức chế FSH và LH
làm cho noãn bao không chín và rụng từ đó dẫn đến lợn cái hoàn toàn không
có phản xạ với lợn đực, âm hộ teo nhỏ và trắng nhạt, lợn ăn uống bình
thường. Đây là giai đoạn giúp con vật nghỉ ngơi và phục hồi chức năng cơ
quan sinh dục cũng như cơ thể để chuẩn bị cho chu kỳ tiếp theo. Sau đó thể
vàng thoái hóa, giai đoạn tiền động của chu kỳ tiếp theo bắt đầu. Nếu trứng
được thụ tinh thì giai đoạn này được thay thế bằng thời kỳ mang thai và đẻ.
Trong quá trình động dục, nếu trứng được thụ tinh thì thể vàng tồn tại suốt
2/3 thời gian mang thai và tiết ra Progesteron có tác dụng an thai, ức chế quá trình
trứng rụng, kích thích tuyến vú phát triển. Thời kỳ yên tĩnh lúc này chính là giai
đoạn mang thai và thời kỳ sau đẻ. Ở giai đoạn nuôi con dưới tác dụng dưới tác
dụng của Prolacxin, Oxytoxin, Progesteron,… làm cho quá trình rụng trứng bị
đình trệ, hiện tượng động dục không xảy ra. Thường sau khi cai sữa thì chu kỳ
tính dần được khôi phục và xuất hiện trở lại sau cai sữa 4 - 8 ngày.
Chu kỳ động dục của lợn nội trung bình là 18,7 ngày, dao động từ 16-25

ngày. Chu kỳ động dục của lợn lai và lợn ngoại thường dài hơn lợn nái nội.
Trung bình là 21 ngày, thời gian rụng trứng kéo dài 4 - 6h. Các giống khác
nhau thì số lượng trứng rụng cũng khác nhau. Sự khác nhau này là do mức độ
di truyền và nồng độ hormone điều khiển.
11
2.2.2. Sinh lý mang thai và sinh lý đẻ.
Sinh lý mang thai
Chửa là hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó được bắt đầu từ khi
thụ tinh có kết quả đến lúc đẻ xong. Nói cách khác chửa là thời gian mang
thai và phát triển phôi thai trong tử cung gồm hai giai đoạn:
-Giai đoạn phôi thai: Bắt đầu từ lúc thụ tinh và kết thúc vào khoảng 1/3
thời gian chửa. Trong giai đoạn này hình thành ba lá phôi để phân hóa thành
các cơ quan của cơ thể.
-Giai đoạn thai: Bắt đầu từ cuối thời kỳ phôi tới khi đẻ. Đây la thời kỳ
sinh trưởng và phát triển bào thai hoàn chỉnh thành con non.
Thời gian mang thai của lợn là 114 ngày và trong chăn nuôi để thuận lợi
cho việc chăm sóc lợn nái chửa người chăn nuôi đã chia thời gian mang thai
làm hai thời kỳ: Chửa kỳ 1 (84 ngày đầu) và chửa kỳ 2 (30 ngày cuối).
Sinh lý đẻ
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), gia súc cái mang thai trong một
thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới
tác động của hệ thần kinh – thể dịch, con mẹ xuất hiện những cơn rặn để đẩy
bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình này gọi là
quá trình đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có những biểu hiện: trước khi đẻ 1-2 tuần, nút
niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra ngoài.
Trước khi đẻ 1-2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những thay đổi:
âm môn phù to, nhão ra, xung huyết nhẹ, đầu núm to, bầu vú căng to, sữa bắt
đầu tiết.
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia

súc đẻ:
- Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra sữa trong.
12
- Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu.
- Trước khi đẻ 1/2 ngày hàng vú trước vắt được sữa đầu.
- Trước khi đẻ 2-3h, hàng vú sau vắt được sữa đầu.
2.3 BỆNH VIÊM TỬ CUNG
2.3.1. Nguyên nhân
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), viêm tử cung là một quá trình
bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sau đẻ. Quá trình viêm phá hủy các tế bào
tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái
làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (2000), bệnh viêm tử cung ở lợn nái
thường do các nguyên nhân sau:
+ Công tác phối giống không đúng kĩ thuật, nhất là phối giống bằng
phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung và trong quá
trình phối, dụng cụ không được vô trùng có thể làm cho vi khuẩn xâm nhập
vào trong tử cung gây viêm.
+ Đối với lợn nái phối giống trực tiếp, khi sử dụng lợn đực mà cơ quan
sinh dục bị bệnh hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử
cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khỏe.
+ Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng các thủ thuật gây tổn thương niêm
mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
+ Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lí không triệt để dẫn đến viêm tử cung.
+ Viêm bàng quang (bọng đái) do không cho lợn nái uống nước đầy đủ.
Khi lợn nái mang thai, khối thai lớn chèn ép gây ứ đọng nước tiểu trong
bàng quang, tạo điều kiện cho các vi khuẩn sinh sôi, phát triển gây viêm. Đặc
biệt, trường hợp lợn nái uống nước không đầy đủ, hoặc uống nước bẩn thì
viêm bàng quang càng dễ xảy ra. Lúc lợn nái sinh cổ tử cung sẽ mở ra, vi
khuẩn nhanh chóng lọt vào tử cung gây viêm.

