ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
GIÁO DỤC THỂ CHẤT 1
1. Tên môn học: Giáo dục thể chất 1 – Học phần bắt buộc (Mã
môn học BAS 102).
2. Số tín chỉ: 01
3. Trình độ cho: Sinh viên năm thứ nhất .
4. Phân bổ thời gian:
Học
phần
Số tín
chỉ
Số
giờ
Thời gian
Lý thuyết Thực hành
Bắt buộc 1 30 4 26
5. Các học phần trước: Không.
6. Học phần thay thế, học phần tương đương:
Học phần này tương đương với học phần Giáo dục thể chất 1
của chương trình 180 tín chỉ.
7. Mục tiêu của học phần:
Trang bị cho sinh viên những kiến thức, kỹ thuật cơ bản của môn
Thể dục và Điền kinh, qua đó giúp sinh viên vận dụng vào tập luyện
và thi đấu để nâng cao sức khoẻ, phát triển các tố chất thể lực. Đồng
thời bồi dưỡng cho sinh viên về mặt phẩm chất, ý chí và tinh thần
đoàn kết, sáng tạo trong học tập và lao động.
8. Mô tả vắn tắt nội dung môn học: (Tất cả đều được thực hiện
ngoài sân).
PHẦN I: THỂ DỤC
A/ Lý thuyết:
+ Mục đích: Trang bị cho sinh viên những kiến thức, hiểu biết về
môn Thể dục: như
+ Vị trí của môn thể dục trong hệ thống Giáo dục Thể chất.
+ Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của môn thể dục cơ bản.
B/ Thực hành:
+ Mục đích: Trang bị cho sinh viên những kỹ thuật, động tác cơ bản
trong môn Thể dục cơ bản, qua đó giúp sinh viên áp dụng vào trong
tập luyện để nâng cao sức khoẻ.
+ Bài thể dục phát triển chung tay không (7 động tác).
+ Các bài tập về đội hình - đội ngũ thông thường.
PHẦN II: ĐIỀN KINH
A/ Lý thuyết:
+ Mục đích: Trang bị cho sinh viên những kiến thức, hiểu biết về
môn Điền kinh như:
+ Khái niệm và cách phân loại môn điền kinh.
+ Sơ lược lịch sử phát triển môn Điền kinh.
+ Ý nghĩa và vị trí môn Điền kinh trong hệ thống Giáo dục thể
chất ở Việt Nam.
+ Nguyên lý kỹ thuật chạy.
B/ Thực hành:
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
+ Mục đích: Trang bị cho sinh viên những kỹ thuật, động tác cơ bản
trong môn Điền kinh nội dung chạy 100m, qua đó giúp sinh viên áp
dụng vào trong tập luyện để nâng cao sức khoẻ.
+ Kỹ thuật chạy cự ly ngắn 100m.
+ Những sai lầm thường mắc và cách sửa.
+ Một số bài tập, trò chơi bổ trợ kỹ thuật, thể lực.
9. Nhiệm vụ của sinh viên:
- Dự lớp > 80% tổng số thời lượng của học phần.
- Trang phục gọn gàng.
- Chuẩn bị và tham gia tập luyện ngoại khóa.
10. Tài liệu học tập:
- Bài giảng môn học Giáo dục thể chất 1 (Thể dục + Điền kinh)
của bộ môn Giáo dục thể chất.
- Giáo trình Thể dục – NXB Thể dục thể thao năm 2007
- Giáo trình Điền kinh – NXB Thể dục thể thao năm 2007.
- Luật thi đấu Điền kinh – NXB Thể dục thể thao năm 2008.
- Các tài liệu có liên quan.
11. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên và thang điểm:
* Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên:
- Chuyên cần.
- Kiểm tra giữa học phần.
- Thi kết thúc học phần.
* Thang điểm:
- Chuyên cần: Dự lớp > 80% tổng số thời lượng của học phần
mới được thi kết thúc học phần.
- Kiểm tra giữa học phần: 20%
- Thi kết thúc học phần: 80%
12. Nội dung chi tiết của học phần:
Lịch trình giảng dạy:
PHẦN I: THỂ DỤC
A/ LÝ THUYẾT
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
1. Vị trí của môn Thể dục trong hệ thống Giáo dục Thể chất.
* Khái niệm: Thể dục là một hệ thống gồm những bài tập được
chọn lọc và thực hiện với những phương pháp khoa học, nhằm giải
quyết nhiệm vụ phát triển thân thể toàn diện, hoàn thiện khả năng vận
động.
Thể dục Thể thao (TDTT) là một bộ phận của nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa, nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành con người mới, có tri
thức, có đạo đức và thẩm mỹ, phát triển hoàn thiện về thể chất.
Trong quá trình phát triển hệ thống giáo dục TDTT đã hình thành
bốn phương tiện riêng biệt: Thể dục, trò chơi, thể thao và du lịch.
Mặc dù khác nhau về sự thực hiện và phương pháp hình thành kỹ
năng vận động, song các phương tiện của TDTT lại thống nhất, hỗ
trợ và bổ sung cho nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ GDTC. Thể
dục được xem như là bộ phận cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong phát triển và hoàn thiện thể chất.
* Nhiệm vụ của thể dục bao gồm:
- Phát triển cân đối thể hình, hoàn thiện các chức năng của cơ thể,
tăng cường sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
- Bổ trợ cho sự hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động cần
thiết trong đời sống và khả năng vận động chuyên môn thể dục.
- Góp phần giáo dục ý chí, phẩm chất đạo đức và thẩm mỹ.
* Ý nghĩa và tác dụng của thể dục:
Môn thể dục có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục ban đầu. Do
nội dung và phương pháp phong phú của thể dục mà nhiệm vụ GDTC
cho lứa tuổi học sinh, sinh viên sẽ được giải quyết một cách có kết
quả, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển cơ thể, cũng như khả năng vận
động.
Thể dục thích hợp với mọi lứa tuổi và giới tính: trẻ em, thiếu
niên, người lớn, nam, nữ, người đã có trình độ tập luyện, người mới
tập, người khỏe, kể cả những người yếu và có bệnh tật.
Nội dung và phương pháp của thể dục rất phong phú, đặc điểm
này làm cho thể dục có ảnh hưởng toàn diện đến việc phát triển cơ
thể người tập, đặc biệt là ảnh hưởng đến sự phát triển có chọn lựa đối
với các bộ phận của cơ thể.
Thể dục có tác dụng rất lớn đến rèn luyện sức khỏe con người, là
biện pháp tích cực có hiệu quả cao để kéo dài tuổi thọ, duy trì khả
năng hoạt động của các cơ quan trong cơ thể. Nhiều nhà khoa học nổi
tiếng như: I.M.Sétsênốp, I.P.Páplốp…đã coi thể dục là phương pháp
tốt nhất để nâng cao khả năng hoạt động bình thường của con người,
nâng cao khả năng làm việc, tăng cường sức khỏe và là biện pháp
nghỉ ngơi tích cực.
Thể dục còn có ý nghĩa thực dụng rất lớn. Tập luyện thể dục sẽ
tiếp thu, củng cố và hoàn thiện những kỹ năng, kỹ xảo vận động cần
thiết trong đời sống như: Đi, chạy, nhảy, ném…và có tác dụng bổ trợ
cho lao động, học tập và chiến đấu. Thể dục không chỉ có tác dụng
phát triển thể lực toàn diện mà còn có tác dụng phát triển thể lực
chuyên môn để đạt đến những thành tích cao trong thể thao. Thể dục
còn có giá trị thẩm mỹ vì bản thân nó là môn vận động luyện hình
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
dáng, rèn tư thế và phát triển cân đối cơ thể, không những thế thể dục
còn thể hiện tính nghệ thuật trong hình tượng và nhịp điệu, phong
thái và khả năng diễn cảm.
Thể dục bao gồm nhiều yếu tố giáo dục và rèn luyện con người
về đạo đức, ý chí, tác phong cũng như về cá tính. Những đức tính ấy
được thể hiện sinh động và thường xuyên thông qua việc thực hiện
các bài tập một cách nghiêm túc, dũng cảm, tỷ mỉ và chính xác, qua
yêu cầu nặp lại động tác nhiều lần, sửa chữa tỷ mỷ các chi tiết động
tác chưa hợp lý và nâng cao chất lượng động tác. Thực hiện được yêu
cầu ấy không thể chỉ dựa vào cảm giác chủ quan mà cần có sự trợ lực
của người hướng dẫn và đồng đội trong việc giúp đỡ và bảo hiểm,
nhờ vậy thể dục giáo dục tình đồng chí, ý thức tập thể.
Thể dục là một môn tiêu biểu cho sự kết hợp giữa trí dục và thể
dục. Quá trình giảng dạy thể dục được đặt trên cơ sở phân tích và
tổng hợp vận động, trong việc giáo dục khả năng chủ động điều khiển
hoạt động của cơ thể và hình thành nhiều mối liên kết vận động mới,
cũng như trong sự phát triển những khả năng vận động sẵn có. Tất cả
những điều đó sẽ kích thích hoạt động trí tuệ của người tập, tăng
thêm tính tích cực của hoạt động chí óc, xúc tiến các quá trình hưng
phấn và ức chế cũng như động viên các chức năng của hệ thần kinh
trung ương.
2. Mục đích – ý nghĩa của thể dục cơ bản.
2.1. Mục đích và nhiệm vụ.
Thể dục cơ bản là những bài tập bao gồm hoạt động của các bộ
phận cơ thể với tốc độ, biên độ, phương hướng và sự dùng sức khác
nhau. Thể dục cơ bản nhằm làm cho cơ thể phát triển toàn diện và
nâng cao năng lực làm việc.
Để đạt được mục đích đó nhưng bài thể dục cơ bản cần được
chọn lựa hợp lý, chính xác và tập luyện một cách khoa học sẽ có tác
dụng toàn diện đối với người tập. Thể dục cơ bản có nhiệm vụ tăng
cường sức khỏe, thúc đẩy sự phát triển bình thường của các cơ quan
và hệ thống; hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động và phát triển các tố
chất thể lực.
2.2. Ý nghĩa:
Thông qua tập luyện thể dục cơ bản, người tập biết điều khiển
hoạt động của mình trong không gian và thời gian, biết thay đổi mức
độ dùng sức, có khả năng phối hợp nhiều vận động khác nhau. Do đó
điều quan trọng là làm sao cho người tập hiểu được thực chất và đặc
điểm của các bài tập.