13
+ Lợn nái trong thời gian mang thai không được vận động thường
xuyên: khi lợn nái mang thai, khối thai lớn chèn ép sẽ làm giảm nhu động ruột
gây ra tình trạng táo bón. Vi khuẩn trong phân có điều kiện sinh sôi, cùng với
các độc tố trong phân đi xuyên qua thành ruột vào máu, đến tử cung gây
viêm.
+ Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm,
phó thương hàn, bệnh lao … gây viêm
+ Do vệ sinh chuồng đẻ kém, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và
sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ, cổ tử cung mở, vi sinh vật có điều
kiện để xâm nhập vào gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng
nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập trong thời gian động đực (vì lúc đó cổ tử
cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào cổ tử cung theo đường máu và viêm tử
cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Lê Văn Nam và cs,
1997).
Theo F.Madec và C.Neva (1995), bệnh viêm tử cung và các bệnh ở
đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng
phát

triển trong âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một
cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị
chưa

phối nhưng đã bị viêm tử cung.
2.3.2. Hậu quả của bệnh viêm tử cung.
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh
dục của lợn cái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh
hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng phát triển

của lợn con.
14
Đánh giá được hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa
học nghiên cứu về bệnh và đưa ra các nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho
quá

trình chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) và Trần Thị Dân (2004) khi lợn
mắc viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
+ Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co
thắt của cơ tử cung giảm nhờ có tác dụng của progesterone, vì vậy phôi có thể
bám chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung
tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân hủy thể vàng ở buồng
trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co
mạch hoặc thoái hóa các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến
thể vàng. Thể vàng bị phá hủy, không tiết Progesrerone nữa, do đó hàm lượng
progesterone trong máu sẽ giảm đi làm cho tính trương lực co của cơ tử cung
tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
+ Lợn mẹ bị viêm tử cung, thai phát triển kém hoặc thai chết lưu.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng
Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung
giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ
mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
+ Gây ảnh hưởng trên đàn lợn con theo mẹ: lợn không đủ sữa bú, giảm
tăng trưởng và tăng tỷ lệ chết ở lợn con theo mẹ.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt
của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết

kích tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa.
15
Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu
chảy, còi cọc.
+ Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở
lại.
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể
vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone, ức chế thùy trước tuyến yên
tiết ra LH. Do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên
lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được.
Viêm tử cung là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hội chứng M.M.A ở lợn,
ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống
không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ.
Hiên tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là
nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm
bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
Vì vậy từ những hiểu biết về bệnh viêm tử cung, người chăn nuôi có thể
đưa ra những biện pháp phòng bệnh thích hợp để nâng cao năng suất sinh sản
của lợn nái.
2.3.3. Các thể viêm tử cung
Theo Đặng Đình Tín (1986) bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể :
viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
Viêm nội mạc tử cung
Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đằng Phong (2000), sau khi đẻ, nhất là
đẻ khó phải can thiệp hoặc bị sát nhau, niêm mạc tử cung bị xây sát dễ bị vi
trùng xâm nhập, gây ra viêm nội mạc tử cung. Bệnh lao, bệnh sảy thai truyền
nhiễm hoặc phó thương hàn cũng thường gây ra viêm tử cung hoặc viêm nội
mạc tử cung.
16
Viêm cơ tử cung

Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đăng Phong (2009), viêm cơ tử cung
thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung. Niêm mạc tử cung bị thấm dịch
thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị
phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm
lớp cơ của tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng, can thiệp chậm có thể dẫn tới
nhiễm trùng toàn thân.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), gia súc biểu hiện triệu trứng
toàn thân rõ: thân nhiệt lên cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, sản lượng sữa
giảm hay mất hẳn. Con vật kế phát chướng bụng đầy hơi, viêm vú, viêm phúc
mạc gia súc biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục
luôn chảy ra qua ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu lợn cợn mủ và những mảnh tổ
chức thối rữa nên có mùi tanh, thối. Kiểm tra qua âm đạo bằng mỏ vịt thấy cổ
tử cung mở, hỗn dịch chảy ra ngoài nhiều hơn, phản xạ đau của con vật càng
rõ hơn. Khám qua trực tràng thì tử cung to hơn bình thường, hai sừng tử cung
nhỏ không đều nhau, thành tử cung dày và cứng. Khi kích thích lên tử cung,
con vật rất mẫn cảm, đau nên càng rặn mạnh hơn, hỗn dịch trong tử cung thải
ra ngoài nhiều.
Thể viêm này thường ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thụ thai và sinh đẻ
lần sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
Viêm tương mạc tử cung (Perimestritis pueperali)
Viêm tương mạc tử cung là viêm tầng ngoài cùng của tử cung và thường
kế phát từ viêm cơ tử cung. Thể viêm này thường phát triển cấp tính với các
triệu chứng cục bộ và toàn thân rất điển hình. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung
có màu hồng, sau chuyển thành màu đỏ sẫm rồi chở nên sần sùi mất tính trơn
bóng. Các tế bào bị hoại tử, bong ra, dịch thẩm xuất tăng tiết. Trường hợp
viêm nặng, lớp tương mạc dính với các tổ chức xung quanh dẫn tới viêm mô
17
tử cung (parametritis), viêm phúc mạc, thân nhiệt tăng cao, mạch nhanh. Con
vật ủ rũ, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn, lượng sữa
còn rất ít hay mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn bị đau đớn khó

chịu, lưng cong, đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ chảy ra ngoài rất nhiều hỗn
dịch lẫn mủ với nhiều tổ chức hoại tử, màu nâu rỉ sắt, mùi thối khắm. Kiểm
tra qua trực trực tràng thấy thành tử cung dày, hai sừng tử cung mất cân đối,
khi bị kích thích con vật biểu hiện đau rõ rệt, rặn mạnh hơn. Trường hợp một
số vùng của tương mạc dính với các bộ phận xung quanh có thể phát hiện
được vì vị trí và hình dáng của tử cung bị thay đổi. Có khi không tìm thấy một
hoặc cả hai buồng trứng. Viêm tương mạc thường dẫn đến kế phát viêm phúc
mạc, bại huyết, huyết nhiễm mủ.
Trên tiêu bản bệnh lý quan sát thấy: tổn thương bệnh lý chủ yếu của thể
viêm tương mạc tử cung là: tụ máu, chảy máu ở lớp tương mạc, tương mạc
thấm dịch, sưng dày. Một số vùng tế bào bị hoại tử làm cho màng tương mạc
trở nên sần sùi, tương ứng với những nốt loét sần sùi ở ngoài thành tử cung là
những nốt hoại tử sâu trong lòng tử cung.
•Chẩn đoán viêm tử cung.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức
độ

ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái
Để chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung, người ta dựa vào những
triệu chứng cục bộ và toàn thân. Việc chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử
cung có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng những phác đồ điều trị thích
hợp với từng thể viêm, nhằm đạt hiệu quả điều trị cao. Thời gian điều trị
ngắn, chi phí điều trị thấp, đảm bảo khả năng sinh sản cho gia súc cái nói
chung và lợn nái sinh sản nói riêng sau khi khỏi bệnh (Nguyễn Văn Thanh và
cs, 2004).
18
Bảng 2.1 Chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung.
Thể viêm
Triệu trứng
Viêm nội mạc Viêm cơ Viêm tương mạc

Sốt
Sốt nhẹ
(38,5-39,5
o
C)
Sốt cao
(39,5-40,5
o
C)
Sốt rất cao
(40,5-41,5
o
C)
Dịch viêm
Màu trắng xám,
mùi tanh
Màu hồng, mùi
tanh thối
Màu nâu rỉ sắt,
mùi thối khắm
Phản ứng đau Đau nhẹ Đau rõ
Rất đau kèm theo
viêm phúc mạc
Phản ứng co cơ
tử

cung
Phản ứng co
giảm
Phản ứng co


rất
yếu
Phản ứng

co mất
hẳn
2.3.4. Bệnh viêm vú
2.3.4.1. Nguyên nhân
Theo Nguyễn Như Pho (2002), nguyên nhân gây viêm vú hay gặp nhất
là trầy xước vú do sàn hoặc nền chuồng nhám, vi khuẩn xâm nhập vào tuyến
sữa. Hai loại vi khuẩn chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và
Streptococcus agalactiae. Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác gây viêm
vú như:
+ Viêm đường tiểu, viêm thận, viêm bàng quang,viêm tử cung mãn tính
do không điều trị hết hẳn bệnh. Đây là “cái ổ” của những vi khuẩn gây bệnh.
Chỉ cần có sự suy yếu về sức khỏe, hoặc một cơ hội thuận lợi nào đó các vi
khuẩn sẽ nhanh chóng sinh sôi và đi vào máu đến vú gây ra bệnh viêm vú.
+ Số con quá ít không bú hết lượng sữa sản xuất, hoặc do kỹ thuật cạn
sữa không hợp lý trong trường hợp cai sữa sớm.
+ Vệ sinh chuồng trại kém: nếu chuồng trại không được dọn rửa kỹ, nhất
là chỗ thoát phân thì vi khuẩn trong phân, nước tiểu tồn đọng lại sẽ có điều
kiện xâm nhập vào bầu vú qua các ống dẫn sữa hoặc các vết thương.
+ Kế phát từ viêm tử cung nặng, lợn mẹ sát nhau.
19
+ Lợn con khi đẻ ra không được bấm răng nanh, khi bú làm trầy xước da
vú mẹ tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm.
+ Do khẩu phần ăn không cân đối, lợn mẹ ăn quá nhiều thức ăn có hàm
lượng dinh dưỡng cao làm lượng sữa tiết ra nhiều, ứ đọng lại trong vú tạo
điều kiện cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở, phát triển mạnh mẽ về số lượng và