Nhờ thực hiện các bài tập thể dục cơ bản mà khả năng ghi nhớ và
tư duy về hoạt động vận động được phát triển, đồng thời cũng có tác
dụng tốt tới trạng thái tâm lý của người tập. Thể dục cơ bản còn là
một trong những biện pháp quan trọng để rèn luyện, phát triển các tố
chất thể lực và là bước “quá độ” tiến tới hoạt động thể thao.
Trong quá trình tập luyện thể dục cơ bản sẽ hình thành ở người
tập các kỹ năng, kỹ xảo vận động thực dụng như: đi, chạy, nhảy,…
Những kỹ năng, kỹ xảo vận động trên sẽ làm phong phú khả năng
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
vận động của con người, khi tham gia các hoạt động lao động và sinh
hoạt.
Các nội dung của thể dục cơ bản gồm:
- Các bài tập đội hình, đội ngũ.
- Các bài tập phát triển chung.
- Các bài tập thực dụng.
- Các bài tập treo và chống đơn giản.
- Các bài tập nhào lộn đơn giản.
- Các bài tập nhảy (đơn giản, vượt chướng ngại vật).
2.3. Các bài tập phát triển chung và đội hình, đội ngũ.
* Các bài tập phát triển chung:
Là những động tác thực hiện riêng từng bộ phận hoặc phối hợp
nhiều bộ phận của cơ thể, được sắp xếp theo quy luật nhất định phù
hợp với mục đích lựa chọn. Bài tập phát triển chung có thể làm với
đạo cụ trên dụng cụ hoặc chỉ bằng tay không.
Tác dụng: Nâng cao năng lực vận động chung, uốn nắn cơ thể
hoặc có thể dùng để tạo tác động riêng biệt với bộ phận nào đó của cơ
thể. Kỹ năng của bài tập phát triển chung là cơ sở để tiếp thu các kỹ
thuật cao của các môn thể thao. Sử dụng bài tập phát triển chung dễ
điều chỉnh lượng vận động và dễ thay đổi cấu trúc nên được sử dụng
rộng rãi trong các môn thể thao.
* Bài tập đội hình, đội ngũ.
Đội hình, đội ngũ là một trong những nội dung tập luyện thể dục,
thường được sử dụng trong quân sự và TDTT. Đối với học sinh, sinh
viên còn dùng để rèn luyện những phẩm chất đạo đức, ý chí, kỷ luật,
tác phong nhanh nhẹn tháo vát
Đội ngũ: Là sự sắp xếp vị trí tương quan giữa từng người, từng
tổ, từng đơn vị với nhau trong một tập thể.
Nội dung của đội ngũ bao gồm: Các hình thức tập luyện tại chỗ
và di động với các bài tập kỹ thuật đơn giản. VD: Tập hợp, điều
chỉnh hàng, đi đều,…
Đội hình: Là một tập thể người được sắp xếp theo một hình khối
như vòng tròn, hàng ngang, hàng dọc,…nó cũng chỉ sắp xếp vị trí
tương quan giữa từng người, từng nhóm, tổ, đơn vị trong một tập thể
nhưng có sự di chuyển biến hóa, dãn hàng. VD: Các đội hình vòng
tròn, di chuyển gấp khúc, xoắn ốc,…
Mối quan hệ giữa đội hình và đội ngũ: Đội hình, đội ngũ có
mối quan hệ rất chặt chẽ. Trong đội ngũ có những nhân tố của đội
hình và ngược lại, nhưng không có đội ngũ thì không có đội hình.
Đội ngũ là hình thức tập luyện đội hình, đội hình có nhiều hình thức
tập luyện phong phú, biến hóa.
* Ý nghĩa của tập luyện đội hình, đội ngũ:
- Nhằm rèn luyện ý thức tập thể, hợp đồng, ý thức tổ chức kỷ luật
- Tạo tư thế đúng, đẹp và tác phong nhanh nhẹn hoạt bát.
- Giúp cho việc tổ chức học tập và luyện tập các môn thể thao,
bồi dưỡng những kỹ thuật, chiến thuật, thể lực cần thiết trong chiến
đấu, đồng thời là hình thức tổ chức, tập hợp quần chúng, biểu dương
lực lượng.
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
B/ THỰC HÀNH
1. Bài thể dục phát triển chung tay không: 7 động tác.
* Động tác Vươn thở:
TTCB (Tư thế chuẩn bị): Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Chân trái bước sang ngang rộng bằng vai, đưa 2 tay
lên cao, chếch chữ V, lòng bàn tay hướng vào nhau, ngực ưỡn, đầu
ngửa. Hít vào từ từ.
+ Nhịp 2: 2 tay đưa xuống dưới và bắt chéo nhau trước bụng,
đầu cúi. Thở từ từ ra.
+ Nhịp 3: Như nhịp 1. Hít vào từ từ.
+ Nhịp 4: Trở về TTCB. Thở ra từ từ.
+ Nhịp 5, 6, 7, 8: Như nhịp 1, 2, 3, 4 nhưng đổi chân.
* Động tác Tay:
TTCB: Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Chân trái bước sang ngang, trọng tâm dồn đều vào 2
chân; 2 tay dang ngang, lòng bàn tay ngửa, mắt nhìn thẳng. Hít vào
+ Nhịp 2: 2 tay gập trước ngực đồng thời giật về sau, lòng bàn
tay sấp, khuỷu tay ngang vai.
+ Nhịp 3: Trở về nhịp 1. Thở ra.
+ Nhịp 4: Trở về TTCB.
+ Nhịp 5, 6, 7, 8: Như nhịp 1, 2, 3, 4 nhưng đổi chân.
* Động tác Lườn:
TTCB: Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Chân trái bước sang ngang rộng bằng vai, trọng tâm
dồn đều vào 2 chân; 2 tay dang ngang, lòng bàn tay ngửa.
+ Nhịp 2: Trọng tâm dồn sang chân phải, nghiêng người sang
trái, tay chống hông, tay phải đưa lên cao áp sát tai, chân trái kiễng
gót. Hít vào.
+ Nhip 3: Như nhịp 1.
+ Nhịp 4: Trở về TTCB. Thở ra.
+ Nhịp 5, 6, 7, 8: Như nhịp 1, 2, 3, 4 nhưng đổi bên.
* Động tác Vặn mình.
TTCB: Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Chân trái bước sang ngang rộng bằng vai, 2 tay đưa ra
trước, long bàn tay sấp.
+ Nhịp 2: Vặn mình sang trái, tay trái vung rộng hết biên độ
sang ngang – ra sau, bàn tay ngửa; tay phải gập trước ngực, bàn tay
sấp. Mắt nhìn theo bàn tay trái. Hít vào.
+ Nhịp 3: Như nhịp 1.
+ Nhịp 4: Trở về TTCB. Thở ra.
+ Nhịp 5, 6, 7, 8: Như nhịp 1, 2, 3, 4 nhưng đổi bên.
* Động tác Chân:
TTCB: Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Chân trái đưa ra sau, đồng thời 2 tay dang ngang, mắt
nhìn thẳng. Hít vào.
+ Nhịp 2: Chân trái đá ra trước, đồng thời 2 tay đưa ra trước,
lòng bàn tay úp, mắt nhìn theo tay. Thở ra.
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
+ Nhịp 3: Như nhịp 1. Hít vào.
+ Nhịp 4: Trở về TTCB. Thở ra.
+ Nhịp 5, 6, 7, 8: Như nhịp 1, 2, 3, 4 nhưng đổi bên.
* Động tác Gập thân:
TTCB: Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Chân trái bước sang ngang rộng bằng vai, 2 tay dang
ngang. Hít vào.
+ Nhịp 2: Gập người nghiêng về phía trước, bàn tay phải vươn
chạm cổ chân trái, tay trái đưa ra phía sau lên cao. Thở ra.
+ Nhịp 3: Vươn người lên trở về nhịp 1. Hít vào.
+ Nhịp 4: Trở về TTCB. Thở ra.
+ Nhịp 5, 6, 7, 8: Như nhịp 1, 2, 3, 4 nhưng đổi bên.
* Động tác Nhảy:
TTCB: Đứng nghiêm.
+ Nhịp 1: Bật thẳng lên cao và đứng giạng chân, tay dang
ngang. Hít vào nhanh.
+ Nhịp 2: Bật thẳng lên cao và đứng chụm chân, hạ tay xuống
sát người. Thở ra nhanh.
+ Các nhịp tiếp theo lặp lại như nhịp 1, 2 cho đến hết 8 nhịp.
2. Bài tập Đội hình – Đội ngũ thông thường:
2.1 Những bài tập đội ngũ: Đội ngũ tại chỗ và di chuyển
* Tập hợp 1 hay nhiều hàng ngang:
+ Khẩu lệnh: “Thành 1, 2, 3… hàng ngang – tập hợp”
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Sau khi chọn được vị trí, phương hướng
thích hợp, người chỉ huy quay về phía người tập phát khẩu lệnh.
Đứng vào vị trí đã chọn, tay phải nắm hờ, giơ cao.
Nghe khẩu lệnh, tất cả người tập nhanh chóng di chuyển và
đứng về phía tay trái cùng hướng với người chỉ huy, theo thứ tự, dãn
cách nhau một nắm tay (15cm) giữa khuỷu tay hai người đối với đội
hình bình thường.
Sau khi người thứ nhất đã đứng đúng vị trí yêu cầu, người chỉ
huy hạ tay xuống và bước ra chỉ huy.
Khi tập hợp từ hai hàng ngang trở lên thì các hàng thứ 2, thứ 3,
…đứng tiếp sau hàng thứ nhất với cự ly một cánh tay (từ 75-80cm).
Người đầu hàng sau, đứng sau người thứ nhất hàng trước đó.
* Tập hợp 1 hay nhiều hàng dọc:
+ Khẩu lệnh: “Thành 1, 2, 3… hàng dọc – tập hợp”
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Sau khi chọn được vị trí, phương hướng
thích hợp, người chỉ huy quay về phía người tập phát khẩu lệnh.
Người tập nhận lệnh xong nhanh chóng di chuyển về đứng sau
người chỉ huy thành một hàng dọc, theo thứ tự với cự ly một cánh tay
Khi tập hợp 2, 3,…hàng dọc, người chỉ huy luôn đứng đầu hàng
bên phải, những người đầu hàng thứ 2, thứ 3,…đứng ngang bên trái
cùng hướng với người số 1 hàng trước đó. Với giãn cách một nắm tay
* Động tác nghiêm.
+ Khẩu lệnh: “Nghiêm”
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Người tập đang đứng trong đội ngũ, nghe
khẩu lệnh “Nghiêm” của người chỉ huy, người tập lập tức chụm hai
gót chân sát nhau trên một đường thẳng ngang (trục phải-trái). Hai
bàn chân mở rộng khoảng 60
0
. Trọng tâm dồn đều vào hai chân, bụng
hơi hóp lại, hai vai ngang và hơi kéo về sau (ngực mở), tay duỗi sát
sườn, ngón tay khép, mắt nhìn thẳng về trước. Toàn thân có độ căng
cơ nhất định.
* Động tác nghỉ:
+ Khẩu lệnh: “Nghỉ”
+ Yếu lĩnh kỹ thuật:
- Tư thế thứ nhất (dùng trong đội hình bình thường). Đứng thoải
mái, trọng tâm dồn vào một chân, chân kia thả lỏng và hơi trùng khớp
gối. Thân trên vẫn giữ thảng, khi mỏi có thể đổi chân.
- Tư thế thứ hai (dùng cho đội hình giãn rộng) chân trái bước
qua trái một bước, đứng thoải mái, trọng tâm dồn đều vào hai chân.
Hai bàn tay nắm lấy nhau ở phía sau lưng.
* Động tác dóng hàng ngang:
+ Khẩu lệnh: “Nhìn phải – thẳng”.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Khi nghe động lệnh người đầu hàng đứng
nghiêm. Tất cả những người bên trái quay đầu sang phải 45
0
, liếc
nhìn và điều chỉnh hàng ngang cho thẳng và đùng giãn cách. Người
chỉ huy kiểm tra, chỉnh hàng xong và hạ khểu lệnh “Thôi” mới quay
mặt về tư thế đứng nghiêm như ban đầu.
* Động tác dóng hàng dọc:
+ Khẩu lệnh: “Nhìn trước – thẳng”.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Nghe động lệnh người đứng đầu vẫn đứng
nghiêm, những người đứng sau nhanh chóng điều chỉnh hàng, mắt
nhìn thẳng vào gáy người đứng trước, đảm bảo đúng cự ly quy định.
Người chỉ huy kiểm tra, chỉnh hàng xong và hạ khểu lệnh “Thôi”
trong hàng trở về tư thế đứng nghiêm như ban đầu.
* Động tác điểm số:
Tùy theo mục đích, yêu cầu bài tập mà điểm số hàng ngang hay
hàng dọc cho phù hợp.
+ Điểm số hàng ngang:
- Khẩu lệnh: “Từ trái qua phải (hoặc phải qua trái) – điểm số”.
- Yếu lĩnh kỹ thuật: Khi nghe khẩu lệnh người tập lần lượt hô to,
rõ số của vị trí mình đang đứng, đồng thời quay đầu sang trái (phải)
về phía người đứng bên cạnh. Sau đó quay về tư thế đứng nghiêm.
Người tiếp theo cũng thực hiện như vậy để báo số của mình. Người
cuối cùng báo số không phải quay đầu mà phải hô tiếp “hết” để báo
cho chỉ huy biết điểm số đã xong.
+ Điểm số hàng dọc:
- Khẩu lệnh: “Từ trên xuống dưới - điểm số”.
- Yếu lĩnh kỹ thuật: Khi nghe khẩu lệnh người tập lần lượt từ
trên xuống dưới hô to, rõ số của vị trí mình đang đứng, đồng thời
quay đầu qua phải hướng về người đứng sau để báo cho họ biết, sau
đó quay về tư thế đứng nghiêm. Người tiếp sau cũng thực hiện như
vậy để báo số của mình. Người cuối cùng báo số vị trí của mình
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
không phải quay đầu mà phải hô tiếp “hết” để báo cho chỉ huy biết
toàn hàng đã điểm số đã xong.
* Động tác quay phải (trái).
+ Khẩu lệnh: “Bên phải (trái) – quay”.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Nghe động lệnh người tập chuyển trọng tâm
sang chân phải (trái) dùng gót làm trụ. Phối hợp với nửa trước bàn
chân trái (phải) đẩy toàn thân quay phải (trái) 90
0
thân trên vẫn giữ
thẳng (nhịp 1). Sau đó thu chân trái (phải) về đặt sát chân phải (trái)
thành tư thế đứng nghiêm (nhip 2).
* Quay đằng sau:
+ Khẩu lệnh: “Đằng sau – quay”.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Như động tác quay phải nhưng thực hiện
với góc quay 180
0
.
* Động tác báo cáo của người chỉ huy:
+ Khẩu lệnh: Khẩu lệnh của người chỉ huy dài hay ngắn tùy
theo mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể nhưng cần phải đầy đủ,
không dài dòng.
VD: “Báo cáo giáo viên lớp I
2,
tổng số 49 người, có mặt 45,
vắng 4, đã đến giờ, mời giáo viên lên lớp. Báo cáo hết.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Sau khi đơn vị tập hợp, người chỉ huy dóng
hàng, đi kiểm tra, chỉnh hàng xong cho người tập về tư thế đứng
nghiêm bằng khẩu lệnh “thôi”.
Tiếp theo người chỉ huy đi hoặc chạy đều (trường hợp đội hình
lớn, đứng xa giáo viên) đến trước mặt giáo viên với cự ly thích hợp
để báo cáo. Báo cáo xong được lệnh của giáo viên chỉ huy mới quay
về đứng cạnh bên phải người đầu hàng thứ nhất.
* Động tác dậm chân tại chỗ:
+ Khẩu lệnh: “Dậm chân tại chỗ - bước”.
+ Yêu lĩnh kỹ thuật: Nghe động lệnh, người tập nhấc chân trái
lên cách mặt đất khoảng 20cm, rồi hạ xuống vị trí lúc đầu bằng nửa
trước bàn chân (vào nhịp 1) rồi đặt tiếp gót chân xuống. Sau đó
chuyển trọng tâm sang chân trái và nhấc chân phải lên, đặt xuống như
chân trái (vào nhịp 2).
Cứ như vậy lần lượt từng chân một, thực hiện nối tiếp nhau,
thân người vẫn thẳng, giữ nguyên vị trí, hai tay phối hợp năng tự
nhiên.
* Động tác đi đều thể thao:
+ Khẩu lệnh: “Đi đều – bước”.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Bước đi theo nhịp thống nhất do chỉ huy hô
hoặc nhịp nhạc 2/4. Dứt động lệnh người tập bước chân trái trước vào
nhịp 1.
- Chân nhấc cao hơn mặt đất từ 15-20cm.
- Trước khi đặt chân khớp gối duỗi thẳng.
- Đặt từ gót tới cả bàn chân.
- Biên độ từ 60-70cm (tính giữa hai gót người trước và sau).
- Tần số bước từ 110-120 nhịp/phút.
- Ngực căng, mắt nhìn thẳng phía trước.
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
- Khi đánh ra trước, cánh tay vuông góc với thân, cẳng tay
vuông góc với cánh tay, cao gần ngang vai, bàn tay nắm hờ hướng
xuống dưới.
- Tay đánh ra sau duỗi thẳng gần sát thân, bàn tay nắm hờ
hướng vào thân, hai vai thả lỏng.
* Động tác đứng lại:
+ Khẩu lệnh: “Đứng lại – đứng”.
+ Yêu lĩnh kỹ thuật: Động lệnh “Đứng” rơi vào nhịp 2 chân
phải. Nghe động lệnh người tập bước chân lên một bước (nhịp 1),
trọng tâm dồn vào chân trái, chân phải thu về ngang sát với chân trái
(nhịp 2). Cử động của tay cũng dừng lại theo cử động của chân và kết
thúc động tác ở tư thế đứng nghiêm.
Đứng lại trong dậm chân tại chỗ cũng được thực hiện tương tự.
* Động tác đổi chân tại chỗ khi đang đi đều:
Trong đi đều nếu bị nhầm nhịp: Chân trái bước vào nhịp 2,
người tập phải tự đổi chân.
+ Yếu lĩnh kỹ thuật: Chân sau bước lên một bước nhỏ sát gót
chân trước, nhanh chóng bước chân trước lên trước một bước (tiến
hành 2 bước đó trong một nhịp) rồi tiếp tục các bước theo nhịp bình
thường.
Khi đổi chân, hoạt động của tay ngừng đánh một nhịp.
2.2 Những bài tập đội hình:
* Dàn hàng:
+ Khẩu lệnh: “A làm chuẩn – dãn cách một cánh tay – dãn ra”
+ Cách thực hiện: Nghe khẩu lệnh, người làm chuẩn tay phải nắm hờ
và giơ cao cho mọi người nhìn thấy và hô “có”. Sau đó tất cả cùng
dang ngang hai tay sao cho đầu ngón tay các thành viên trong hàng
gần chạm nhau (đối với hàng ngang) khi nào chỉ huy hô “thôi” mới
bỏ tay xuống.
Trường hợp hàng dọc khẩu lệnh sẽ là: “A làm chuẩn – cự ly một
dang tay – dãn ra”.
+ Cách thực hiện: Nghe khẩu lệnh toàn hàng quay sang phải 90
0
và thực hiện dàn hàng như trường hợp đối với hàng ngang. Đến khi
nghe hô “thôi” mới bỏ tay xuống và quay về hướng cũ.
Chú ý: hàng ngang di chuyển theo bước dồn.
Trường hợp nhiều hàng ngang thì hàng ngang có người làm
chuẩn dàn hàng trước. Sau đó hàng dọc có người làm chuẩn thực hiện
dàn hàng như đối với hàng dọc.
Tất cả những người ở các hàng sau lấy hàng dọc và ngang có
người làm chuẩn để điều chỉnh hàng của mình.
* Dồn hàng:
+ Khẩu lệnh: “A làm chuẩn – tất cả dồn lại”.
+ Cách thực hiện: A đứng nghiêm, tay phải nắm hờ, giơ cao và
hô “có” để mọi người biết hướng và tự động dồn hàng lại về hướng
người làm chuẩn. Phải đảm bảo hàng ngũ và cự ly giãn cách.