độc lực.
+ Lợn mẹ chỉ cho con bú một hàng vú, hàng còn lại sữa đọng lại nhiều
làm căng tuyến sữa, vi khuẩn xâm nhập phát triển gây viêm.
+ Lợn mẹ không được vận động thường xuyên: khi lợn mẹ mang thai,
khối thai lớn chèn ép sẽ làm giảm nhu động ruột gây ra tình trạng táo bón. Vi
khuẩn trong phân sẽ có điều kiện sinh sôi, cùng với các độc tố gây viêm trong
phân đi xuyên qua thành ruột vào máu, đến vú và gây viêm.
+Stress: lợn mẹ mang thai sắp đến ngày sinh thường hay bị stress. Stress
làm giảm sức khỏe, sức đề kháng của lợn nái chống các vi khuẩn gây bệnh,
tạo cơ hội cho chúng phát triển.
Trong trường hợp bệnh viêm vú chủ yếu xuất hiện trên một vài bầu vú,
các vú khác vẫn tiết sữa bình thường là do tổn thương cơ học tác động lên
hoặc do lợn con bú không hết sữa. Mặt khác nếu toàn bộ bầu vú bị viêm thì
nguyên nhân chỉ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung.
2.3.4.2. Triệu chứng
Biểu hiện rõ nhất tại vú bị viêm với các đặc điểm: bầu vú căng cứng,
nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, vắt những vú sưng
thấy sữa vón cục. Sau 1- 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt
cao

40 - 41,5
O
C.
+ Tùy số lượng vú bị viêm, lợn mẹ sẽ có biểu hiện khác nhau:
20
- Trường hợp 1: vài bầu vú bị viêm, lợn mẹ sốt nhẹ, ăn ít, lượng sữa
giảm.
- Trường hợp 2: nhiều bầu vú bị viêm hoặc toàn bộ vú bị viêm, lợn mẹ
sốt cao, bỏ ăn, nằm sấp không cho con bú.
2.4. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ THUỐC SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI

Để giảm bớt thiệt hại do bệnh viêm tử cung và viêm vú ở lợn nái gây ra
cho người chăn nuôi, nhiều tác giả đã nghiên cứu sử dụng các loại kháng sinh
khác nhau. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng hai loại thuốc
VETRIMOXIN.L.A và MD PENI STREP để điều trị hai bệnh viêm tử cung và
viêm vú.
* VETRIMOXIN.L.A
Thuốc do công ty của Pháp sản xuất.
Thành phần: Trong 1ml dung dịch Vetrimoxin.L.A có 150 mg
Amoxycillin (dạng muối trihydrate)
Cơ chế tác dụng: Amoxicillin là kháng sinh thuộc nhóm β - lactam nên
có cơ chế tác dụng giống với các kháng sinh trong nhóm. Amoxicillin có tác
dụng diệt khuẩn bằng cách ngăn cản sự tổng hợp vách tế bào vi khuẩn, phá vỡ
tình trạng nguyên vẹn của vách tế bào, nó gắn vào enzym ái penicillin tham
gia vào giai đoạn cuối trong tổng hợp vách tế bào vi khuẩn, làm cho sự tạo
thành vách tế bào vi khuẩn không đầy đủ, không ổn định về tính thẩm thấu, tế
bào vi khuẩn thường bị chết do sự tự phân huỷ.
Amoxycillin tác động trên cả vi khuẩn Gram (-) và Gram (+) như: E.coli,
Salmonella, Staphylococcus, Streptococcus, Clostridium, Erysipelothiix
Khi vào cơ thể đông vật, Amoxycillin phân bố rộng và nhanh chóng vào
các mô (Tissue), kể cả những vùng máu ít đến như khớp.
Amoxycillin ít bị biến hoá, nên khi bài thải qua thận vẫn còn ở dạng hoạt
chất.
21

×