* Đội hình 4 – 2 – 0.
- Khẩu lệnh thứ nhất: “Từ phải qua trái 4 – 2 – 0 – điểm số”.
Hàng ngang điểm số song, chỉ huy hạ tiếp khẩu lệnh thứ hai:
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
“Theo số đã điểm đi đều - bước”.
+ Cách thực hiện: Nghe động lệnh “ bước” tất cả đi thẳng về
phía trước với số bước bằng đúng số mình đã điểm. (số 4 đi bốn
bước, số 2 đi hai bước, số 0 đứng yên). Sau khi bước đủ số bước của
mình, các số thực hiện một nhịp thu chân, điều chỉnh hàng ngang và
đứng nghiêm.
Chú ý: Bước chân trái trước, tổng số nhịp của triển khai đội
hình là 5 nhịp.
* Dồn hàng của đội hình 4 – 2 – 0:
+ Khẩu lệnh: “Về vị trí cũ – bước”.
+ Các bước thực hiện: Nghe dự lệnh “về vị trí cũ” các số đã tiến
(trừ số 0) cùng quay 180
0
(không thu chân trái), dứt động lệnh “bước”
các số trên tiến về vị trí cũ với số bước như đã tiến lên. Khi gót chân
ngang với những người hàng số “0” thực hiện một nhịp thu chân về
đứng nghiêm, sau đó thực hiện động tác quay sau.
* Đội hình 9-6-3-0: Cách biến hóa giống đội hình 4 – 2 – 0.
PHẦN 2: ĐIỀN KINH
A/ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm và phân loại môn Điền kinh:
1.1. Khái niệm:
Điền kinh là một môn thể thao bao gồm các nội dung: Đi bộ,
Chạy, Nhảy, Ném đẩy và nhiều môn phối hợp.
Điền kinh, từ chính thức được dùng ở nước ta, thực chất là một
từ Hán - Việt được dùng để biểu thị những hoạt động tập luyện và thi
đấu ở trên sân (Điền) và trên đường chạy (Kinh). Nó có ý nghĩa
tương ứng với từ Aletic trong tiếng Hy Lạp cổ, Athnetics trong tiếng
anh. Một số nước trên Thế giới (Nga, Bungari…) còn dùng từ “Điền
kinh nhẹ” để phân biệt với môn Cử tạ “Điền kinh nặng”.
1.2. Phân loại:
Điền kinh là một môn Thể thao có nội dung rất phong phú, đa
dạng. Để tiện cho việc giảng dạy, …người ta phân loại Điền kinh
theo hai cách chủ yếu sau.
* Cách 1: Phân loại theo nội dung:
Điền kinh được chia thành 5 nội dung chính, gồm: Đi bộ - Chạy
– Nhảy – Ném đẩy – Nhiều môn phối hợp.
* Cách 2: Phân loại theo tính chất hoạt động:
- Có chu kỳ ( đi bộ và chạy ).
- Không có chu kỳ (ném đẩy, nhảy, nhiều môn phối hợp).
Trong mỗi nội dung có rất nhiều các môn cụ thể được phân biệt
theo cự ly hoặc theo đặc điểm vận động.
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
2. Sơ lược lịch sử phát triển môn Điền kinh.
2.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển môn Điền kinh.
Đi bộ, chạy, nhảy và ném đẩy là những hoạt động tự nhiên của
con người. Những hoạt động này ngày càng được hoàn thiện cùng
với sự phát triển của xã hội loài người. Từ những hoạt động với mục
đích di chuyển, tìm kiếm thức ăn, tự vệ và phòng chống thiên tai, dần
dần hình thành các trò chơi vận động, các cuộc thi đấu và nó đã thu
hút mọi người tham gia tập luyện.
Lịch sử phát triển của môn Điền kinh được ghi nhận trong cuộc
thi đấu chính thức vào năm 776 trước Công Nguyên. Năm 1837 tại
thành phố Legbi (Anh) cuộc thi đấu 2km lần đầu tiên được tổ chức.
Từ năm 1851 các môn chạy tốc độ, chạy vượt chướng ngại vật, nhảy
cao, nhảy xa, ném vật nặng bắt đầu được đưa vào chương trình thi
đấu ở các trường đại học ở nước Anh.
Năm 1880, Liên đoàn Điền kinh nghiệp dư nước Anh ra đời. Đây
là liên đoàn Điền kinh nghiệp dư đầu tiên trên Thế giới. Từ năm 1880
đến 1890 môn Điền kinh phát triển mạnh ở nhiều nước như: Pháp,
Mỹ, Đức, Na Uy, Thụy Điển và các liên đoàn Điền kinh quốc gia lần
lượt được thành lập ở hầu hết các châu lục.
Từ năm 1896 việc khôi phục các cuộc thi đấu truyền thống của
đại hội thể thao Olympic đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong
việc phát triển môn Điền kinh.
Từ Đại hội thể thao Olympic Aten (Hy lạp 1896) Điền kinh đã
trở thành nội dung chủ yếu trong chương trình thi đấu tại các đại hội
thể thao Olympic. Năm 1912 Liên đoàn Điền kinh nghiệp dư quốc tế
IAAF ra đời. Đây là tổ chức cao nhất lãnh đạo phong trào Điền kinh
toàn thế giới. Hiện nay Liên đoàn Điền kinh nghiệp dư quốc tế đã
được đổi tên thành Hiệp hội quốc tế các liên đoàn Điền kinh và vẫn là
IAAF. IAAF hiện nay có 209 thành viên là các liên đoàn Điền kinh
quốc gia và các vùng lãnh thổ ở các Châu lục, trong đó có liên đoàn
Điền kinh Việt Nam. Hiện nay trụ sở của IAAF đặt tại MONACO.
2.2. Vài nét về Điền kinh Việt Nam.
Trong lịc sử hàng ngàn năm đấu tranh sinh tồn, dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, tổ tiên của chúng ta đã rất quen thuộc
với các hoạt động đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy. Động lực phát triển
môn Điền kinh đã tiềm ẩn trong lịch sử sinh tồn, dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
Trong thời gian dài thực dân Pháp đô hộ nước ta, môn Điền kinh
phát triển rất chậm và yếu ở cả Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Thành
tích thi đấu còn rất thấp như: Chạy 100m Nam: 11,33 giây, chạy
1500m Nam: 4 phút 56 giây, đẩy tạ Nam: 10,45 mét. Từ năm 1945 –
1954 các hoạt động đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy như một động lực
phát triển môn Điền kinh trong tương lai, lại được vận dụng nhiều
trong chiến tranh giữ nước.
Từ 10/1954 đến 5/1975 ở Miền nam nước ta môn Điền kinh vẫn
được phát triển, tuy tốc độ chậm và ít được chú trọng như môn Bóng
đá, Tenis…Tuy vậy so với thời kỳ Pháp đô hộ nước ta, nội dung thi
đấu Điền kinh đã phong phú hơn, bao gồm hầu hết các môn thi đấu
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
quy định trong đại hội thể thao Olympic quốc tế. Ở thời kỳ này, miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, Đảng và Chính phủ ta rất quan tâm phát triển
thể dục thể thao. Phong trào tập luyện môn Điền kinh trong nhân dân
được phát triển tương đối rộng rãi. Các phong trào “chạy, nhảy, bơi,
bắn, võ”, “ Rèn luyện chạy vì miền Nam ruột thịt”….Được nhân dân
hưởng ứng không phải chỉ để tăng cường sức khỏe, mà còn để tăng
cường ý chí chiến đấu chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Ở miền
Bắc nước ta đã thành lập Đội tuyển Điền kinh quốc gia “chuyên
nghiệp” ( có bậc lương nhà nước và các tiêu chuẩn khác) tại “Trường
huấn luyện kỹ thuật thể thao Trung ương” (Nay là trung tâm huấn
luyện thể thao quốc gia 1). Ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lạng
Sơn, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Ninh và nhiều tỉnh thành khác
đều có đội tuyển Điền kinh “chuyên nghiệp”. Một số ngành như
Quân đội, Đường Sắt … cũng có những vận động viên “chuyên
nghiệp” Điền kinh. Hầu hết các đội Điền kinh đều quan tâm đào tạo
vận động viên trẻ kế cận. Chính vì vậy, từ khoảng 1959 – 1969 hàng
năm đều có từ 3-5 cuộc thi đấu Điền kinh của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Thành tích các môn Điền kinh có trong chương trình
thi đấu của đại hội thể thao Olympic quốc tế đều được nâng lên rõ rệt
trong giai đoạn này, hơn hẳn các giai đoạn trước đây và hơn thành
tích ở miền Nam dưới chính quyền cũ. Điền kinh được đưa vào
chương trình giảng dạy thể dục thể thao ở các trường học như một
nội dung giáo dục quan trọng. Điền kinh là một trong những nội dung
chủ yếu trong chương trình đạo tạo ở các trường Đại học, Cao đẳng
và Trung cấp thể dục thể thao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ 5/1975
đến nay, trong điều kiện đất nước hòa bình, độc lập môn Điền kinh
được tiếp tục phát phiển mạnh hơn so với các giai đoạn trước đây.
Chương trình giáo dục thể dục thể thao nói chung và môn Điền kinh
nói riêng đã được cải tiến trong các trường học và Điền kinh Việt
Nam đã mở rộng giao lưu, thi đấu với các nước trong khu vực Đông
Nam Á, Châu Á và Thế giới và đã đạt được những thành tích đáng
khích lệ.
2.3. Một số kỷ lục ở nội dung chạy cự ly ngắn 100m của Thế
giới, Châu Á và Việt Nam.
* Kỷ lục Thế giới nam: 9”58 của vận động viên Usam Bold người
Jamaica.
* Kỷ lục Thế giới nữ: 10”49 của vận động viên Joyner người Mỹ.
* Kỷ lục Thế vận hội nam: 9”58 của vận động viên Usam Bold người
Jamaica.
* Kỷ lục châu Á nam: 9”99 của vận động viên Francis người Qatar
* Kỷ lục châu Á nữ: 10”79 của vận động viên Lixuemei người Trung
Quốc.
* Kỷ lục Á vận hội nam: 10”00 của vận động viên Koji Ito người
Nhật.
* Kỷ lục Việt Nam nam: 10”45 của vận động viên Nguyễn Văn
Huynh thuộc đoàn Quân Đội.
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
* Kỷ lục Việt Nam nữ: 11”33 của vận động viên Vũ Thị Hương thuộc
đoàn Thái Nguyên (nay thuộc đoàn An Giang) đồng thời Vũ Thị
Hương cũng giữ luôn kỷ lục Seagames với thành tích 11”34.
3. Ý nghĩa và vị trí môn Điền kinh trong hệ thống Giáo dục thể
chất ở Việt Nam.
Tập luyện Điền kinh một cách có hệ thống và khoa học từ lâu đã
được các nhà khoa học khẳng định là có tác dụng tốt trong việc tăng
cường và củng cố sức khỏe cho con người. Một người đi bộ hoặc
chạy thường xuyên, tim co bóp khỏe hơn, thành mạch co giãn tốt
hơn, hô hấp sâu hơn người không tập luyện một cách rõ rệt. Các bài
tập Điền kinh chẳng những có tác dụng tốt đối với sức khỏe mà còn
là cơ sở để phát triển thể lực toàn diện, tạo điều kiện để nâng cao
thành tích các môn thể thao khác.
Điền kinh là một trong những môn thể thao cơ bản của nước ta.
Điền kinh giữ vị trí chủ yếu trong chương trình giáo dục thể chất ở
trường học, trong chương trình huấn luyện thể lực cho lực lượng vũ
trang nhân dân và trong chương trình thể thao cho mọi người.
Liên đoàn điền kinh Việt Nam (Tiền thân là Hội điền kinh Việt
Nam được thành lập năm 1962) là tổ chức chỉ đạo phong trào điền
kinh của cả nước. Liên đoàn Điền kinh Việt Nam cũng là thành viên
của liên đoàn Điền kinh Châu Á và Hiệp hội quốc tế các Liên đoàn
Điền kinh (IAAF).
4. Nguyên lý kỹ thuật chạy:
Tuy cùng trong nhóm “chạy”, nhưng kĩ thuật chạy trong điền
kinh rất đa dạng, để đảm bảo tính thực tiễn, ở đây chỉ đi sâu giới
thiệu những vấn đề chung nhất và sát với chương trình môn học –
chủ yếu là chạy ở các cự li trên đường bằng phẳng, không có chướng
ngại vật.
Phân tích một chu kỳ trong chạy: Dù chạy với bất kì tốc độ nào
và ở cự li nào đều là việc lặp lại các chu kì gồm 2 bước đơn. Thí dụ ở
hình 1: Chu kì được bắt đầu từ khi chân trái chạm đất rồi chân phải
chạm đất (bước 1) rồi chân trái lại chạm đất (bước 2) – kết thúc một
chu kì. Trong mỗi chu kì như vậy chúng ta thấy có 2 lần cơ thể hoàn
toàn bay trên không (không có bộ phận nào của cơ thể chạm đất) và
có 2 lần cơ thể chạm đất bằng một chân (mỗi chân 1 lần).
Các giai đoạn trong một chu kỳ chạy
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
Khác với chạy, trong chu kỳ đi bộ cơ thể không có lúc nào được
bay trên không - luôn có một hoặc hai chân chạm đất (trong thi đấu đi
bộ thể thao, nếu VĐV có lúc không chạm đất sẽ bị trọng tài nhắc nhở,
nếu bị nhắc tới lần thứ ba sẽ bị truất quyền thi đấu).
Như vậy, nếu trong di bộ, cơ thể chạm đất liên tục và luân phiên
chạm đất bằng một chân rồi hai chân, thì trong chạy từng chân luân
phiên chạm đất, cơ thể lần lượt bay trên không rồi chạm đất bằng một
chân. Nếu trong các chu kỳ chạy chỉ có chống đơn thì trong các chu
kỳ đi bộ có cả chống đơn và chống kép.
4.1. Hoạt động của các bộ phận cơ thể trong 1 chu kì chạy
a) Hoạt động của chân:
Hoạt động của chân liên quan trực tiếp tới hiệu quả di chuyển
khi đi và chạy. Hoạt động của hai chân là như nhau và luân phiên. Do
vậy chỉ phân tích hoạt động của một chân là đủ. Khi chạy mỗi chân
luân phiên chống và đưa lăng
(khi cả hai chân cùng ở trên
không thì cơ thể bay). Khi
chân chống trên mặt đất lại
gồm: chống trước – thẳng
đứng và đạp sau – tuỳ theo vị
trí của điểm đặt chân với
điểm dọi của TTCT để xác định các tình huống trên.
- Chống trước: Chống trước được bắt đầu từ khi chân phía trước
chạm đất, là khi điểm đặt chân còn ở phía trước điểm dọi của TTCT.
Khoảng cách giữa 2 điểm đó càng xa, lực cản do chống trước càng
lớn, thời gian chuyển từ chống trước qua thẳng đứng để sang đạp sau
càng lâu, làm cho tốc độ chạy giảm.
Tốc độ chạy càng lớn thì thời gian để vượt qua giai đoạn đó cũng
càng nhanh, hạn chế được tác hại của lực cản do chống trước. Vì vậy
khi chạy không nên cố với chân về trước mà nên chủ động đặt chân
gần điểm dọi của TTCT (khi tập nhiều động tác bổ trợ chuyên môn
chạy việc yêu cầu có động tác miết bàn chân từ trước ra sau khi chạy
bước nhỏ hay khi chạy đạp sau… cũng là nhằm mục đích tạo thói
quen chủ động đưa bàn chân về gần điểm dọi của TTCT).
Sau khi chạm đất có động tác hoãn xung. Đó là động tác nhằm
giảm chấn động khi chống chân – thông qua việc giảm góc độ các
khớp ở cổ chân, gối và hông, phản lực bị phân tán và chỉ còn một lực
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
Các giai đoạn trong một chu kỳ đi bộ
không lớn tác động lên cơ thể. Hoãn xung tốt, bước chạy trở nên nhẹ
nhàng, thời gian chuyển từ trước sang đạp sau cũng nhanh hơn, việc
đạp sau tiếp theo cũng hiệu quả hơn do các cơ có độ căng ban đầu
nhất định, nhờ đó mà tăng hoặc duy trì được tốc độ chạy.
- Thẳng đứng: Là khi điểm đặt chân trùng với điểm dọi của
TTCT – cũng là thời điểm kết thúc chống trước. Trong 1 chu kỳ, đây
là lúc TTCT ở điểm thấp nhất. Thực ra đây chỉ là thời điểm chuyển từ
chống trước sang đạp sau. Tốc độ chạy càng nhanh, TTCT càng thấp
thì sự chuyển đó cũng càng nhanh.
- Đạp sau: Là khi điểm đặt chân ở phía sau của điểm dọi trọng
tâm cơ thể. Chỉ đạp sau mới có tác dụng đưa cơ thể tiến về trước.
Đạp sau tốt là đạp nhanh, mạnh, với góc độ phù hợp và đẩy được
hông về trước. Trong mỗi chu kỳ, chỉ có giai đoạn này mới có lực để
đẩy cơ thể di chuyển về trước. Muốn chạy nhanh, phải khai thác triệt
để hiệu quả của giai đoạn này.
* Hiệu quả đạp sau tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố:
+ Trước hết là sức mạnh đạp sau của chân (trực tiếp là sức mạnh
của các cơ tham gia động tác duỗi chân; để tận dụng được sức mạnh
của chân, đạp sau phải duỗi được hết các khớp cổ chân, gối và hông).
Sức mạnh đó càng lớn, đạp sau càng mạnh, càng nhanh. Sức mạnh
các cơ càng lớn khi mặt cắt sinh lí của nó càng lớn (mặt cắt sinh lí
của 1 cơ là mặt cắt ngang qua hết các sợi cơ của cơ đó). Thông
thường, nếu không là người béo thì chu vi đùi và chu vi cẳng chân
của một người càng lớn thì sức mạnh đạp sau của người đó cũng càng
lớn. Người ta cũng đã tổng kết rằng, những VĐV chạy CLN xuất sắc
đều có gân ASin dài và chu vi cổ chân nhỏ. Gân A Sin càng dài, cổ
chân càng nhỏ thì đạp sau càng mạnh, tốc độ đạp sau càng nhanh –
những yếu tố rất có ý nghĩa đói với thành tích chạy.
+ Góc độ đạp sau (góc tạo bởi trục dọc của chân đạp sau với
đường chạy tại điểm kết thúc đạp sau). Góc đó càng nhỏ, hướng đạp
sau càng gần hướng chuyển động, hiệu quả đạp sau càng lớn (xuất
phát thấp nhanh hơn xuất phát cao cũng vì lí do này). Khi chạy, góc
độ đạp sau nhỏ 45-55
0
, còn khi đi bộ góc độ đó lớn hơn (55 – 65
0
).
+ Cấu trúc của chân cũng ảnh hưởng tới hiệu quả đạp sau. Chân
chữ bát hoặc chân vòng kiềng đều khó chạy nhanh vì lực đạp sau bị
phân tán.
+ Chất lượng đường chạy cũng ảnh hưởng tới hiệu quả đạp sau.
Mặt đường mềm, xốp hoặc trơn sẽ triệt tiêu lực đạp sau, hiệu quả đạp
sau giảm. (Chính vì vậy, người ta phải chuẩn hoá đường chạy và cho
các VĐV chạy được sử dụng giày đinh…).
Ngoài ra, khi chạy hai chân luân phiên đạp sau; nếu hai chân có
sức mạnh như nhau thì nhịp điệu chạy ổn định, nhưng thông thường ở
mỗi người, luôn có một tay thuận và một chân thuận. Tay chân thuận
thường khoẻ hơn tay, chân kia. Sức mạnh của hai chân không đều là
nguyên nhân của độ dài bước chạy không đều, cản trở việc phát huy
tốc độ chạy. Bởi vì cứ sau bước của chân thuận tốc độ được tăng thỡ
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
lại bị giảm vỡ bước của chân yếu sau đó. Để chạy tốt cũng cần phải
khắc phục tình trạng trên.
Khi chạy, khớp hông không cố định, khi đạp sau có sự xoay
quanh trục dọc, khi chân ở vị trí thẳng đứng hông bên chân đưa lăng
thấp hơn – dẫn đến hiện tượng đầu gối của chân này thấp hơn gối
chân chống.
Khác với chạy, trong đi bộ, chân chống trước phải chống trước với
chân thẳng và phải đặt từ gót chân, nên khả năng hoãn xung luôn
thẳng từ khi chạm đất cho tới khi kết thúc đạp sau và rời khỏi mặt
đất. Do phải hầu như không có, lực cản do chống trước là lớn. Để từ
chống trước sang đạp sau, cơ thể chỉ có thể nhờ vào sức mạnh đạp
sau của chân kia và quán tính. Để hỗ trợ, chân chống trước phải tì
vững trên đất, làm điểm tựa để kéo hông về trước.Khi chân trước
chạm đất, cơ thể từ trạng thái một chân chống đất chuyển sang trạng
thái hai chân chống đất. Thời gian đó kéo dài bao lâu là do chân sau
hoàn thành đạp sau và rời đất nhanh hay chậm. Trong chạy có thời
gian cả hai chân đề ở trên hông, ngược lại trong đi bộ có thời gian cả
hai chân cùng chống đất. Nếu khi đi bộ cũng có lúc hai chân cùng ở
trên không thì tức là đã chuyển qua chạy và phạm quy.
Nhìn hình trên cho thấy thời gian chống và đưa lăng khi đi và
chạy với tần số bước khác nhau. Khi đi bộ thường (với tần số 113
bước mỗi phút, thời gian hai chân cùng chạm đất trong các chu kì đi
kéo dài trên 0,1s. Khi đi với tần số 141 bước mỗi phút, thời gian trên
giảm xuống dưới 0,1s. Khi đi với tần số 195 bước mỗi phút là ta đã
bắt đầu chuyển từ đi sang chạy, thời gian có hai chân cùng chạm đất
rất ngắn, thậm chí là không có. Bằng kĩ thuật đi bộ thể thao hoàn
chỉnh, người ta vẫn có thể đi với tần số trên 195 bước mỗi phút (cụ
thể là 200 bước mỗi phút), nhưng vẫn đảm bảo luôn có một hoặc hai
chân chạm đất (tức là không có lúc nào cơ thể bay trên không, không
phạm quy). Thời gian hai chân cùng chạm đất chỉ bằng 1/3 đến 1/2
thời gian đó khi đi với tần số 113-141 bước mỗi phút. Khi chạy với
tần số càng lớn thì thời gian cho chân chạm đất càng ngắn. Đi với
chân chống luôn thẳng là đặc điểm kĩ thuật của đi bộ thể thao. Khi
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
chưa quen với kĩ thuật này, khi hoạt động của hai chân chưa thành tự
động hoá thì người đi rất vất vả, ưu việt của kĩ thuật chưa được phát
huy.
Kết thúc đạp sau, chân rời khỏi mặt đất và chuyển qua giai đoạn
đưa lăng – giai đoạn chân ở trên không. Tuỳ thuộc vào vị trí của đùi
chân lăng với đường thẳng từ TTCT hạ vuông góc với đường chạy
mà chân đưa lăng cũng bao gồm các giai đoạn nhỏ: đưa lăng sau,
thẳng đứng và đưa lăng trước. “Thẳng đứng” là thời điểm đùi chân
đưa lăng chuyển từ đưa lăng sau sang đưa lăng trước, cũng là khi
chân kia ở vị trí chống thẳng đứng. Kết thúc đưa lăng trước lại trở về
giai đoạn chống trước; hoàn thành 2 chu kì.
Cũng theo nguyên tắc lực học, khi kết thúc đạp sau, bàn chân đạp
sau rời khỏi mặt đất, chân kia còn đang đưa lăng ở phía trước, chưa
“chống trước” toàn thân ở trên không, bay về trước theo quán tính,
với tốc độ chậm dẫn đều. Tốc độ chạy lại được tăng khi chân chống
chuyên qua đạp sau và đạp sau tích cực. Động tác đưa lăng (sau và
trước) không có tác dụng làm tăng tốc độ chạy – do hướng của
chuyển động có ngược với hướng chạy – thậm chí còn cản trở do tạo
lực cản lớn của không khí, khi đưa lăng nếu cẳng chân được thu về
gần sau đùi một cách tự nhiên vẫn có tác dụng tốt:
- Đưa lăng chân từ sau – về trước là một chuyển động tròn, có
tâm là trục ngang của khớp hông. Việc thu cẳng chân về gần đùi có
tác dụng giảm bán kính của chuyển động do vậy rút ngắn được thời
gian đưa lăng, do đó hạn chế được hậu quả của động tác không thể
thiếu đó.
- Động tác thu cẳng chân nếu được thực hiện một cách tự nhiên –
như một chuyển động theo quán tính – còn có tác dụng thả lỏng các
cơ của chân vừa tham gia động tác đạp sau, nhờ vậy hoạt động của
chúng có hiệu quả và duy trì được trong khoảng hời gian dài hơn.
Trong các bài tập bổ trợ kĩ thuật chạy động tác đạp guồng gánh
xe và động tác chạy đánh gót chân chạm mông là các bài tập trực tiếp
rèn luyện kĩ năng trên.
b) Hoạt động của tay
Trong kĩ thuật chạy, hoạt động của tay cũng đóng vai trò quan
trọng nhất định: phải đánh tay để giữ thăng bằng, giữ cho trọng tâm
ổn định và đánh tay cùng với nhịp thở còn có tác dụng điều chỉnh tần
số bước chạy. Tốc độ chạy càng cao, nhu cầu thăng bằng càng lớn;
khi đã mệt mỏi, hiệu quả hoạt động của chân đã giảm, khi đó nhịp
đánh tay và nhịp thở tăng có tác dụng đối với việc duy trì hoặc tăng
hoạt động của hai chân theo tần số cần thiết – tức là vai trò của tay
càng tăng.
Để phát huy tác dụng hai tay, phải đánh so le với chân. Chuyển
động chéo cả tay và chân làm cho TTCT ít bị dao động sang hai bên
(đây là quy luật tự nhiên; ta có thể thấy có những học sinh đi cùng
chân cùng tay, nhưng khi chạy các em không thể chạy được như vậy).
Do vậy đánh tay phải luân phiên về trước – ra sau. Để giữ thăng bằng
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
đồng thời làm giảm lực cản của không khí, khi đánh về trước tay
đánh hơi khép vào trong nhưng không vượt quá mặt phẳng chia đôi
cơ thể thành hai nửa (phải –trái), khi đánh về sau hơi hướng ra ngoài.
Thực tế cho thấy, tuy chỉ là đánh tay trong không khí, ngoài việc
giữ ổn định góc độ ở khuỷu tay, không phải mang thêm trọng lượng
nào, nhưng nhiều khi tay vẫn mỏi, động tác đánh tay trở nên khó
khăn, không đảm bảo duy trì nhịp điệu phù hợp với tần số động tác
của chân. Do vậy, khi đánh tay về sau, khi cánh tay ở gần vị trí dọc
thân, góc ở khuỷu tay cần được mở rộng – tạo khoảng khắc cho các
cơ nâng tay lên cao được nghỉ ngơi. Khi cánh tay tiếp tục nâng lên
cao, về sau lại thu hẹp góc đó. Như vậy khi đánh tay, góc ở khuỷu tay
lớn nhất khi tay ở vị trí dọc thân và nhỏ nhất khi kết thúc đánh về sau
và đánh về trước.
Trong trường hợp chạy với tốc độ chậm, nguy cơ mất thăng bằng
không lớn, nhu cầu hỗ tợ để duy trì nhịp điệu chạy cần thiết không
cao (thường chỉ ở chạy các CLD và quá dài), người chạy có thể thả
lỏng hai vai và buông thả hai tay để chúng vung vẩy thả lỏng tự
nhiên; khi hết mỏi thì tiếp tục đánh tay như bình thường. Khác với ở
chạy, khi đi bộ thể thao vai trò của tay rất lớn, tới mức không thể
ngừng đánh tay. Phải chăng do suốt quá trình chạm đất, chân chống
luôn phải giữ thẳng, người đi không tận dụng được hết sức mạnh của
chân trong đạp sau, bù vào đó cần có sự hỗ trợ của tay.
c) Hoạt động của thân trên
Trong chạy thân trên không trực tiếp tác động làm tăng tốc độ di
chuyển của cơ thể, tuy nhiên tư thế thân trên phù hợp lại có ý nghĩa
tận dụng triệt để hiệu quả hoạt động của các bộ phận khác, gián tiếp
làm tăng tốc độ chạy. Có tư thế của thân trên là khi ngả về trước,
điểm dọi của TTCT chuyển về trước điểm chống, khiến phải bước
một chân lên để khỏi ngã. Tư thế đúng là khi đầu và thân trên cùng
trên một đường thẳng, các cơ mặt và cổ không bị căng thẳng (các
VĐV chạy xuất sắc đều thả lỏng được cơ ở mặt khi chạy). Độ ngả
của thân trên càng lớn, TTCT càng thấp, càng xa điểm chống trước
thì góc đạp sau càng nhỏ, hướng của lực đạp sau càng gần hướng của
chuyển động, hiệu quả đạp sau càng lớn (và ngược lại…). Mặt khác,
khi ngả thân trên cũng chính là thu hẹp bề mặt cơ thể hứng chịu lực
cản trực tiếp của không khí, do vậy làm giảm được tác hại của lực
cản đó đối với tốc độ chạy. Tuy nhiên, không phải là cứ cố ngả thân
trên về trước là tốt. Độ ngả thân trên quá lớn sẽ làm giảm độ dài bước
và phải tốn năng lượng để duy trì nó (các cơ lưng phải chịu thêm
trọng tải). Nếu ngả về trước ít hoặc không ngả lại là cản trở sự di
chuyển về phía trước của cơ thể, dẫn tới ngả người về phía sau. Rất
khó chạy nhanh ở tư thế này vì góc độ đạp sau sẽ quá lớn, lực để đẩy
người về trước còn không đáng kể.
Dù thế nào đi nữa, khi chạy không được để tụt hông vì nếu vậy
hiệu quả đạp sau sẽ giảm.
d) Sự di chuyển của trọng tâm cơ thể khi chạy
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
Khi chạy tức là đã di chuyển TTCT của mình từ vị trí này tới vị
trí khác. Khi chạy hết một cự li nào đó cũng có nghĩa là TTCT của
người chạy đã di chuyển được một cự li tương ứng – thường là dài
hơn cự li đã chạy – Bởi vì khi chạy TTCT không di chuyển trên một
đường thẳng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, khi chạy, di
chuyển của TTCT có thể ví như một viên bi lăn ở một lòng máng để
úp. TTCT ở vị trí thấp nhất (ở một bên mép của lòng máng) khi chân
chống ở vị trí thẳng đứng (điểm dọi của TTCT vuông góc với mặt
đường chạy qua điểm chống). Khi chân chống bắt đầu đạp sau, TTCT
cũng đẩy lên cao. Sau khi đạp sau và rời chân khỏi mặt đất TTCT ở
vị trí cao nhất sau khi đạp sau, rồi bắt đầu xuống thấp và thấp nhất
khi chân kia ở vị trí thẳng đứng. Như vậy, khi chạyTTCT vừa di
chuyển sang hai bên vừa di chuyển lên xuống. Sự dao động đó càng
lớn, đường di chuyển của TTCT càng dài so với cự li phải chạy, tốc
độ chạy càng chậm và sức lực ta phải bỏ ra càng lớn.
(Khác với chạy, khi đi bộ đường di chuyển của TTCT lại như di
chuyển của viên bi theo một lòng máng để ngửa; cao nhất khi ta
chống một chân ở vị trí thẳng đứng và thấp nhất là khi cơ thể đứng
đều trên hai chân).
Muốn có thành tích chạy tốt ta cần chú ý giảm các dao động sang
hai bên và dao động lên xuống của TTCT. Để giảm dao động của
TTCT sang hai bên, khi chạy phải đặt trên một đường thẳng hoặc hai
bên của đường thẳng (đường thẳng đó chính là trục dọc của đường
chạy hoặc một đường thẳng song song với đường trục đó trong ô
chạy). Để giảm dao động của TTCT theo chiều lên – xuống: Phải ổn
định góc độ đạp sau và đạp sau với góc độ nhỏ.
Việc hạn chế được các di chuyển không cần thiết của TTCT
không chỉ rút ngắn cự li chạy xuống gần với cự li quy định mà còn
tận dụng được sức mạnh đạp sau để đẩy TTCT tiến về phía trước (do
hạn chế phần sức lực sản sinh để đưa TTCT lên xuống hoặc qua 2
bên).
e) Mối quan hệ giữa tần số và độ dài của bước chạy
Trong chạy, tần số và độ dài của bước là 2 thành phần chủ yếu
quyết định tốc độ chạy.
Nếu ta chạy một cự li với độ dài trung bình của 1 bước chạy là l
(m) và với tần số x bước trong 1s thì có thể tính tốc độ chạy (v) theo
công thức: V = xl (m/s)
Rõ ràng là để tăng tốc độ chạy ta phải tăng tần số và độ dài của
bước chạy.
Nếu chạy được với bước chạy càng dài và với tần số bước (số
bước chạy được trong một đơn vị thời gian) càng cao thì tốc độ chạy
cũng càng cao. Tuynhiên, giữa độ dài bước và tần số bước lại tỉ lệ
nghịch với nhau: Độ dài của bước chạy càng dài, càng khó chạy với
tần số cao, ngược lại khi ta cố chạy với tần số bước cao ta rất khó
chạy với độ dài bước lớn. Chạy ở các cự li khác nhau đòi hỏi chạy
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
với các tốc độ khác nhau. Do đó không có một tiêu chuẩn chung cố
định về tần số và độ dài bước chạy.
Mặt khác, độ dài bước phụ thuộc vào tầm vóc của mỗi người:
người cao, có chân dài bước của họ sẽ dài ơn bước của những người
thấp, chân ngắn. Người có sức mạnh của đôi chân tốt hơn, bước chạy
của họ cũng dài hơn bước chạy của những người có chân yếu. Nếu có
chân ngắn và yếu lại cố chạy với bước dài là mắc sai lầm lớn. Để
bước dài, phải đạp sau tích cực, sức lực mau cạn kiệt, cơ thể phải
luôn ở trạng thái căng thẳng không cần thiết; do cố bước dài nên thời
gian đưa chân cũng dài thêm làm cho tần số bước giảm dẫn tới tốc độ
chạy cũng giảm. điều cơ bản là mỗi người phải chọn tần số và độ dài
bước phù hợp với tầm vóc, thẻ lực và tốc độ chạy của mình. Sao cho
không phải quá cường điệu giai đoạn đạp sau, không phải kéo dài
giai đoạn bay trên không (như chạy đạp sau trong các bài tập bổ trợ
chuyên môn chạy). Để có được sự phối hợp hài hoà đó cần có sự tập
luyện thường xuyên. Trong đó các bài tập chạy tăng tốc độ là rất có
hiệu quả. Chạy tăng tốc độ đúng là tốc độ được tăng dần (không bị
tăng đột ngột) do kết quả của việc tăng cả tần số và độ dài bước chạy
nhịp nhàng (trong khi kĩ thuật chạy đúng vẫn được duy trì) cho tới
khi không thể tăng được nữa.
Khác với đi bộ, khi chạy các cơ bắp của toàn thân (đặc biệt là các
cơ bắp của hai chân) có điều kiện thả lỏng hơn (tức là được nghỉ để
hồi phục sau khi đã dùng sức tích cực) ở giai đoạn bay trên không.
Khi chạy tần số bước có thể lên tới 5 bước/giây và độ dài của bước
chạy có thể lên tới 200cm và dài hơn… Ngoài việc phụ thuộc vào
điều kiện thể chất của mỗi người, tần số và độ dài bước chạy còn thay
đổi theo cự li chạy và ngay trong một cự li chạy thì tần số và độ dài
bước ở các đoạn khác nhau của cự li (ở đầu cự li và ở cuối của cự li)
cũng khác nhau.
Khác với chạy, trong đi bộ, việc tăng tần số và độ dài bước phải
được thực hiện trên cơ sở kĩ thuật đi vẫn phải đúng quy cách (trong
quá trình chạm đất chân luôn thẳng, không có giai đoạn cơ thể bay
trên không…). Cố bước dài thì bước tiếp theo rất khó khăn, cố tăng
tần số bước – rất dễ chuyển thành chạy, đồng thời sẽ đạp sau không
hết – ảnh hưởng không tốt tới tốc độ đi.
Nhìn chung, việc tập để chạy đúng kĩ thuật, không căng thẳng
trong trong sự phối hợp tối ưu giữa tần số và độ dài bước chạy là điều
rất quan trọng cần có ở người chạy nói chung và các học sinh tập
chạy nói riêng.
Nghiên cứu một chu kì chạy, người ta thấy rằng: để tăng tốc độ
chạy cần tăng hiệu quả đạp sau (đạp nhanh, mạnh với góc độ phù
hợp) và rút ngắn thời gian bay trên không.
5. Luật thi đấu điền kinh (nội dung chạy 100m).
a) Kích thước đường chạy:
- Mỗi VĐV có một đường chạy riêng, với độ rộng tối thiểu là
1,22m ± 0,01m. Vạch giới hạn đường chạy, vạch xuất phát, vạch đích
rộng 5cm.Tất cả các ô chạy phải có độ rộng bằng nhau (Chỉ có vạch
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
bên phía tay phải của mỗi ô chạy là nằm trong độ rộng của mỗi ô
chạy).
b) Số lượng VĐV của một đợt chạy:
- Số VĐV mỗi đợt chạy tuỳ thuộc vào số đường chạy có trên
sân, khi có đông VĐV chạy thì phải thi đấu loại (vòng loại, bán kết,
trung kết). Chọn VĐV vào vòng trong dựa vào thành tích của các
VĐV.
- Ưu tiên các VĐV xuất sắc có thành tích tốt hơn chạy ở đường
chạy giữa.
c) Xuất phát:
- Xuất phát trong chạy cự ly ngắn có 3 khẩu lệnh (“Vào chỗ” -
“sẵn sàng” - “tiếng súng nổ”).
- Trong cuộc thi đấu nội dung chạy 100m xuất phát thấp có sử
dụng bàn đạp là yêu cầu bắt buộc.
- Sau khi có lệnh “vào chỗ” các VĐV phải tiến tới vạch xuất
phát, chiếm vị trí hoàn toàn trong ô chạy của mình, phía sau vạch
xuất phát. 2 bàn tay và 1 đầu gối phải tiếp xúc với mặt đất và 2 bàn
chân tiếp xúc với bàn đạp xuất phát.
- Khi có lệnh “sẵn sàng” các VĐV phải lập tức nâng lên tới tư
thế xuất phát cuối cùng của mình trong khi vẫn giữ sự tiếp xúc của 2
tay với đất và của 2 chân với bàn đạp.
- Khi ở tư thế “vào chỗ” VĐV không được chạm vào vạch xuất
phát hoặc đất phía trước vạch xuất phát bằng tay hoặc chân của mình.
- Khi thực hiện lệnh “vào chỗ” hoặc “sẵn sàng” tất cả các VĐV
phải lập tức và không được chậm trễ ở vào tư thế đầy đủ và cuối cùng
của mình.
- Trước khi có lệnh “tiếng súng nổ” (hoặc tín hiệu phát lệnh)
VĐV đã có hành động xuất phát thì bị coi là phạm lỗi xuất phát và bị
loại ngay khỏi cuộc thi đấu. Trong trường hợp có nhiều VĐV phạm
lỗi xuất phát thì trọng tài sẽ bắt lỗi xuất phát VĐV là nguyên nhân
gây ra lỗi xuất phát.
- VĐV phải chạy đúng đường chạy của mình từ khi xuất phát tới
khi về đích. Sẽ bị chuất quyền thi đấu nếu trọng tài thấy việc làm đó
là có lợi cho thành tích của VĐV đó hoặc làm ảnh hưởng đến kết quả
thi đấu của VĐV khác.
d) Xác định thành tích:
- Có 2 cách xác định thời gian được công nhân chính thức là: Đo
thời gian bằng đồng hồ bấm giây và đo thời gian tự động từ hệ thống
chụp ảnh đích.
+ Dùng đồng hồ bấm tay:
- Thành tích của VĐV được ghi từ khi có tia lửa hoặc khói súng
(hoặc máy phát lệnh) phát ra tới khi có bất kỳ phần cơ thể nào của
VĐV (trừ đầu, trừ tay, trừ chân) chạm vào mặt phẳng tạo bởi vạch
đích và dây đích ở mép vạch gần vạch xuất phát nhất.
Phải có ít nhất 3 đồng hồ xác định thời gian của người về nhất
mỗi đợt chạy.
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
Mỗi trọng tài phải hoạt động độc lập và không được để lộ đồng
hồ của mình, không bàn luận thời gian mình đã xác định với người
khác.
Thời gian sẽ được đọc tới 1/10 giây tiếp sau đó. VD: 10”11 đọc
là 10”02.
Nếu 2 trong số 3 đồng hồ có thời gian khớp nhau và đồng hồ thứ
3 không khớp thì thời gian của 2 đồng hồ khớp sẽ là thời gian chính
thức. Nếu cả 3 đồng hồ có thời gian không khớp nhau thì thời gian
của đồng hồ ở giữa sẽ là thời gian chính thức. Nếu chỉ có 2 đồng hồ
xác định được thời gian nhưng lại không khớp nhau thì thời gian dài
hơn sẽ là thời gian chính thức.
B/ THỰC HÀNH:
1. Kĩ thuật chạy cư li 100m: Chạy ở các cự ly 60m và 80m cũng là
chạy ở cự li ngắn (CLN). Về kĩ thuật, so với chạy ở cự li 100m về cơ
bản không có gì khác, ở đây chỉ đi sâu phân tích kĩ thuật chạy 100m.
Mặc dù chạy ở bất cứ một cự li nào, đều là một quá trình liên tục
từ khi xuất phát cho tới khi về đích, nhưng để tiện cho việc phân tích
kĩ thuật, trong chạy CLN, người ta vẫn chia quá trình đó thành 4 giai
đoạn: Xuất phát, chạy lao sau xuất phát, chạy giữa quãng và về đích.
Riêng đối với chạy ở cự li 100m, sự khác biệt trong kĩ thuật ở 4 giai
đoạn đó là khá rõ ràng và đều có vai trò quan trọng đối với thành tích
của người chạy. Chính vì vậy, chỉ khi hiểu và thực hiện tốt kĩ thuật
của 4 giai đoạn đó, người ta mới có thể đạt được thành tích chạy cao
nhất so với khả năng của mình. Dưới đây là chi tiết kĩ thuật của từng
giai đoạn trong chạy 100m:
a) Giai đoạn xuất phát:
Giai đoạn này bắt đầu từ khi người chạy vào bàn đạp đến khi rời
khỏi bàn đạp. Nhiệmn vụ của giai đoạn này là tận dụng mọi khả năng
để xuất phát nhanh và đúng luật. Trong chạy 100m, để xuất phát
được nhanh, phải dùng kĩ thuật xuất phát thấp (kĩ thuật xuất phát thấp
có từ năm 1887) với bàn đạp - Hình 18a, b. Xuất phát thấp giúp ta tận
dụng được lực đạp sau để cơ thể xuất phát nhanh (do góc đạp sau gần
với góc di chuyển).
- Sử dụng bàn đạp: Bàn đạp giúp ta ổn định kĩ thuật và có điểm
tựa vững để đạp chân lao ra khi xuất phát. Nên dùng bàn đạp tách rời
từng chiếc để tiện điều chỉnh khoảng cách giữa hai bàn đạp theo
chiều ngang. Thông thường, có 3 cách bố trí bàn đạp:
Cách đóng bàn đạp kiểu phổ thông
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
+ Cách phổ thông:
Bàn đạp trước đặt sau vạch xuất phát 1 – 1,5 độ dài bàn chân và
bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài một cẳng
chân (gần hai bàn chân) của người chạy. Cách này phù hợp với
những người mới tập chạy cự ly ngắn.
+ Cách “Xa” (còn gọi là cách “Kéo dài” hay “Kéo dãn”:
Các bàn đạp được đặt xa vạch xuất phát hơn: Bàn đạp trước đặt
sau vạch xuất phát gần hai ban chân và đạp bàn đạp sau cách bàn đạp
trước một bàn chân hoặc gần hơn. Cách này thường phù hợp với
người cao, sức mạnh của chân và tay bình thường. Đóng bàn đạp theo
cách này, cự li chạy dài hơn cự li thi đấu hai bàn chân.
+ Cách “Gần” còn gọi là cách “làm gần”
Cả hai bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát hơn - bàn đạp trước
đặt cách vạch xuất phát độ dài một bàn chân (hoặc ngắn hơn), bàn
đạp sau cách bàn đạp trước chỉ còn 1-1,5 bàn chân. Bằng cách này,
tận dụng được sức mạnh của cả hai chân khi xuất phát nên xuất phát
ra nhanh, nhưng thường phù hợp hơn với những người thấp, có chân
tay khoẻ. Việc chân rời bàn đạp gần như đồng thời sẽ khó cho ta khi
chuyển qua dùng sức đạp sau luân phiên từng chân (ở trình độ thấp,
rễ xảy ra hiện bị dừng sau bước hai chân cùng nhảy ra khỏi bàn đạp).
Dù theo cách nào, trục dọc của hai bàn đạp cũng phải song song với
trục dọc của đường chạy.Khoảng cách giữa hai bàn đạp theo chiều
ngang thường là 1 - 15cm sao cho hoạt động của hai đùi không cản
trở nhau (do hai bàn đạp gần nhau quá), cũng không mất bình thường
(hướng sang hai bên do hai bàn đạp xa nhau quá). Bàn đạp đặt trước
dùng cho chân thuận (chân khoẻ hơn).
Các đinh của bàn đạp cần được đóng xuống mặt đường chạy, sao
cho bàn đạp không bị bung khỏi đường khi VĐV xuất phát.
Góc độ của mặt bàn đạp: Góc giữa mặt bàn đạp trước với mặt
đường chạy phía sau là 45 - 50
0
; bàn đạp sau là 60 - 80
0
. Cần nắm
quy luật bàn đạp càng xa vạch xuất phát, thể lực của người chạy càng
kém thì góc độ đó càng giảm (nếu ngược lại, người chạy rễ xuất phát
sớm và bị phạm quy).
* Kĩ thuật xuất phát thấp:
Trong thi đấu, sau khi đóng bàn đạp và thử xuất phát…. VĐV về
vị trí chuẩn bị đợi lệnh xuất phát. Có 3 lệnh, kĩ thuật sau mỗi lệnh
như sau:
+ Sau lệnh “Vào chỗ!”
Người chạy đi hoặc chạy nhẹ nhàng lên đứng trước bàn đạp của
mình, ngồi xuống, chống hai tay xuống đường chạy (phía trước vạch
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh
xuất phát); lần lượt đặt chân thuận vào bàn đạp trước, rồi chân kia
vào bàn đạp sau – hai mũi bàn chân đều phải chạm mặt đường chạy
(để không phạm quy). Hai chân nên nhún trên bàn đạp để kiểm bàn
đạp có vững vàng không, để có chỉnh sửa kịp thời. Tiếp đó hạ đầu gối
chân phía sau xuống đường chạy, thu hai tay về sau vạch xuất phát,
chống trên các ngón tay như đo gang. Khoảng cách giữa hai bàn tay
rộng bằng vai. Kết thúc, cơ thể ở tư thế quỳ trên gối chân phía sau
(đùi chân đó vuông góc với mặt đường chạy), lưng thẳng tự nhiên,
đầu cũng thẳng, mắt nhìn về phía trước, vào một điểm trên đường
chạy cách vạch xuất phát 40 - 50cm; TTCT dồn lên hai tay, bàn chân
trước và đầu gối chân sau. ở tư thế đó, người chạy chú ý nghe lệnh
tiếp.
+ Sau lệnh “Sẵn sàng”
Người chạy từ từ chuyển người về trước, đồng thời cũng từ từ
nâng mông lên cao hơn hai vai (từ 10cm trở lên tuỳ khả năng mỗi
người). Gối chân sau rời mặt đường và tạo thành góc 115 - 138
0
trong
khi góc này ở chân trước nhỏ hơn - chỉ là 92 - 105
0
, hai cẳng chân
hầu như song song với nhau. Hai vai có thể nhô về trước vạch xuất
phát 5 - 10cm tuỳ khả năng chịu đựng của hai tay. Cơ thể có bốn
điểm chống trên mặt đường chạy là hai bàn tay và hai bàn chân. Giữ
nguyên tư thế đó và lập tức lao ra khi nghe lệnh xuất phát (H.7b).
+ Sau lệnh “Chạy!” - hoặc tiếng súng lệnh.
Xuất phát được bắt đầu bằng đạp mạnh hai chân. Hai tay rời mặt
đường, đánh so le với chân (vừa để giữ thăng bằng, vừa để hỗ trợ lúc
đạp sau của hai chân). Chân sau không đạp hết, mà mau chóng đưa
về trước để hoàn thành bước chạy thứ một. Chân phía trước phải đạp
duỗi thẳng hết các khớp rồi mới rời khỏi bàn đạp, đưa nhanh về trước
để thực hiện và hoàn thành bước chạy thứ hai. Khi đưa lăng, các mũi
bàn chân không chúc xuống để không bị vấp ngã.
b) Giai đoạn chạy lao:
Giai đoạn này bắt đầu từ khi người chạy rời khỏi bàn đạp tới khi
chạy đạt tốc độ cao nhất của mình. Nhiệm vụ của giai đoạn này là
mau chóng đạt được tốc độ tối đa để chuyển sang chạy giữa quãng.
Về mặt lí thuyết, đoạn chạy lao là đoạn chạy từ khi cơ thể ở trạng
thái tĩnh (v = 0) tới khi chạy với tốc độ tối đa của bản thân (v =
vmax). Đoạn chạy này càng ngắn thì người chạy càng sớm đạt tới tốc
độ chạy tối đa của mình và đoạn đường được chạy với tốc độ cao
càng dài, do vậy thành tích càng tốt (và ngược lại ). Với Sinh viên,
đoạn này nên chỉ dùng 12- 15 bước (tối đa là 17 bước) và khi đó phải
đạt 90 – 95% tốc độ tối đa của mình. Trong chạy lao, điểm đặt chân
Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh 73 74 Đề cương học phần GDTC 1 - Thể dục + Điền kinh